Thiên Môn Hệ Liệt - Chương 65

10

Về

nước

“Trời xanh xanh, đất bao la.

Chim nhạn về nam mong nhớ quê nhà;

Vợ con già trẻ nay còn đó?

Một mảnh hồn trung với nước non!

Gió vi vu, mây lững lờ,

Dứt lòng đau gọi tên con mẹ chờ

Nghiệp trai sao thích đường chinh chiến

Da ngựa bọc thây về cố hương!”

Tiếng hát ngâm nga đầy bi thiết vang vọng trên thảo nguyên rộng lớn, gió lạnh như cắt, hơn ba nghìn tướng sĩ Tân Quân Doanh may mắn sống sót ngắm ánh trăng sáng vằng vặc trên bầu trời đêm, bất giác đồng thanh hát khúc ca dao nhớ quê. Mấy đống lửa cháy phừng phừng dần nuốt trọn xương cốt mười mấy tướng sĩ trọng thương không thể chữa trị. Những người sống sót nhìn làn khói đen bốc lên phía xa, cầu khấn cho hương hồn trung nghĩa của đồng đội có thể bay theo gió về tới quê nhà.

Võ Thắng Văn lo lắng nhìn các tướng sĩ Tân Quân Doanh ngồi dưới đất, cảm thấy bế tắc. Sau khi bị đội thiết kỵ Ngõa Thích nhiều gấp mấy chục lần truy kích bao vây, Tân Quân Doanh tổn thất nặng nề, sĩ khí tuột dốc cực độ, nếu tiếp tục như vậy, e rằng sớm muộn cũng không chiến mà tự tan tác. Đúng lúc này, y đột nhiên nghe thấy có người vỗ kiếm cuồng ca, tiếng ca vang vọng hào hùng, khác hẳn với tiếng hát bi ai vừa rồi. Võ Thắng Văn nhìn về hướng ấy, thấy Vân Tương áo xanh như liễu đang một mình vỗ kiếm hát vang. Tiếng hát của gã lây sang Võ Thắng Văn, y cũng bất giác rút bội kiếm vỗ giáp ngực, cất cao tiếng hát hòa cùng Vân Tương:

“Lang yên* cuồn cuộn biên thùy gấp,

Ta mang đao từ biệt mẹ cha;

Tung vó ngựa phá núi Hạ Lan,

Chỉ mong người nhà mãi bình an!”

Tiếng ca của họ dần truyền cảm hứng sang cho những tướng sĩ đang âu sầu tuyệt vọng, càng lúc càng nhiều tướng sĩ hòa vào tiếng hát của họ, dùng tiếng hát hào hùng ấy để tiễn đưa các tướng sĩ tử nạn.

Phía Đông dần sáng tỏ, bình minh đã tới gần, các tướng sĩ không hẹn mà cùng tụ lại xung quanh Vân Tương, trong cặp mắt mệt mỏi đầy vẻ mong chờ và hy vọng. Vân Tương nhảy lên lưng ngựa, nhìn lướt từng người, trầm tĩnh cất cao giọng nói: “Tin rằng mọi người đã hiểu tình cảnh hiện giờ của chúng ta, những kẻ đuổi sát sau lưng chúng ta không còn là đội quân ô hợp bình thường, mà là tứ vương tử Lãng Đa của Ngõa Thích và đội thiết kỵ tinh nhuệ của y. Trận chiến bên sông Lạp Mộc Luân thiếu chút nữa khiến chúng ta bị tiêu diệt toàn quân, nhưng chúng ta lấy một vạn quân sức cùng lực kiệt đấu với mười vạn quân tinh nhuệ của Ngõa Thích, không những đánh người Ngõa Thích trọng thương, còn thành công đột phá vòng vây, tuy bại mà vinh. Ta rất tự hào vì mọi người, mọi người là niềm kiêu hãnh của quân nhân Đại Minh!”

Vân Tương nhìn khắp các tướng sĩ, vui mừng vì bắt gặp vẻ kiên nghị trong ánh mắt họ, gã nói tiếp: “Chúng ta tung hoành ngang dọc mấy nghìn dặm trong lòng Ngõa Thích, nhiều lần đánh bại đối thủ đông hơn mình gấp mấy lần, trảm sát mấy vạn đầu giặc, đánh cho khả hãn Ngõa Thích không thể không hạ lệnh cho Lãng Đa trở về cứu nước, mục đích chiến lược của lần Bắc phạt này đã đạt được, những hy sinh và máu đổ của mọi người bao ngày nay đều không uổng phí, chúng ta đã thành công dẫn dụ đại quân Ngõa Thích về đại thảo nguyên, giải trừ mối nguy cho Đại Đồng!”

Các tướng sĩ lộ vẻ vui mừng, nhưng vừa nhớ lại những huynh đệ tử nạn và con đường lành dữ khó lường phía trước, niềm vui ấy lập tức tan biến. Như nhìn thấu tâm sự của tướng sĩ, Vân Tương trầm giọng nói: “Bây giờ, nguyện vọng lớn nhất của chúng ta là về nước an toàn, nhưng muốn thực hiện được nguyện vọng này, e rằng không dễ.”

Một thiên hộ râu ria xồm xoàm cao giọng nói: “Công tử có mệnh lệnh cứ sai bảo, chúng ta sẽ nghe công tử. Chúng ta có thể sống sót trở về thì tốt, nếu không may chôn thân ở thảo nguyên nghìn dặm này cũng đành.”

“Không sai!” Các tướng sĩ nhao nhao đồng tình: “Dưới sự truy đuổi ngăn chặn của mười vạn quân Ngõa Thích, chúng ta có thể sống tới bây giờ đã là một kỳ tích, cơ trí mưu lược của công tử khiến chúng ta tâm phục khẩu phục, tin rằng công tử sẽ tiếp tục đưa chúng ta tạo ra những kỳ tích lớn hơn.”

