Trường Ca Achilles - Chương 14
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
Deidameia rời đi sáng hôm sau, như nàng đã nói. “Con bé đi thăm một người dì,” Lycomedes thông báo với toàn cung điện vào bữa sáng, giọng ông vô cảm. Nếu có thắc mắc gì, thì cũng không ai dám hỏi. Nàng sẽ vắng mặt tới khi đứa trẻ ra đời, và Achilles có thể được tuyên bố là cha nó.
Những tuần theo sau có cảm giác trì trệ đến kì lạ. Achilles và tôi dành nhiều thời gian hết mức có thể để tránh xa khỏi cung điện, và niềm vui của chúng tôi, vỡ òa đến thế khi chúng tôi tái ngộ, đã bị thay thế bởi sự sốt ruột. Chúng tôi muốn đi, muốn trở lại với cuộc sống trên đỉnh Pelion, hay ở Phthia. Chúng tôi cảm thấy vụng trộm và tội lỗi khi công chúa đi rồi; ánh mắt của đám người trong cung điện đã bén nhọn hẳn lên, trở nên khó chịu. Lycomedes cau mày mỗi khi thấy chúng tôi.
Và còn cuộc chiến kia nữa. Ngay cả ở đây, ở Scyros xa tít tắp, bị lãng quên, tin tức về cuộc chiến vẫn truyền tới. Những người cầu hôn Helen khi xưa đã tuân theo lời thề, và đội quân của Agamemnon đầy ắp vương tôn công tử. Người ta nói rằng ông ta đã làm được việc không ai trước đó có thể làm: liên kết các vương quốc bất kham của chúng tôi bằng một sứ mệnh chung. Tôi nhớ ông ta - một hình bóng mang khuôn mặt dữ tợn, cả người lông lá như gấu. Với tôi của năm chín tuổi, em trai Menelaus của ông ta là người ấn tượng hơn trong hai anh em, với mái tóc đỏ và chất giọng sôi nổi. Nhưng Agamemnon lớn tuổi hơn, và quân đội của ông ta lớn hơn, ông ta sẽ chỉ huy chuyến tiến đánh thành Troy.
Bấy giờ là buổi sáng, và vào cuối đông, dù trông cảnh vật không giống như vậy. Ở xa về phía nam như thế này, lá cây không rụng và sương giá không ngưng đọng trong không khí sớm mai. Chúng tôi nán lại trong một khe đá nhìn ra toàn bộ đường chân trời, rảnh rỗi ngắm tàu thuyền hay những bóng lưng cá heo xám vụt xuất hiện. Chúng tôi ném sỏi từ vách đá, nghiêng xuống nhìn chúng nảy lên những phiến đá. Chúng tôi ở trên cao tới nỗi không nghe thấy tiếng những viên sỏi vỡ vụn trên đá tảng phía dưới kia.
“Mình ước gì có đàn lia của mẹ cậu ở đây,” cậu nói.
“Mình cũng vậy.” Nhưng đàn ở Phthia, bị bỏ lại cùng mọi thứ khác. Chúng tôi im lặng một lúc, nhớ lại âm thanh ngọt ngào trên từng dây đàn.
Cậu vươn người ra trước. “Cái gì kia?”
Tôi nheo mắt. Giờ khi đã là mùa đông, mặt trời ở vị trí khác trên đường chân trời, như chiếu xiên vào mắt tôi ở mọi góc độ.
“Mình không nhìn ra nổi.” Tôi nhìn về khoảng mịt mùng nơi biển cả tan vào bầu trời. Có một vệt nhòe nhoẹt phía xa mà rất có thể là một con tàu, hoặc là ảo ảnh của nắng chiếu trên nước. “Nếu là tàu, thì sẽ có tin mới,” tôi nói, với cơn quặn thắt quen thuộc nơi dạ dày. Lần nào tôi cũng sợ tin tức về cuộc truy tìm người cầu hôn Helen cuối cùng, kẻ bội ước, sẽ tới. Lúc này tôi còn non trẻ; tôi không biết rằng không tướng lĩnh nào muốn có người biết được ai đó đã không tuân theo lời kêu gọi tòng quân của hắn.
“Kia là một con tàu, chắc chắn luôn,” Achilles nói. Vệt mờ giờ đã tới gần hơn; con tàu này hẳn phải chạy rất nhanh. Màu sắc rực rỡ trên cánh buồm mỗi lúc một hiển hiện trên nền xanh xám của biển cả.
“Không phải thương buôn,” Achilles bình luận. Thuyền buôn chỉ dùng buồm trắng, thực dụng và rẻ tiền; người nào hẳn phải giàu lắm mới phí phạm phẩm màu để nhuộm vải buồm. Sứ giả của Agamemnon có buồm màu đỏ và tía, màu biểu tượng lấy cắp từ hoàng tộc phía bắc. Buồm của thuyền này màu vàng, với những mẫu hình đen xoáy vòng.
“Cậu có biết hoa văn kia không?” Tôi hỏi.
Achilles lắc đầu.
Chúng tôi nhìn con tàu lướt qua cửa vịnh Scyros chật hẹp và cập vào bờ cát. Một mỏ neo thô sơ đẽo từ đá được quăng khỏi tàu, cầu tàu hạ xuống. Chúng tôi ở quá xa để thấy được gì những người trên boong, ngoài mái tóc tối màu.
