Tội Ác- CHương 13
Chương Mười ba
Cái tên sẽ nghe thật vô vị với những ai không hiểu được ý nghĩa của nó. Nhưng căn bệnh đó còn có một tên khác, một cái tên gợi lên sự rùng rợn và sợ hãi của thời trung cổ: bệnh hủi. Nó gợi lên những hình ảnh thời trung cổ về những người khoác áo choàng và che khuôn mặt họ, về những kẻ nghèo nàn và rách rưới cầu xin sự bố thí. Nó gợi lên những tiếng rên rỉ của người bị bệnh hủi, giọng họ uốn éo để cảnh báo những người mất cảnh giác là những con quỷ đang đến.
Những con quỷ dữ đó chỉ đơn giản là nạn nhân của những vi khuẩn xâm nhập có tên khoa học là: Vi khuẩn phong, một loại vi khuẩn phát triển chậm và biến đổi khi nó nhân lên, nó gặm nhấm da với những nốt sần xấu xí. Nó phá hủy những dây thần kinh nối với tay và chân nạn nhân để nạn nhân không còn cảm thấy sự đau đớn nữa, không cảm thấy nao núng trước những vết thương và để mặc tay chân mình bị bỏng, bị thương và bị lây nhiễm. Năm tháng trôi qua, sự nhân đôi của vi khuẩn càng tăng. Những vết sần ngày càng dầy lên, sống mũi bị ăn hết. Những ngón tay, ngón chân không ngừng bị thương và bắt đầu nặng đi. Cuối cùng khi kẻ bị bệnh chết đi, anh ta sẽ không được chôn trong sân nhà thờ mà bị bỏ ở xa các bức tường.
Ngay cả khi chết rồi, người bị bệnh hủi cũng bị xa lánh.
- Việc thấy một nạn nhân ở giai đoạn phát triển bệnh cao như vậy là rất hiếm ở nước Mỹ - bác sĩ Cawley nói - Việc chăm sóc y khoa hiện đại sẽ ngăn cách căn bệnh lâu trước khi nó gây ra nhiều sự biến dạng thế này. Phương pháp trị bệnh bằng ba loại thuốc có thể chữa khỏi ngay cả trong những trường hợp tệ nhất của bệnh hủi.
- Tôi cho rằng người phụ nữ này đã được chữa trị - Maura nói - Vì tôi không thấy những vi khuẩn roi còn sống trên kính hiển vi khi soi da cô ấy.
- Đúng vậy, nhưng việc chữa trị rõ ràng là đã quá muộn với cô ta. Hãy nhìn những sự biến dạng đi. Việc mất răng và rụng mất xương hàm trên. Cô ta đã bị lây nhiễm trong một thời gian dài - có lẽ là mấy chục năm - trước khi được chăm sóc.
- Ngay cả những bệnh nhân nghèo khổ nhất đất nước này cũng có thể được chăm sóc.
- Chắc chắn cô có thể mong đợi điều đó. Vì bệnh Hansen là một vấn đề y tế cộng đồng.
- Vậy thì có nhiều khả năng người phụ nữ này là dân nhập cư.
Cawley gật đầu.
- Cô vẫn có thể gặp ở một số vùng nông thôn trên thế giới. Phần lớn các trường hợp trên thế giới rơi vào năm nước.
- Những nước nào ?
- Brazil và Bangladesh. Inddonesia và Myanmar. Và tất nhiên là Ấn Độ nữa.
Bác sĩ Cawley quay về phía những hộp sọ trên giá và thu lại những tấm ảnh trên bàn của bà rồi trộn chúng lên với nhau. Nhưng Maura gần như không nhận thấy những động tác của bà. Cô đang nhìn tấm phim chụp của Người Phụ Nữ Chuột và nghĩ về một nạn nhân khác, một hiện trường giết người khác, về những vũng máu và bóng tối của cây thánh giá.
Ấn Độ, cô nghĩ, sơ Urula đã làm việc tại Ấn Độ.