Sự tin tưởng của các tướng sĩ khiến Vân Tương vô cùng cảm động, y vung roi chỉ về phía Nam, cất cao giọng nói: “Nếu chúng ta muốn về nước, đi về phía Nam để tới Đại Đồng dĩ nhiên gần nhất, nhưng tin rằng Lãng Đa cũng biết điểm này, chắc chắn sẽ đặt mai phục trùng trùng trên đường về Nam, chỉ đợi chúng ta chui đầu vào lưới.” Vân Tương nói rồi lại vung roi ngựa chỉ về phía Tây: “Vì vậy chúng ta phải hành động bất ngờ, đi thẳng về phía Tây vượt qua Hoàng Hà, hoặc từ Cam Thiểm, hoặc từ Tây Vực mênh mông trở về nước.”

Tuy các tướng sĩ vô cùng tin tưởng Vân Tương, nhưng nghe xong kế hoạch này bất giác đưa mắt nhìn nhau, binh sĩ bình thường chẳng nói làm gì, song những tướng lĩnh thông thuộc địa lý như Võ Thắng Văn, Triệu Văn Hổ đều lộ vẻ kinh ngạc. Võ Thắng Văn lên tiếng đầu tiên: “Từ đây đi Tây Vực muôn núi ngàn sông, phía trước là hoang mạc Qua Bích, việc ăn uống của bấy nhiêu người chúng ta phải giải quyết thế nào?”

“Đúng vậy!” Triệu Văn Hổ cũng phụ họa: “Dù dọc đường có mấy bộ lạc tản mác, nhưng hoang mạc Qua Bích cằn cỗi không nuôi được nhiều trâu bò, vốn không đủ cho bấy nhiêu người chúng ta. Hơn nữa chúng ta đã sức cùng lực kiệt, muốn đi vòng hơn mấy nghìn dặm, e rằng không đợi người Ngõa Thích động thủ thì chúng ta đã chết đói, chết khát, chết mệt trên đường rồi.”

Vân Tương đưa mắt nhìn hai người, hỏi vẻ không vui: “Các người không tin kế hoạch của ta?”

Triệu Văn Hổ vội nói: “Mạt tướng không dám, nhưng kế hoạch này quả thực quá điên cuồng, mạt tướng khó tránh băn khoăn trong lòng.”

Vân Tương cười lạnh nói: “Chúng ta Bắc phạt lần này vốn đã rất điên cuồng, điên cuồng thêm một lần thì đã sao?” Đoạn gã giơ roi chỉ về bốn phía: “Bất luận chúng ta đi về Nam hay về Đông đều có trọng binh của Ngõa Thích canh phòng cẩn mật, một khi bị chúng giữ chân, chúng ta sẽ bị Lãng Đa đuổi kịp, rơi vào vòng vây trùng trùng của quân tinh nhuệ Ngõa Thích, lặp lại vết xe đổ ở bờ sông Lạp Mộc Luân. Phía Tây Hoàng Hà là hoang mạc Qua Bích hẻo lánh cằn cỗi, sẽ không có người Ngõa Thích cản đường, Lãng Đa quyết không ngờ chúng ta mạo hiểm đi vào chỗ chết, y cũng không dám dẫn đại quân đuổi theo vào hoang mạc Qua Bích, chúng ta đành đi vào chỗ chết để tìm đường sống thôi.”

Võ Thắng Văn trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng vẫn lắc đầu than: “Chỗ chết thì là chỗ chết, nhưng liệu có tìm được đường sống không cũng khó nói lắm. Cơ hội thành công của kế hoạch này quả thực rất mong manh, ta không thể để công tử đưa các huynh đệ còn sống sót vào tuyệt địa như vậy.”

Trong những trận ác chiến liên tiếp ở lần Bắc phạt này, nhờ mưu lược và trí tuệ, Vân Tương đã giành được sự tin tưởng và tôn trọng của các tướng, đứng đầu là Võ Thắng Văn, nhưng kế hoạch đi vòng phía Tây trở về quả thực quá điên cuồng, vì vậy Võ Thắng Văn cũng lần đầu tiên đứng ra phản đối. Trước sự chất vấn và phản đối của y, Vân Tương hỏi vặn lại: “Thống lĩnh liệu có kế hoạch gì hay hơn không? Nếu không có thì đừng ngăn cản nữa. Hiện giờ Lãng Đa dẫn đại quân đuổi sát sau lưng, chúng ta không có thời gian tranh luận đắn đo. Võ soái sinh thời đã giao Tân Quân Doanh cho ta, ta sẽ có trách nhiệm đến cùng với nó. Nếu thống lĩnh còn tôn trọng di mệnh của cha mình, thì xin hãy phục tùng sự chỉ huy của ta.”

Thấy Vân Tương đưa di mệnh của phụ thân ra áp chế mình, Võ Thắng Văn giận đỏ mặt, bất giác trợn trừng mắt nhìn gã. Vân Tương thản nhiên đối diện với ánh mắt của Võ Thắng Văn, không hề nhượng bộ. Võ Thắng Văn nhìn Vân Tương hồi lâu, cuối cùng lòng tôn trọng di mệnh của phụ thân và niềm tin tưởng mơ hồ vào Vân Tương đã thắng, y bất đắc dĩ gật đầu: “Được! Ta phục tùng mệnh lệnh của công tử, hy vọng lần này ngươi có thể tiếp tục tạo ra kỳ tích.”

Võ Thắng Văn là thống lĩnh đã phục tùng, các tướng sĩ khác cũng không có dị nghị, thế nhưng không ít tướng sĩ vẫn không che giấu nổi vẻ ngờ vực trong ánh mắt. Vân Tương thấy vậy ung dung nói: “Các ngươi không cần lo, ta đã sai Tiêu bá và Trương Bảo đi về phía Tây dò đường, tuy có khó khăn, nhưng không có quân Ngõa Thích chặn đường đâu.”

“Nhưng không có lương thảo, chúng ta sao có thể vượt qua hoang mạc Qua Bích?” Lý Hàn Quang là tổng quản trung quân, dĩ nhiên quan tâm nhất tới vấn đề lương thực. Vân Tương gật đầu nói: “Vì vậy trước khi đi về phía Tây, chúng ta phải bổ sung lương thực lần cuối cùng.”

“Bổ sung thế nào?” Triệu Văn Hổ chần chừ nói: “Hiện giờ các bộ lạc Ngõa Thích đã hễ nghe tiếng chúng ta là khiếp sợ, chỉ cần chúng ta vừa xuất hiện, dân du mục trong chu vi trăm dặm sẽ đuổi bò dê chạy sạch, càng ngày càng khó tìm được lương thảo.”

Lý Hàn Quang cũng đồng tình than: “Đúng vậy, chúng ta dừng ở đây một đêm, tin rằng trong vòng trăm dặm sẽ không tìm được một con bò dê, một hạt lương thực nào.”

“Thật sao? Ta thấy chưa chắc.” Vân Tương thoáng lộ nụ cười nhạt: “Ta dám khẳng định cách đây chưa đầy năm mươi dặm sẽ có lương thực chúng ta cần, thậm chí là có ngựa.”

Các tướng sĩ đưa mắt nhìn nhau, lộ vẻ nghi ngờ. Vân Tương giơ roi ngựa chỉ về phía Bắc: “Các ngươi quên mất Lãng Đa điện hạ đang ở sát sau lưng chúng ta à?”

Võ Thắng Văn trước còn hơi nghi hoặc, nhưng lập tức vỡ lẽ, thất thanh nói: “Ngươi… ý ngươi là cướp lương thực từ tay truy binh của Ngõa Thích?” Thấy Vân Tương thản nhiên gật đầu, y bất giác lắc đầu quầy quậy: “Điên rồi! Đúng là điên thật rồi! Hơn ba nghìn quân đã kiệt sức chúng ta lại muốn cướp lương thực từ tay mười vạn đại quân của Ngõa Thích?”

“Không được mười vạn!” Vân Tương đính chính lại: “Theo lý, chỉ cần một đến ba vạn tinh binh đã đủ đối phó với hơn ba nghìn tàn quân của chúng ta, bởi vậy Lãng Đa không cần thiết phải lãng phí binh lực dẫn mười vạn đại quân truy kích, nhiều nhất y chỉ dẫn ba vạn kỵ binh đuổi theo thôi, binh lực còn lại sẽ phục sẵn trên đường về Nam của chúng ta để đề phòng chúng ta trốn về nước.”

“Dù là như vậy, chúng ta cũng không thể đối phó với ba vạn người!” Võ Thắng Văn vẫn lắc đầu.

Vân Tương gật đầu nói: “Lấy ba nghìn địch ba vạn, chắc chắn là lấy trứng chọi đá, nhưng nếu lấy ba nghìn đánh một nghìn mà không thể thắng, vậy chúng ta cũng nên bỏ mình ở đại thảo nguyên là vừa.”

“Ba nghìn đánh một nghìn?” Võ Thắng Văn cũng như mấy thiên hộ khác, vẻ mặt đầy ngờ vực. Chỉ có Triệu Văn Hổ ngẫm nghĩ quan sát địa hình xung quanh, khóe miệng dần lộ nụ cười lĩnh hội, khẽ gật đầu nói: “Thì ra công tử kiên trì ở lại đây một đêm, đồng thời hỏa táng các huynh đệ bị thương nặng mà chết chính là muốn dùng ánh lửa dụ truy binh tới.”

Vân Tương vỗ tay than: “Triệu tướng quân hiểu rõ lòng ta, nếu là ngươi chỉ huy thì sẽ dụng binh thế nào?”

Triệu Văn Hổ quan sát tỉ mỉ địa hình xung quanh, chỉ thấy các tướng sĩ lúc này đang đứng trên một ngọn đồi thoải, dưới chân đồi là một con sông rộng mấy chục trượng uốn lượn chảy qua đại thảo nguyên xanh mướt. Y gật đầu trầm tư: “Tối qua lúc chúng ta qua sông, đã phái người đo thử độ sâu của nước, trong mấy dặm thượng hạ du cũng chỉ có khúc này tương đối cạn có thể lội qua. Hơn ba nghìn người chúng ta đã phải mất khoảng một canh giờ mới qua hết sông. Nếu người Ngõa Thích đuổi theo ánh lửa trong đêm, cũng chỉ có thể qua sông ở đây. Nếu đợi chúng qua sông được khoảng một, hai nghìn người, chúng ta lấy nhàn đánh mệt, đột nhiên xông từ đồi xuống, chắc chắn có thể đánh bại một, hai nghìn binh tướng đã mệt lả vừa qua sông của chúng. Lãng Đa cho dù nhiều nhân mã cũng chỉ có thể đứng ở bờ bên kia lo sốt vó.”

Vân Tương gật đầu khen ngợi: “Lúc qua sông đêm qua ta đã lưu ý thấy con mưa lớn mấy hôm trước khiến nước sông dâng cao, nơi cạn nhất cũng sâu ngang bụng, gần đây lại không có cây cối để bắc cầu, muốn qua sông quả thực không dễ. Nếu là ngày trước, Lãng Đa chưa chắc đã mạo hiểm qua sông, nhưng hiện giờ y sẽ cho rằng chúng ta là con chim sợ nỏ, chỉ mong chạy trốn mà không dám phản kích, vì vậy chúng ta sẽ cho y nếm mùi.”

Võ Thắng Văn cũng hiểu ra, phấn khích vỗ tay nói: “Hay! Đi ngược lại suy nghĩ của chúng, tấn công chúng lúc không phòng bị, để người Ngõa Thích biết Tân Quân Doanh chúng ta không phải dễ ức hiếp.”

Lúc nói chuyện chợt thấy bờ đối diện có người phi ngựa tức tốc chạy đến, cho ngựa dừng lại ở bên bờ sông, mọi người nhìn kỹ lại, láng máng nhận ra là đệ tử tục gia Thiếu Lâm La Nghị. Vân Tương hỏi vọng từ bờ bên kia lại: “Truy binh còn bao xa?”

La Nghị đáp với sang: “Còn cách nơi này chưa đầy bốn mươi dặm!”