***
Tu viện Đá Xám dường như lạnh hơn và bị tách biệt hơn bao giờ hết khi Maura bước qua cánh cổng chiều hôm đó. Bà sơ già Isabel dẫn cô đi qua sân, đôi giày cao cổ hãng L.L. Bean của bà ta lộ ra rất rõ dưới viền váy của bộ lễ phục. Khi mùa đông trở nên khắc nghiệt hơn, ngay cả một bà sơ cũng trông cậy vào sự thoải mái của loại giầy này.
Sơ Isabel dẫn Maura vào văn phòng trống không của tu viện, rồi biến mất trong hành lang tối om. Tiếng giày lộp cộp của bà ta vọng mãi thành tiếng kêu mờ ảo.
Maura chạm vào lò sưởi bọc sắt bên cạnh cô, nó lạnh ngắt. Cô không cởi áo khoác.
Cô phải đợi quá lâu đến nỗi cô băn khoăn không biết có phải mình đã bị bỏ quên không, bà sơ già nua Isabel đã biến mất ở chỗ hành lang không, trí nhớ của bà ta về Maura đã mờ dần cùng những bước chân. Maura lắng nghe tiếng cọt kẹt của tòa nhà, tiếng gió đập vào cửa sổ và cô tưởng tượng mình sẽ thế nào khi sống cả đời dưới mái nhà này. Những năm tháng im lặng và cầu nguyện, những tục lệ không thay đổi. Sẽ có sự thoải mái trong việc đó, cô nghĩ. Sự dễ chịu của việc biết được khi trời vừa hửng sáng là một ngày sẽ diễn ra như thế nào. Không có điều ngạc nhiên nào, không có sự xáo động nào. Bạn thức dậy và tìm bộ quần áo quen thuộc, bạn quỳ gối để cầu bài nguyện cũ và bước dọc theo những hành lang quen thuộc để đến chỗ ăn sáng. Bên ngoài bức tường, những gấu váy của những người phụ nữ có thể nâng lên hạ xuống, những chiếc xe hơi có thể có hình dạng và màu sắc mới và sự thay đổi của những ngôi sao điện ảnh sẽ xuất hiện và rồi biến mất trên màn bạc. Nhưng trong những bức tường này, thì những thói quen này vẫn không thay đổi ngay cả khi cơ thể bạn ngày càng trở nên rệu rã, đôi tay bạn không còn rắn chắc và thế giới sẽ trở nên im lặng hơn khi thính giác của bạn yếu đi.
Sự khuây khỏa, Maura nghĩ. Sự thỏa mãn. Đúng vậy, đây là những lý do để thu mình khỏi thế giới bên ngoài, đó là những lý do mà cô hiểu được.
Cô không nhận thấy bà Mary Clement bước đến và cô giật mình khi thấy bà trưởng tu viện đang đứng ở lối vào nhìn cô.
- Chào sơ !
- Tôi biết cô còn nhiều câu hỏi phải không ?
- Về sơ Urula.
Mary Clement đi nhanh vào phòng và đứng lại sau chiếc bàn. Vào một ngày lạnh khủng khiếp thế này, cả bà ta cũng không chịu được cái lạnh; dưới lớp váy, bà ta mặc một chiếc áo len đan màu ghi có hình những con mèo màu trắng. Bà ta gác tay lên bàn và nhìn Maura một cách khó chịu, đó không phải là khuôn mặt thân thiện đã chào đón cô buổi sáng đầu tiên.
- Cô đã làm tất cả những gì có thể để làm rối tung cuộc sống của chúng tôi lên, để xóa hết những ký ức về sơ Camille. Giờ cô muốn lặp lại điều đó với sơ Ursula à ?
- Chắc bà ấy cũng muốn chúng tôi tìm được kẻ tấn công bà ấy.
- Và cô đã tưởng tượng ra bà ấy có những bí mật khủng khiếp như thế nào ? Cô đang lùng sục tội lỗi gì đây, thưa bác sĩ Isles ?
- Không nhất thiết là những tội lỗi.
- Chỉ một vài ngày trước, cô chỉ tập trung vào Camille.