“Tiếp tục thám thính!” Vân Tương vừa dứt lời, La Nghị lập tức thúc ngựa lao đi. Triệu Văn Hổ thấy vậy sực hiểu ra, nói: “Chẳng trách tối qua không thấy La Nghị và mấy sư điệt đầu trọc của y, thì ra công tử lòng đã sớm tính đến đả thảo vi một lần.”

“Đả thảo vi” vốn là cách gọi của người du mục chỉ việc đi săn mùa thu, sau bị người Ngõa Thích dùng chỉ việc vào quan nội cướp bóc. Tân Quân Doanh sau khi đi sâu vào lòng địch, cũng nhờ vào cách cướp bóc các bộ lạc Ngõa Thích để giải quyết chuyện lương thảo, bởi vậy cũng gọi cách cướp bóc các bộ lạc Ngõa Thích là “đả thảo vi”, nhưng xem truy binh Ngõa thích là mục tiêu “đả thảo vi” thì đây là lần đầu.

Vân Tương mỉm cười gật đầu, vung tay ra lệnh: “Mọi người lùi vào lùm cỏ chuẩn bị, nghe hiệu lệnh ta xuất kích.”

Tân Quân Doanh trải qua lễ tế và chiến hỏa, sớm đã trở thành một đội quân sắt thép thực thi mệnh lệnh nghiêm ngặt, lập tức lui vào lùm cỏ dưới đồi, người ngựa cúi thấp, im lặng chờ hiệu lệnh. Hơn ba nghìn binh mã không hề nghe thấy một tiếng động nhỏ nào.

Vân Tương nằm phục ở một bụi cỏ trên đỉnh đồi, lặng lẽ chờ đợi truy binh xuất hiện. Chẳng bao lâu sau thấy La Nghị và mấy võ tăng thúc ngựa trở về, băng qua chỗ nước nông nhất. Thấy Vân Tương vẫy tay ra hiệu, họ dồn dập phi ngựa tới trước mặt gã. La Nghị nhảy xuống ngựa, giao dây cương cho một võ tăng phía sau, quệt mồ hôi đầy mặt ngồi xuống bên cạnh Vân Tương, vội vàng nói: “Người Ngõa Thích còn cách đây khoảng hơn mười dặm thôi, nhân số khoảng hai vạn năm nghìn, đều là kỵ binh giáp nhẹ.”

Vân Tương gật đầu, gã đã nhìn thấy cuối đường chân trời, các kỵ thủ như nước lũ cuồn cuộn tràn tới, bên tai dường như đã có thể nghe thấy tiếng vó ngựa long trời lở đất, giống như tiếng trống trận vang lên giữa thảo nguyên hoang vu vắng lặng.

“Đến rồi ư?” Võ Thắng Văn bò tới sát cạnh Vân Tương, khẽ khàng hỏi. Ánh mắt y lấp loáng lửa thù hận, dường như nhớ lại trận thảm bại của quân Trấn Tây và cái chết thảm của phụ thân.

Vân Tương gật đầu không nói, ba người lặng lẽ nhìn hơn hai vạn kỵ binh Ngõa Thích đến bờ bên kia sông. Sau một hồi náo loạn, người Ngõa Thích phát hiện chỉ có một chỗ nước nông có dấu vết của Tân Quân Doanh vượt sông để lại, mấy tên du kỵ chia ra chạy tới thượng và hạ du tìm nơi qua sông, những kẻ khác bắt đầu lục tục qua sông ở chỗ dòng nước xiết ngập ngang bụng. Vì nước chảy xiết, kỵ binh lội qua sông cũng rất chậm chạp, hơn hai vạn người qua sông e rằng phải mất hơn nửa ngày.

Người Ngõa Thích cơ hồ không đủ nhẫn nại để đợi tiếp, chia ra hai toán mỗi toán năm nghìn quân chạy tới thượng và hạ du tìm nơi qua sông. Số binh tướng còn lại bị chủ soái thúc giục, nhao nhao tăng tốc qua sông. Bôn ba đường dài truy đuổi lại phải cố gắng lội qua sông, kỵ binh Ngõa Thích qua hết sông thì thể lực cũng cạn kiệt, lũ lượt cởi trang phục ướt sũng phơi trên đất, đợi đợt nhân mã tiếp theo lội qua.

Thấy binh mã qua sông đã quá nghìn người, Võ Thắng Văn không nhịn được nhỏ giọng thúc giục: “Cũng được rồi, có thể động thủ chưa?”

Vân Tương vẫn thản nhiên, miệng ngậm một cọng cỏ đủng đỉnh nói: “Đợi thêm đi, đừng vội. Khó khăn lắm mới gặp được mảnh đất tốt này, lần này đả thảo vi nhất định phải thắng lợi trở về.”

Thấy người Ngõa Thích qua sông càng lúc càng nhiều, trước mặt đã có khoảng ba nghìn nhân mã, Vân Tương mới giơ trường kiếm trong tay lên, mấy trăm cung tiễn thủ lập tức bò lên đỉnh đồi, giương cung chĩa về phía người Ngõa Thích áo giáp xộc xệch bên dưới. Vân Tương chỉ trường kiếm xuống dưới, tức thì mấy trăm mũi tên rít gió vun vút bay về phía người Ngõa Thích không hề phòng bị như châu chấu.

Trong toán người túm tụm thành một đống vang lên tiếng kêu la chói tai, mấy trăm mũi tên dường như không hề bắn trượt mũi nào, các cung tiễn thủ lại ung dung lắp tên bắn tiếp. Sau bảy tám lượt mưa tên, ba nghìn binh mã của Ngõa Thích đã ngã xuống quá nửa, số còn lại nháo nhác chạy trốn khắp nơi, tránh xa khỏi làn mưa tên thình lình ập tới, chỉ có số ít quân Ngõa Thích miễn cưỡng giương cung bắn trả, ba nghìn nhân mã chưa kịp tiếp chiến đã bị đánh tan tành, quân Ngõa Thích bờ bên kia thấy vậy cũng không dám qua sông tiếp, bởi một khi xuống nước sẽ trở thành bia sống của đội cung tiễn thủ.