- Và điều đó đã khiến chúng tôi bỏ quên việc tìm hiểu sâu hơn nữa về đời sống của sơ Ursula.
- Cô sẽ chẳng thấy vụ tai tiếng nào trong cuộc sống của bà ấy đâu.
- Tôi không có ý định tìm sự tai tiếng. Tôi đang tìm động cơ của tên sát nhân.
- Khi giết một bà sơ sáu mươi tám tuổi ư ? - Mary Clement lắc đầu - Tôi chẳng thể nào nghĩ ra một động cơ có lý nào cả.
- Bà đã nói là sơ Ursula đã thực hiện một sứ mệnh ở nước ngoài, tại Ấn Độ.
Sự đổi hướng chủ đề đột ngột khiến bà Mary Clement giật mình. Bà ta ngồi lui về sau ghế.
- Tại sao điều đó lại có liên quan ?
- Hãy nói thêm cho tôi biết về thời gian bà ấy ở Ấn Độ.
- Tôi không biết rốt cuộc cô muốn nghe điều gì.
- Bà ấy đã được đào tạo để trở thành một bác sĩ phải không ?
- Đúng vậy. Bà ấy đã làm việc tại một ngôi làng nhỏ ngoài thành phố Hyderabad. Bà ấy đã ở đó gần năm năm.
- Và bà ấy đã trở lại Tu Viện Đá Xám năm ngoái ?
- Vào tháng một.
- Bà ấy có kể nhiều về công việc ở đó không ?
- Không hề.
- Bà ấy đã làm việc năm năm ở đó và không bao giờ nói về chuyện đó ư ?
- Ở đây chúng tôi tôn trọng sự im lặng, chứ không phải những kẻ ba hoa suốt ngày.
- Tôi không coi việc nói về nhiệm vụ ở nước ngoài của bà ấy là một chuyện tầm phào của những kẻ nhàn rỗi.
- Cô đã từng sống ở nước ngoài chưa, bác sĩ Isles ? Tôi không có ý nói đó là một khách sạn đẹp dành cho những khách du lịch, nơi mà cô hầu phòng đổi ga trải giường mỗi ngày. Tôi đang nói về những ngôi làng nơi mà cống thải đổ cả ra đường phố và những đứa trẻ chết vì bệnh tiêu chảy. Việc bà ấy ở đó không phải chuyện dễ chịu để nói ra.
- Bà đã nói với chúng tôi là ở Ấn Độ đã có xung đột. Ngôi làng bà ấy làm việc đã bị tấn công.
Bà trưởng tu viện nhìn xuống đôi bàn tay của mình, da bà ta đã nhăn nheo, đỏ lên, chúng đặt gọn trên bàn.
- Thưa sơ ! - Maura kiên nhẫn.
- Tôi không biết toàn bộ câu chuyện. Bà ấy chẳng bao giờ nói cho tôi biết chuyện đó. Tôi có biết chút ít là nghe từ Cha Doolin.
- Đó là ai vậy ?
- Ông ta phục vụ ở xứ đạo tại Hyderabad, ông ta gọi điện thoại cho tôi từ Ấn Độ ngay sau khi chuyện đó xảy ra để cho tôi biết sơ Ursula sẽ quay về Tu viện Đá Xám. Ông ấy nói là bà ta muốn trở về cuộc sống ẩn dật. Tất nhiên là chúng tôi chào đón bà ấy trở về. Đây là nhà của bà ấy. Theo lẽ tự nhiên, đây là nơi bà ấy quay về để tìm thấy sự an ủi và bình yên sau khi...
- Sau chuyện gì vậy thưa sơ ?
- Một vụ thảm sát ở làng Bara.
Cửa sổ đột nhiên đập mạnh vì bị gió quất. Bên ngoài cửa kính, cả ngày hôm đó không khí thật u ám, như một bức tường xám và bên trên nó là bầu trời cũng xám xịt.
- Đó là nơi bà ấy làm việc phải không ? - Maura hỏi ?
Mary Clement gật đầu.
- Một ngôi làng nghèo đến mức không có điện thoại hay điện đóm gì cả. Khoảng một trăm người ở đó nhưng không ai ở bên ngoài dám đến thăm. Đó là cuộc sống mà tu sĩ của chúng tôi đã lựa chọn, phục vụ những người nghèo khổ trên thế giới.
Maura nghĩ về kết quả mổ tử thi của Người Phụ Nữ Chuột, về hộp sọ của cô ta bị biến dạng do căn bệnh. Cô nói khẽ.
- Đó là một khu làng của người bị bệnh phong.
Sơ Mary Clement gật đầu.
- Ở Ấn Độ họ coi đó là căn bệnh đáng ghê tởm nhất, bị khinh rẻ và khiếp sợ, bị gia đình hắt hủi. Họ sống trong những ngôi làng đặc biệt nơi họ trốn tránh xã hội, nơi họ không phải che dấu khuôn mặt mình, nơi những người khác cũng bị biến dạng như họ - Bà ta nhìn Maura - Ngay cả những điều đó cũng không bảo vệ họ khỏi sự tấn công. Làng Bara không còn tồn tại nữa.
- Bà nói đó là một vụ thảm sát ?
- Đó là cách Cha Doolin gọi nó. Sự truy sát hàng loạt.
- Ai làm việc đó ?
- Cảnh sát không thể tìm ra những kẻ tấn công. Có thể đó là một vụ thảm sát. Hay đó là kẻ cốt cán của đạo Hindu cảm thấy tức giận vì một bà sơ Thiên Chúa giáo sống giữa lòng họ. Hoặc chúng có thể là lực lượng quân Tamil, hay bất cứ ai trong số mười hai nhóm quân ở đó. Chúng giết tất cả, bác sĩ ạ. Đàn bà, trẻ con, hai bà sơ trong bệnh viện.
- Nhưng bà Ursula sống sót.
- Vì đêm đó bà ấy đã ở trong làng Bara. Trước đó một ngày bà ấy đã rời đi để nhận đồ tiếp tế y tế từ Nyderabad. Sáng hôm sau, khi trở lại, bà ấy thấy ngôi làng bị đốt thành tro bụi. Những công nhân từ một nhà máy gần đó tìm những người còn sống sót nhưng họ chẳng thấy ai. Cả những con vật - gà, dê - cũng bị giết, xác bị thiêu cháy. Sơ Ursula suy sụp khi thấy những xác chết, một bác sĩ ở nhà máy phải giữ bà ấy lại phòng khám cho tới khi Cha Doolin tới. Bà ấy là người duy nhất sống sót ở làng Bara, Bác sĩ ạ. Bà ấy thật may mắn.
Một may mắn, Maura nghĩ, được cứu thoát từ vụ chém giết để về Tu Viện Đá Xám và thấy thần chết không bỏ sót mình. Ngay cả ở đây, bà ấy cũng không thể thoát khỏi tay thần chết.
Ánh mắt bà Mary Clement và Maura gặp nhau.
- Cô sẽ không thấy điều gì đáng xấu hổ trong quá khứ của bà ấy, bác sĩ ạ, hãy để cho bà ấy yên.
***
Maura và Rizzoli đứng trên lối đi bên ngoài. Nơi trước kia đã từng là nhà hàng Mama Cortina. Đây là lần đầu tiên Maura nhìn thấy nó dưới ánh sáng ban ngày. Và cô thấy một con phố gồm những tòa nhà bị bỏ hoang và những cửa sổ nhìn xuống như những hốc mắt.
- Cô đã đưa tôi đến một nơi thật tuyệt - Rizzoli nói. Cô ngước nhìn biển hiệu đã bị mờ của cửa hiệu Mama Cortina - cô Jane Doe của cô đã được tìm thấy ở đây à ?
- Ở phòng tắm nam. Cô ấy đã chết khoảng ba mươi sáu tiếng khi tôi khám nghiệm cô ấy.
- Và cô không có hướng nào để nhận dạng cô ấy ?