Vân Tương thấy đội hình Ngõa Thích đã rối loạn, dũng khí mất sạch, lập tức bật dậy, nhảy lên con chiến mã đang nằm phục sát đất, giật dây cương, chiến mã hí vang đứng dậy, Vân Tương giơ kiếm hô lớn: “Xông lên!” Nói rồi gã thúc ngựa đi đầu lao xuống đồi cỏ. Võ Thắng Văn và La Nghị sợ gã gặp nguy hiểm, vội thúc ngựa đuổi tới bên cạnh, ba người cùng sánh vai dẫn quân xông về phía người Ngõa Thích đang chạy tán loạn tứ phía.

Hơn hai nghìn tướng sĩ Tân Quân Doanh thủ thế chờ tấn công theo sát phía sau ba người, từ trên đồi cỏ phi ngựa lao xuống, hò hét lao vào người Ngõa Thích áo giáp xộc xệch. Người Ngõa Thích vốn không ngờ ba nghìn tàn binh của Tân Quân Doanh dám quay lại phản kích nên hoàn toàn không phòng bị, vừa chống lại đã bị vỡ trận, chạy trốn khắp nơi, trận chiến mau chóng trở thành trận đồ sát mà ưu thế nghiêng hẳn về một bên. Người Ngõa Thích ở bờ sông đối diện sợ hãi kêu lên thảng thốt, nhưng không giúp được gì. Bất đắc dĩ, Lãng Đa đành phải hạ lệnh cho tiễn thủ bắn loạn xạ, không để tâm đến sự sống chết của quân mình nữa.

Làn tên bắn từ bờ đối diện tuy không chuẩn xác, nhưng cũng gây ra uy hiếp không nhỏ cho Tân Quân Doanh, có không ít tướng sĩ trúng tên ngã ngựa. Vân Tương thấy vậy bèn vung kiếm ra lệnh cho kỵ binh tạm lui, còn cung tiễn thủ ở trên đồi cỏ cầm khiên bắt đầu lao xuống càn quét chiến trường. Lương khô, rượu, thịt khô tùy thân và những chiến mã mất chủ của người Ngõa Thích đã trở thành chiến lợi phẩm của Tân Quân Doanh.

“Người Ngõa Thích đã qua sông từ thượng du rồi!” Phía xa vang lên tiếng cấp báo của một du kỵ, đó là võ tăng Thiếu Lâm phụ trách giám sát người Ngõa Thích ở thượng du. Vân Tương thấy vậy đành lệnh cho Tân Quân Doanh lập tức rút lui, tránh bị truy binh của Ngõa Thích đeo bám. Khi hoàng hôn buông xuống, bên con sông nhỏ chỉ còn xác người la liệt và máu tươi đầm đìa cùng tiếng rên rỉ và kêu la thảm thiết của những kẻ bị thương…

Sau khi Tân Quân Doanh bỏ lại người Ngõa Thích thoát ly chiến trường, Vân Tương cuối cùng cũng ghìm cương ngựa, đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy trên yên các tướng sĩ treo đầy lương khô, thịt khô và rượu thu gom được. Có người sau yên còn buộc cả chiến mã bắt được, gã quay đầu sang tổng quản trung quân Lý Hàn Quang nói: “Mau đi kiểm kê tổn thất và chiến lợi phẩm.”

Lý Hàn Quang lập tức đưa người đi điểm qua toàn quân, sau đó về bẩm báo với Vân Tương: “Lương khô và thịt khô thu hoạch được đại khái đủ cho nhu cầu mười ngày của toàn quân, ngoài ra còn bắt được hơn bảy trăm chiến mã, nhưng chúng ta cũng bị tổn thất bốn trăm sáu mươi tám huynh đệ.”

Vân Tương gật đầu buồn bã, gã lấy túi rượu trên yên ngựa, giơ lên trầm giọng nói với các tướng sĩ: “Ngụm này để tiễn đưa các huynh đệ tử nạn của chúng ta.” Nói rồi gã mở nút túi, đổ rượu xuống đất.

Các tướng sĩ nhao nhao giơ túi rượu, nghiêm trang đổ rượu xuống đất. Vân Tương lại nâng túi rượu lên, cất cao giọng nói với đoàn quân: “Ngụm thứ hai để chúc mừng đại thắng hôm nay của chúng ta, uống!”

Các tướng sĩ phấn chấn đồng thanh hô lớn, ngửa mặt dốc rượu uống. Võ Thắng Văn uống một ngụm lớn rượu mạnh, chẳng buồn quẹt miệng, thúc ngựa tới cạnh Vân Tương, y nâng túi rượu lên chạm với Vân Tương, hô lớn: “Ngụm rượu thứ ba, chúc chúng ta có thể về nước bình an dưới sự thống lĩnh của Vân công tử!” Trải qua trận thắng vừa rồi, y đã hoàn toàn tâm phục khẩu phục Vân Tương, không còn nghi ngờ kế hoạch đi vòng nghìn dặm để trở về của gã nữa.

Các tướng sĩ đồng thanh hoan hô: “Chúc Vân công tử dẫn chúng ta về nước bình an!”

Sự tín nhiệm của mọi người khiến Vân Tương vô cùng cảm động, gã gật đầu với Võ Thắng Văn và các tướng sĩ, giơ cao túi rượu, hào khí vạn trượng, cao giọng nói: “Được! Uống nốt ngụm rượu cuối cùng chúc chúng ta về nước bình an! Cạn!”

Các tướng sĩ đồng thanh hô lớn, ngửa mặt uống một hơi dài, mãi đến khi không còn giọt nào mới thôi. Sau đó họ cùng ném túi rượu lên trời, theo sát sau Vân Tương và Võ Thắng Văn, thúc ngựa phi thẳng về phía Tây…

Mấy ngày sau, sông Hoàng Hà cuồn cuộn sóng đã ở phía xa thì thấy ở bên bờ có hai người cưỡi ngựa vội vã lao tới, đó là Tiêu bá và Trương Bảo được Vân Tương phái đi dò đường về phía Tây Hoàng Hà. Hai người thúc ngựa đến trước mặt Vân Tương, Tiêu bá gật đầu thưa: “Lão nô không làm nhục sứ mạng, đã thu xếp ổn thỏa theo lệnh của công tử, thuyền qua sông đã chuẩn bị xong.”

Vân Tương giục ngựa đến bên bờ Hoàng Hà, chỉ thấy bên bờ có mười mấy chiếc thuyền đang đậu, gã quay đầu nói với Võ Thắng Văn: “Phái mấy huynh đệ thông thuộc thủy tính chèo thuyền sang bờ bên kia rồi đốt đi, chỉ để lại một chiếc thuyền trở về thôi.”

“Đốt đi?” Võ Thắng Văn thoáng ngạc nhiên: “Chúng ta không qua sông sao?”

Vân Tương gật đầu, nhìn lên thượng du Hoàng Hà phía xa, ung dung nói: “Đại quân lội xuống chỗ nước cạn ngược dòng đi lên thượng du, cách ngoài hai mươi dặm hãy lên bờ, sau đó đi về phía Nam đến Thiên Đầu Quan hoặc Ninh Vũ Quan.”

“Đi Thiên Đầu, Ninh Vũ Quan?” Võ Thắng Văn ngạc nhiên hỏi: “Chúng ta không đi vòng về phía Tây sao?”

Vân Tương gật đầu cười nói: “Đó là mưu kế để đánh lừa truy binh, xin thứ lỗi cho ta lúc đầu không nói rõ với tướng quân.”

Võ Thắng Văn nhìn Vân Tương bằng ánh mắt ngỡ ngàng, ngây người hỏi: “Mưu kế đánh lừa truy binh? Đánh lừa thế nào?”

Vân Tương than: “Trận phục kích mấy ngày trước, chúng ta có không ít huynh đệ bị thương rơi vào tay Lãng Đa, lúc trước ta cố ý nói rõ ý đồ chiến lược vượt sông Hoàng Hà đi vòng về phía Tây với toàn quân, thật ra chính là muốn mượn lời tướng sĩ bị thương bị bắt nói lại cho Lãng Đa nghe. Ta biết các tướng sĩ bị bắt đều là tráng sĩ cứng cỏi, quyết không bán đứng hành tung của chúng ta, nhưng Lãng Đa không phải kẻ ngốc, các tướng sĩ bị bắt càng muốn che giấu ý đồ đi về phía Tây của chúng ta, Lãng Đa càng dễ dàng đoán được kế hoạch đó. Để kế hoạch này trông thật sự giống, lúc trước ta đã không tiết lộ với bất kỳ ai.”

Võ Thắng Văn đã hiểu ra đôi chút, khẽ gật đầu nói: “Chúng ta lội nước đi ngược dòng lên, có thể che giấu hành tung, còn thuyền bị đốt có thể dụ Lãng Đa tới bờ đối diện, nhưng sau khi y qua sông nếu không phát hiện dấu vết của đại đội nhân mã để lại, liệu có sinh nghi không?”

“Võ tướng quân không cần lo lắng.” Tiêu bá ở bên cười nói xen vào: “Mấy hôm nay lão nô đã bí mật đi về phía Tây, bỏ nhiều tiền mua chuộc một bộ lạc du mục, để họ bắt đầu đi từ bờ bên kia Hoàng Hà thẳng về Tây, dấu vết họ để lại sẽ khiến Lãng Đa hiểu lầm là của chúng ta, đợi khi Lãng Đa đuổi kịp họ, phát hiện trúng kế lại dẫn quân trở về đuổi theo chúng ta, e rằng cũng phải sau bảy ngày nữa.”

Vân Tương tiếp lời: “Trong thời gian bảy ngày quý giá đó, chúng ta không cần sợ truy binh, có thể đi về phía Nam tấn công phòng tuyến Ngõa Thích trước Thiên Đầu, Ninh Vũ, Nhạn Môn Quan, đi qua Thiên Đầu, Ninh Vũ hoặc Nhạn Môn Quan để về nước.”

Võ Thắng Văn sực hiểu ra, gật đầu thốt lên: “Thì ra từ trước khi chúng ta phục kích truy binh, công tử đã định sẽ công phá Thiên Đầu, Ninh Vũ, Nhạn Môn Quan để về nước, chúng ta phục kích Lãng Đa, mượn lời của các huynh đệ bị bắt tiết lộ ý đồ chiến lược, đồng thời giả vờ vượt Hoàng Hà đi vòng về phía Tây, chính là để tranh thủ thời gian bảy ngày này, đột kích phòng tuyến Ngõa Thích dàn sẵn ở tam quan. Công tử tâm kế sâu xa, thật khiến người khác thán phục!”

Vân Tương gật đầu nói: “Đạo dùng binh, thần bí khó đoán, hư hư thực thực, thật thật giả giả, không khác gì thiên đạo.” Nói rồi gã quay đầu nhìn về phía Nam, ánh mắt đầy lo lắng: “Dù chúng ta có được thời gian bảy ngày, không cần lo trước có kẻ chặn đường, sau có truy binh, nhưng muốn đột phá tuyến phòng thủ của người Ngõa Thích, e rằng còn phải trải qua một trận ác chiến sinh tử nữa.”

Võ Thắng Văn an ủi: “Chuyện này công tử không cần lo lắng quá, nếu chúng ta tập kích doanh trại người Ngõa Thích, quân trấn thủ ở các quan ải chắc chắn sẽ xuất binh cứu viện, có họ giúp đỡ, đột phá phòng tuyến của Ngõa Thích chắc không quá khó.”

“Hy vọng là vậy.” Vân Tương phóng mắt nhìn về phía Nam, ánh mắt vẫn đầy nỗi âu lo.