Maura lắc đầu.
- Nếu xem xét giai đoạn phát triển cao bệnh Hansen của cô ấy thì rất có khả năng cô ấy là dân nhập cư, có lẽ không có giấy tờ gì cả.
Rizzoli nắm áo khoác của mình chặt hơn.
- Ben...Hur - cô lẩm bẩm - Đó là điều tôi nghĩ tới, Thung lũng của những người bị bệnh hủi.
- Nhưng căn bệnh đó có thật, những điều nó gây ra cho mặt và đôi tay người ta.
- Nó có thể rất dễ rụng ra. Đó là điều khiến những người cổ đại khiếp sợ. Đó là lý do tại sao hình ảnh của một người bị bệnh hủi có thể khiến mọi người hét lên một cách khiếp sợ.
- Lạy Chúa ! Chỉ cần nghĩ chúng ta có nó ở ngay tại đây, tại Boston - Rizzoli nhún vai - Ở đây lạnh cóng. Ta vào trong đi !
Họ bước vào ngõ hẻm, đôi giày họ kêu lạo xạo dọc theo đám băng đã hình thành quanh những bước chân của nhiều nhân viên an ninh. Ở đây có thể cản được gió, sự âm u giữa hai tầng nhà có cảm giác lạnh lẽo hơn một chút, không khí yên lặng một cách kỳ quái. Dải băng của cảnh sát nằm trên lối vào nhà hàng Mama Cortina.
Maura lấy chìa khóa ra, tra vào ổ khóa nhưng nó không mở ra ngay. Cô cúi xuống, lay lay chìa khóa trong ổ khóa đã bị đóng băng.
- Tại sao những ngón tay bị rụng ra ?- Rizzoli hỏi.
- Gì cơ ?
- Khi người ta bị bệnh hủi. Tại sao người ta lại bị mất ngón tay ? Nó có ảnh hưởng đến da như những vi khuẩn ăn thịt khác không ?
- Không, nó phá hoại cơ thể theo kiểu khác. Những vi khuẩn phong tấn công các dây thần kinh chân và tay nên những ngón tay và ngón chân trở nên tê liệt. Người ta không thể cảm thấy đau đớn. Đau đớn là hệ thống cảnh báo của chúng ta, là một phần của hệ thống bảo vệ chống lại những vết thương. Khi không có nó, người ta có thể bỗng nhiên muốn nhúng ngón tay mình vào nước nóng đang sôi mà không thể cảm nhận được là da mình đang bị bỏng. Hay người ta không thể cảm thấy sự đau nhói ở đôi chân. Người ta có thể khiến mình bị thương hết lần này đến lần khác và dẫn tới việc bị nhiễm trùng lần thứ hai. Đó là chứng hoại tử - Maura dừng lại và bực mình vì ổ khóa cứng đầu.
- Rồi, để tôi thử !
Maura bước qua một bên, tháo găng tay cho vào túi áo trong khi Rizzoli lay chìa khóa.
- Ở những nước nghèo - Maura tiếp tục - chính lũ chuột mới gây ra tổn thương thực sự cho tay và chân.
Rizzoli nhìn lên và cau mày.
- Chuột à ?
- Vào ban đêm, khi người ta đi ngủ. Chúng bò lên giường, gặm nhấm những ngón chân và ngón tay.
- Cô nói nghiêm túc chứ ?
- Và cô chẳng cảm thấy gì. Bệnh hủi đã khiến cô bị tê liệt. Cô sẽ thức dậy vào buổi sáng hôm sau và thấy những đầu ngón
chân đã biến mất. Tất cả những gì cô còn lại là những ngón chân cụt đầy máu.
Rizzoli nhìn cô rồi vặn mạnh chìa khóa.
Ổ khóa mở ra. Cửa chính bật tung, để lộ ra những cái bóng bị nuốt vào trong bóng tối.
- Chào mừng đến nhà hàng Mama Cortina - Maura nói.
Rizzoli dừng lại ở ngưỡng cửa, ánh sáng đèn Maglite của cô quệt thành một vệt ngang căn phòng.
- Có cái gì đó đang di chuyển bên trong - cô lẩm bẩm.
- Chuột đấy.
- Đừng nói gì về lũ chuột nữa.
Maura bật đèn của mình rồi đi theo Rizzoli vào bóng tối có mùi mỡ ôi thiu.
- Hắn đã đưa cô ấy qua chỗ này, vào phòng ăn - Maura nói, ánh đèn của cô lia trên sàn nhà - Cảnh sát đã tìm thấy những dấu vết của việc lôi kéo trên lớp bụi trên sàn nhà, có lẽ là dấu giày cô ấy để lại. Chắc chắn hắn đã lôi cô ấy, kéo ngược cô ấy.
- Cô có nghĩ là hắn muốn chạm vào cô ấy không ?
- Tôi nghĩ là hắn đeo găng tay vì hắn không để lại dấu tay nào.
- Nhưng hắn vẫn chạm vào quần áo của cô ấy và có nguy cơ bị nhiễm bệnh.
- Cô đang suy nghĩ như người thời cổ. Như thể việc chạm vào một người bị bệnh hủi sẽ khiến cô biến thành một con quỷ dữ vậy. Nó không lây lan như cô nghĩ đâu.
- Nhưng cô có thể bị lây bệnh. Cô có thể bị lây nhiễm.
- Đúng vậy.
- Và chuyện gì tiếp theo cô biết đấy. Mũi và những ngón tay cô sẽ rụng mất.
- Bệnh đó chữa được. Có những vi khuẩn kháng thể.
- Tôi không quan tâm nó có chữa được hay không - Rizzoli nói và đi chầm chậm qua nhà bếp - Chúng ta đang nói về bệnh hủi, một thứ gì đó nằm ngoài Kinh thánh.
Họ đẩy cửa, đi qua cánh cửa lay động và đi vào phòng ăn. Chiếc đèn Maglite của Rizzoli quét thành một vòng tròn, những chiếc ghế được xếp lên nhau sáng lên trong phạm vi của chiếc đèn.
Mặc dù họ không thể nhìn thấy sự phá hoại, họ có thể nghe thấy những tiếng gãy mục. Và bóng tối vẫn còn sót lại.
- Lối nào vậy ? - Rizzoli hỏi. Giờ giọng cô thì thào như thể họ đang đi vào một lãnh địa có xung đột.
- Cứ đi đi ! Có một lối bên tay phải, ở cuối căn phòng này.
Đèn pin của họ quét trên sàn nhà. Dấu vết cuối cùng của sự lôi kéo đã bị làm mất hết bởi dấu chân của những nhân viên cảnh sát khi họ đi qua đó. Vào cái đêm Maura đến hiện trường vụ án, cô đã đi cùng thám tử Crower và Sleeper, cô biết rằng một đội quân những người thuộc đội khám nghiệm hiện trường đã sẵn sàng đi vào với những cái kính đặc biệt, máy ảnh và bột nhận diện dấu chân. Vào đêm đó, cô không cảm thấy sợ.
Giờ cô thấy đang khó thở và thấy mình đứng ngay sau Rizzoli, cô hoàn toàn nhận thức được việc thực tế là chẳng có ai trông chừng ở phía sau cô cả. Cô thấy tóc gáy mình dựng lên, sự chú ý của cô rất nhạy cảm với bất cứ tiếng động gì và bất cứ sự di chuyển nào phía sau cô.
- Phòng tắm ở cuối.
Rizzoli đi về phía trước, ánh đèn của cô nhảy nhót từ bức tường này sang bức tường khác. Đến cuối cửa vào, cô dừng lại như thể đã biết chuyện sắp xảy ra sẽ rất khó chịu. Cô soi đèn vào trong phòng và đứng nhìn vũng máu trên sàn nhà lát đá.
Ánh đèn của cô lướt nhanh trên những bức tường, qua phòng tắm và những bồn nước tiểu bằng sứ, những bồn rửa mặt bị phủ đầy bụi. Rồi ánh đèn dội ngược lại như thể nó bị kéo bởi một lực hút nào đó về chỗ sàn nhà nơi cái xác đã nằm ở đó.