Trong lúc họ nói chuyện, mười mấy binh lính thông thuộc thủy tính đã chèo thuyền qua Hoàng Hà, đốt cháy thuyền ở bờ đối diện, sau đó cùng ngồi một con thuyền nhỏ chèo về. Võ Thắng Văn hạ lệnh một tiếng, hơn hai nghìn tướng sĩ lập tức lội ngược dòng đi lên, nước sông lập tức cuốn sạch vết tích của đại quân để lại.

Một canh giờ sau, toàn quân lại lên bờ, lúc này các võ tăng Thiếu Lâm ở lại phía sau đưa tin tình báo địch mới nhất về. Lãng Đa đã dẫn quân bắc cầu, bắt đầu chuẩn bị qua sông. Nghe tin này, Vân Tương bất giác nở nụ cười mừng rỡ, như một lão thiên chân chính đang hưởng thụ khoái cảm thành công trong cục diện do mình sắp đặt.

Mãi đến khi Lãng Đa dẫn đại quân vượt Hoàng Hà, tiếp tục truy đuổi về phía Tây, Vân Tương mới dẫn quân đi vòng qua Thiên Đầu Quan binh lực mỏng nhất, xông thẳng tới Ninh Vũ Quan nơi tổng binh trấn thủ tam quan đóng quân. Hơn hai nghìn tướng sĩ một lòng, phấn chấn bước lên con đường trở về Nam.

Thiên Đầu, Ninh Vũ, Nhạn Môn thường gọi là Ngoại Tam Quan, trấn giữ cánh cổng phía Bắc dẫn vào Trung Nguyên, trước giờ luôn là phòng tuyến vững chắc chống lại sự xâm phạm của các bộ lạc du mục phương Bắc. Ninh Vũ Quan là quan ải trọng yếu nhất trong đó, là nút thắt liên kết phòng tuyến của tam quan, do tổng binh tam quan đích thân trấn thủ. Hôm nay, vừa qua nửa đêm, lính tuần đêm trên thành nhìn thấy phía sau doanh trại của Ngõa Thích ở đằng xa đột nhiên bùng cháy, ánh lửa ngập trời, loáng thoáng có tiếng hò hét chém giết, binh lính tuần đêm một mặt tăng cường giới bị, một mặt sai người tức tốc báo cho tướng thủ thành.

Chẳng bao lâu sau, tướng thủ thành trực đêm vội vàng bước lên thành lầu, nhìn doanh trại Ngõa Thích ngập trong ánh lửa đằng xa, chợt thấy một thớt khoái mã như phi vào chỗ không người, từ trong doanh trại Ngõa Thích xông ra, kỵ thủ tay múa trường côn, chỉ đông đánh tây, những kẻ ngăn chặn lũ lượt ngã gục. Lát sau, kỵ thủ thúc ngựa tới trước cửa Ninh Vũ Quan, truy binh Ngõa Thích sau lưng y vừa đuổi tới gần đã bị loạn tiễn của quân trấn thủ trên thành lầu bắn xuống phải lui về. Tướng thủ thành trực đêm nhìn kỵ thủ xông tới trước cổng Ninh Vũ Quan qua ánh đuốc, thấy y tuổi còn trẻ, mình mặc áo khoác của dân du mục Ngõa Thích, song vũ khí trong tay lại là trường côn dài hơn trượng, bèn cao giọng quát hỏi: “Kẻ nào?”

Kỵ thủ dừng ngựa trước cổng thành, ngẩng đầu lớn tiếng đáp: “Tại hạ La Nghị của Thiếu Lâm, thay công tử Tương và Võ Thắng Văn tướng quân truyền lời, xin quân trấn thủ Ninh Vũ Quan lập tức xuất binh tiếp ứng Tân Quân Doanh.”

Nghe tên Tân Quân Doanh, trên thành lầu vang lên tiếng xì xào, nghĩa cử đơn độc Bắc phạt, dũng cảm cứu nguy cho Đại Đồng của Tân Quân Doanh từ lâu đã được truyền tụng trong quân trấn thủ biên quan, hết thảy đều kính ngưỡng, nhưng vị tướng thủ thành trực đêm kia lại quát: “Tân Quân Doanh đã bị tiêu diệt toàn quân, làm gì còn ai sống sót?”

Kỵ thủ tự xưng La Nghị lập tức lấy trường cung trên yên ngựa, bắn một mũi tên lên cột cờ trên tầng lầu, giải thích: “Đây là tín vật của Võ tướng quân, xin tướng quân hãy mau chóng xuất binh!”

Vị tướng thủ thành bán tín bán nghi nhổ mũi tên cắm trên cột cờ ra, thấy thân tên buộc một lệnh phù, giống như lệnh phù của Tân Quân Doanh. Y chần chừ nói: “Dù lệnh phù không giả, nhưng ai dám chắc có phải bị người Ngõa Thích lấy được để lừa ta mở thành hay không. Dù các người đúng là tàn quân của Tân Quân Doanh, không có dụ lệnh của Binh bộ, chúng ta cũng không thể tự ý mở thành xuất binh.”

“Ngươi…” La Nghị tức đến mặt đỏ phừng phừng, gấp gáp nói: “Tướng sĩ Tân Quân Doanh phải huyết chiến nghìn dặm mới xông được tới Ninh Vũ Quan, xin tướng quân mau xuất binh cứu viện, nếu không thì muộn mất!”

Mặc cho La Nghị khẩn thiết van xin, tướng thủ thành khăng khăng khước từ nói không có dụ lệnh Binh bộ thì không thể tự tiện xuất binh. La Nghị hết cách, đành nuốt lệ thúc ngựa lao về doanh trướng Ngõa Thích, đơn thương độc mã đi cứu Tân Quân Doanh. Tệ nạn trong việc chỉ huy quân đội của quân Minh đã có từ lâu, khó mà thay đổi, lại thêm sự nhu nhược vô năng của tướng thủ thành, khiến quân trấn thủ trên thành chỉ có thể khoanh tay đứng nhìn.