Nơi cái chết đã diễn ra có sức mạnh riêng của nó. Rất lâu sau khi cái xác được chuyển đi và những vết máu đã được lau nhưng một nơi như thế vẫn giữ lại những ký ức về chuyện đã xảy ra. Nó lưu giữ những tiếng vọng gào thét, những mùi vị còn lưu lại của sự sợ hãi. Giống như một cái hố đen, nó cuốn vào trong đó sự chú ý ngay lập tức của những người còn sống, những người không thể ngoảnh mặt và kìm được một cái liếc nhìn vào địa ngục.
Rizzoli cúi xuống và nhìn thấy những viên gạch vương vãi máu.
- Đây là một phát đạn rất gọn vào trúng tim - Maura nói và cúi xuống cạnh Rizzoli - Một vết thương làm thủng màng ngoài của tim, dẫn đến tim bị ngừng đập nhanh chóng. Đó là lý do có ít vết máu trên sàn nhà. Cô ấy không còn nhịp đập hay sự vận chuyển máu nữa. Khi hắn thực hiện việc cắt bỏ, hắn đã cắt bỏ một xác chết.
Họ trở nên im lặng, nhìn chăm chăm vào những vết màu nâu. Trong phòng tắm này không có cửa sổ. Ánh sáng trong phòng sẽ không thể lọt ra ngoài đường phố được. Bất cứ ai sử dụng một con dao cũng có thể thong thả đi lại mà không bị làm phiền, nạn nhân sẽ trở thành vật bị giết mổ của hắn. Chẳng có tiếng la hét nào để bịt miệng, chẳng có mối đe dọa nào. Hắn có thể thực hiện việc cắt bỏ một cách từ từ qua lớp da, khớp nối và thu được chiến lợi phẩm của hắn là những thớ thịt.
Khi xong việc, hắn bỏ lại cái xác ở nơi này, nơi mà những động vật có hại đã chế ngự, nơi mà chuột và gián sẽ có một bữa tiệc, ăn hết những phần thịt còn sót lại.
Mauras đứng lên và thở dốc. Mặc dù trong tòa nhà này rất lạnh, bàn tay cô đã ướt đẫm mồ hôi trong lớp găng tay và cô thấy tim mình đập mạnh.
- Chúng ta đi nhé ? - Cô nói.
- Chờ đã. Để tôi xem xét thêm xung quanh.
- Ở đây chẳng có gì để xem nữa.
- Chúng ta vừa mới đến đây thôi mà, bác sĩ.
Maura nhìn về phía lối đi đen ngòm và run rẩy. Cô cảm thấy một sự lay động kỳ lạ trong không khí, một luồng hơi lạnh lẽo khiến tóc gáy cô dựng lên. Cánh cửa, cô đột nhiên nghĩ. Chúng ta đã để mở cửa vào ngõ hẻm.
Rizzoli vẫn nhìn quanh những vết máu, chiếc đèn Maglite của cô từ từ soi sàn nhà, cô chỉ tập trung vào vết máu. Cô ấy không biết sợ, Maura nghi. Tại sao mình lại sợ ? Hãy bình tĩnh ! Hãy bình tĩnh !
Cô tiến lại gần cửa ra vào và cầm đèn pin như thể đang cầm một thanh kiếm rồi lia nó rất nhanh vào lối đi tối tăm.
Không có gì.
Tóc gáy cô dựng ngược lên.
- Rizzoli - cô thì thào - Chúng ta ra khỏi đây ngay được không ?
Mãi đến khi đó, Rizzoli mới nhận ra sự lo lắng trong giọng nói của Maura. Cô hỏi lại với một giọng cũng nhẹ như vậy.
- Gì thế ?
- Tôi muốn ra khỏi đây.
- Sao thế ?
Maura nhìn lối đi đen ngòm.
- Tôi cảm giác có gì đó không ổn.
- Cô nghe thấy gì à ?