Bình minh vừa lên, một tiểu đội tướng sĩ khôi giáp tơi tả cuối cùng đã vượt qua trùng trùng ngăn trở của đại quân Ngõa Thích, thúc ngựa xông tới trước Ninh Vũ Quan. Họ còn không tới năm trăm người, ai nấy cả người đẫm máu, chi chít các vết thương khủng khiếp. Cách ăn bận của họ hỗn tạp, vừa có áo bào Ngõa Thích, lại có chiến giáp nát bươm của quân Minh, nhưng họ không giống quân đội của Đại Minh, cũng không giống kỵ binh Ngõa Thích, mà giống một tốp thổ phỉ đang chạy trốn khắp nơi.

Quân sĩ trên Ninh Vũ Quan nhất tề giương cung, nhằm vào đội nhân mã lai lịch bất minh, một tướng thủ thành cao giọng quát hỏi: “Đứng lại! Là kẻ nào?”

Mấy trăm hán tử dừng lại trước cổng Ninh Vũ Quan, một hán tử vạm vỡ mặc giáp da Ngõa Thích, cả người đẫm máu thúc ngựa tới trước cổng, giơ cao ngọn cờ lớn đã nát bươm, dính đầy máu khô và vết cháy sém, nhưng chữ “Tân” phấp phới trong gió vẫn rõ mồn một.

“Tân Quân Doanh! Quả nhiên là Tân Quân Doanh!” Các binh tướng trên Ninh Vũ Quan sau cơn kinh hãi ban đầu, bất giác đều thốt lên đầy bất ngờ, họ đã sớm nghe nói về nghĩa cử Tân Quân Doanh đơn độc Bắc phạt Ngõa Thích, hôm nay lại trông thấy lá chiến kỳ của Tân Quân Doanh, cùng mấy trăm tướng sĩ sống sót trở về, quân trấn thủ trên thành không cần tướng lĩnh hạ lệnh, nhất tề giơ vũ khí trong tay kính chào các dũng sĩ viễn chinh Ngõa Thích, anh dũng giải nguy biên thùy, hiện giờ lại dũng cảm đột phá vòng vây về nước.

Tướng trấn thủ thành vội vàng ra lệnh mở cửa, không lâu sau khi các tướng sĩ Tân Quân Doanh nối đuôi nhau vào thành, một con bồ câu đưa thư từ phủ tổng binh Ninh Vũ Quan lao vút lên trời, bay về phía Bắc Kinh.

Trong phủ Phúc vương ở thành Bắc Kinh, Cận Vô Song ngồi ngay ngắn trước bàn, hiền hòa nhìn hai nam hai nữ đang quỳ trước mặt. Song bốn người đang quỳ lại thấp thỏm bất an, cúi đầu không dám nhìn vào mắt lão. Lận Đông Hải vẻ mặt lạnh lùng và Châu Toàn luôn luôn tươi cười vẫn đứng hầu sau lão.

“Lần này triều đình có thể tiêu diệt phản loạn Ma Môn, các ngươi cũng có công lao.” Cận Vô Song từ tốn nói: “Tuy các ngươi từng là Quang Minh tứ sứ của Ma Môn, nhưng nếu đã đánh trọng thương kẻ thủ ác Ma Môn Khấu Diệm, khiến y cuối cùng phải nhảy vào lửa tự sát, cũng xem như thành tâm quy phục, bản vương dĩ nhiên sẽ không bạc đãi các ngươi. Sau này chuyện tiêu diệt tàn dư Ma Môn phải nhờ bốn vị ra sức giúp đỡ.”

Minh Nguyệt vội khấu đầu nói: “Tiểu nhân nguyện thề chết tận trung với vương gia!”

Cận Vô Song gật đầu hài lòng, vẫy tay lệnh cho Lận Đông Hải đưa bốn người lui xuống. Họ vừa đi, Châu Toàn đã hạ giọng hỏi: “Chủ nhân tin chúng sao?”

Cận Vô Song nhếch miệng khinh miệt: “Chúng có thể phản bội Khấu Diệm, ngày sau khó bảo đảm không phản bội bản vương. Nhưng giờ là lúc dùng người, chỉ cần còn giá trị lợi dụng thì không thể lãng phí.”

Châu Toàn mỉm cười gật đầu vẻ hiểu ý. Lúc này chợt có một thị vệ cầm chim bồ câu vội vã đi vào, thở dốc bẩm báo: “Ninh Vũ Quan có tin mới đưa tới!”

Cận Vô Song nhận lấy chim bồ câu, lấy ống trúc buộc trên chân nó xuống, đổ ra một mảnh giấy, chậm rãi giở đọc, gương mặt lập tức hiện ra nét mừng rỡ kỳ lạ. Châu Toàn thấy vậy bèn hỏi: “Tân Quân Doanh có tin sao?”

Cận Vô Song gật đầu, không giấu nổi niềm vui trong lòng, hớn hở nói: “Ba trăm chín tám tàn quân của Tân Quân Doanh đã trở về Ninh Vũ Quan, cầm quân là công tử Tương và Võ Thắng Văn, họ đều chưa chết!”

Cận Vô Song phấn khích đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng, đột nhiên lão dừng trước mặt Châu Toàn, ánh mắt lóe lên nét cười đầy ý vị: “Lập tức thông báo cho tổng binh Ninh Vũ Quan Phạm Thế Trung, bảo y nhất định phải giữ được công tử Tương lại, ta muốn cầu xin thánh thượng, tổ chức một lễ mừng khải hoàn và nghi thức duyệt quân long trọng để đón tướng sĩ Tân Quân Doanh đã chinh phạt Ngõa Thích, anh dũng giải trừ mối nguy cho biên ải, biểu dương công lao vĩ đại hiếm có của họ!”

Châu Toàn nhìn ra vẻ phấn kích và quyết đoán chưa từng có trong ánh mắt của Cận Vô Song, chần chừ nói: “Việc làm này của chủ nhân hình như có thâm ý khác?”

Cận Vô Song thoáng lộ ra thần thái khác thường, nhìn xa xăm vào hư không, u uất than: “Ta đợi một cơ hội như vậy đã quá lâu rồi, không muốn đợi nữa.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3