- Hãy ra khỏi đây, được chứ ?
Rizzoli đứng lên và nói khẽ.
- Được rồi.
Khi bước ngang qua Maura để vào lối đi, cô dừng lại như thể đang hít không khí để tìm một dấu hiệu đe dọa. Rizzoli không hề sợ và luôn dẫn đường, Maura nghĩ khi cô theo nữ thám tử trở lại lối đi qua phòng ăn. Họ bước vào nhà bếp, đèn pin của họ chiếu sáng. Họ là những mục tiêu hoàn hảo, cô nhận ra điều đó. Chúng ta đã đến đây, khiến sàn nhà kêu lên, ánh đèn của chúng ta như một mục tiêu phóng tên.
Maura cảm thấy một luồng khí lạnh rồi cô thấy dáng người đàn ông nhỏ bé đang đứng ở cửa ra vào. Cô chết đứng, một kẻ theo dõi gian xảo và những âm thanh đột nhiên phát ra trong bóng tối.
Rizzoli đã ở thế tấn công và hét lên.
- Đứng im !
- Bỏ vũ khí xuống !
- Tôi nói đứngỵên, đồ khốn ! - Rizzoli ra lệnh.
- Cảnh sát Boston ! Tôi là cảnh sát Boston đây !
- Ai đó...
Ánh đèn của Rizzoli đột nhiên chiếu lên kẻ lạ mặt. Anh ta đưa tay che ánh sáng và mắt nheo lại. Im lặng kéo dài.
Rizzoli thở phào nhẹ nhõm.
- Chết tiệt !
- Ồ vâng, rất vui được gặp hai cô - thám tử Crowe nói - Tôi đoán đây là nơi xảy ra vụ việc đó.
- Tôi không thể nào chặt bay cái đầu chết tiệt của anh - Rizzoli thở phào - Đáng lẽ anh phải báo trước với chúng tôi là anh sẽ đến chứ... Giọng cô nhỏ dần. Cô đứng im khi thấy một dáng người nhỏ khác xuất hiện. Một người đàn ông di chuyển nhẹ như một con mèo đi ngang qua Crowe và đi vào vùng ánh sáng chiếc đèn pin của cô. Ánh đèn của cô bỗng nhiên lay động, tay cô quá run nên không thể cầm chắc nó được.
- Chào Jane - Gabriel Dean nói.
Bóng tối dường như càng làm kéo dài thêm sự im lặng.
Cuối cùng, khi Rizzoli cố gắng trả lời, giọng của cô bỗng trở nên đều đều theo kiểu xã giao.
- Tôi không biết là anh ở thị trấn này.
- Tôi vừa bay đến sáng nay.
Cô cầm chắc lại vũ khí của mình, giữ cho người thẳng lên.
- Anh đang làm gì ở đây ?
- Cũng như em thôi. Thám tử Crowe đang đưa anh đi xem hiện trường.
- Cả FBI cũng tham gia vào vụ này à ? Sao thế ?
Dean nhìn quanh khu vực tối tăm quanh họ.
- Chúng ta nên nói về chuyện này ở một nơi khác, ít nhất là một nơi ấm cúng. Anh muốn cho em biết vụ này có liên hệ thế nào đến một vụ khác, Jane ạ.
- Nếu chúng ta nói chuyện thì mọi thông tin sẽ đi theo hai hướng khác nhau mất - Rizzoli nói.
- Tất nhiên.
- Tất cả những cây bài đã lật trên bàn.
Dean gật đầu.
- Em biết mọi điều mà anh biết.
- Nghe này - Crowe nói - để tôi làm nốt việc đưa ngài Dean xem chỗ này. Chúng ta sẽ gặp lại nhau sau ở phòng họp. Ít nhất thì chúng ta sẽ có đủ ánh sáng để nhìn thấy nhau. Chúng ta sẽ không phải đứng thành vòng tròn và chết cóng như thế này.
Rizzoli gật đầu.
- Phòng họp, hai giờ. Chúng tôi sẽ gặp các anh ở đó.