Chúng tôi đã nấn ná lâu hơn mức hợp lí. Achilles đứng dậy và bó mái tóc bị gió thổi tung trở lại vào trong khăn. Tay tôi bận rộn với những nếp gấp trên váy cậu, xếp cho chúng duyên dáng hơn trên vai cậu, buộc đai lưng và dây váy; giờ chẳng còn lạ lẫm gì khi nhìn cậu mặc váy nữa. Khi chúng tôi xong việc, Achilles cúi xuống hôn tôi. Môi cậu mềm mại trên môi tôi, và khiến tôi rung rinh. Cậu bắt gặp cảm xúc ấy trong mắt tôi và mỉm cười. “Để sau nhé,” cậu hứa với tôi, rồi quay người trở lại lối về cung điện. Cậu sẽ về khu của phụ nữ và đợi ở đó, giữa khung cửi và váy vóc, tới khi sứ giả rời đi.
Những cơn nhói đầu nho nhỏ bắt đầu xuất hiện sau mắt tôi; tôi về phòng mình, mát và tối, cửa chớp chặn lại ánh mặt trời ban trưa, và ngủ.
Tiếng gõ cửa đánh thức tôi. Có lẽ là người hầu, hay Lycomedes. Mắt vẫn nhắm, tôi hô lên, “Mời vào.”
“Có hơi muộn rồi,” tiếng ai đó trả lời. Giọng nói này nghe thích thú, ráo hoảnh như củi khô. Tôi mở mắt và ngồi dậy. Một người đàn ông đứng trước cánh cửa để mở. Anh ta chắc nịch và cơ bắp, với bộ râu triết gia tỉa ngắn, màu nâu sậm pha ánh đỏ nhạt nhất. Anh ta cười với tôi, và tôi thấy những nếp nhăn nơi những nụ cười khác đã in hằn lên. Cười là một việc dễ dàng với anh ta, nhanh gọn và chuyên nghiệp. Có điều gì ở nụ cười đó khơi gợi kí ức của tôi.
“Xin lỗi nếu ta có làm phiền cậu.” Giọng anh ta dễ chịu, lên xuống vừa phải.
“Không sao,” tôi cẩn trọng nói.
“Ta đang mong có thể nói vài lời với cậu. Cậu có phiền không nếu ta ngồi?” Anh ta ra hiệu về cái ghế với bàn tay to lớn. Yêu cầu này được đặt ra rất lịch sự; bất chấp cảm giác lo lắng của mình, tôi không tìm được lí do gì để từ chối.
Tôi gật đầu, và anh ta kéo ghế về phía mình. Tay anh ta chai sạn và thô ráp; trông chúng có vẻ quen cầm lưỡi cày, nhưng cử chỉ của anh ta lại toát lên vẻ quý tộc. Tôi đứng lên mở cửa chớp để câu giờ, mong rằng não mình sẽ thoát khỏi cơn mê ngủ mụ mị. Tôi không thể nghĩ ra được lí do gì khiến bất cứ ai muốn dành thời gian với tôi. Trừ khi anh ta đến để bắt tôi tuân theo lời thề. Tôi quay lại đối mặt với anh ta.
“Ngài là ai?” Tôi hỏi.
Người đàn ông bật cười. “Câu hỏi hay đấy. Ta thật thô lỗ, xông vào phòng cậu thế này. Ta là một trong những chỉ huy của vua Agamemnon vĩ đại. Ta đi tới các hòn đảo và nói chuyện với những chàng trai trẻ đầy triển vọng, như cậu đây” - anh nghiêng đầu về phía tôi - “về việc tham gia đoàn quân tiến đánh Troy. Cậu đã nghe về cuộc chiến này chưa?”
“Ta đã nghe về nó,” tôi trả lời.
“Tốt rồi.” Anh ta cười và duỗi chân ra phía trước. Ánh nắng phai nhạt rơi trên chân anh ta, phơi bày một vết sẹo đỏ hồng vá víu làn da rám nắng từ mắt cá lên đầu gối trên bắp chân phải. Vết sẹo đỏ hồng. Dạ dày tôi rớt xuống như thể đang nghiêng người khỏi vách đá cao nhất của Scyros, mà không có gì phía dưới ngoài cú rơi đằng đẵng xuống biển. Giờ anh ta đã già dặn hơn, và to lớn hơn, đang ở đỉnh cao của sức mạnh. Odysseus.
Anh ta nói gì đó, nhưng tôi không nghe thấy. Tôi đã trở lại sảnh đường của Tyndareus, nhớ lại đôi mắt đen thông minh không bỏ lỡ điều gì kia. Anh ta có biết tôi không? Tôi nhìn chằm chằm mặt anh ta, nhưng chỉ thấy sự mong chờ có phần bối rối. Anh ta đang đợi câu trả lời. Tôi nén nỗi sợ xuống.
“Xin lỗi,” tôi nói. “Ta chưa nghe thấy ngài nói gì. Gì cơ?”
“Cậu có hứng thú không? Tham gia chiến đấu với chúng tôi ấy?”
“Ta không nghĩ ngài sẽ muốn ta đâu. Ta không phải là một chiến binh giỏi.”
Môi anh ta gượng gạo cong lên. “Vui thật đấy - dường như chẳng ai là chiến binh giỏi khi ta đến kêu gọi cả.”
Giọng anh ta nhẹ bâng; đó là một câu nói đùa, không phải lời trách cứ. “Tên cậu là gì?”
Tôi cố nói năng bình thường như anh ta. “Chironides.”
“Chironides,” anh ta lặp lại. Tôi nhìn xem anh ta có nghi ngờ không, nhưng không thấy gì. Sự căng cứng trong những thớ cơ của tôi giảm đi đôi chút. Dĩ nhiên anh ta sẽ không nhận ra tôi đâu, tôi đã thay đổi rất nhiều kế từ hồi chín tuổi.
“Vậy thì, Chironides này, Agamemnon hứa hẹn vàng và danh tiếng cho tất cả những người chiến đấu cho ông ta. Trận này có vẻ sẽ ngắn; chúng ta sẽ gửi cậu về nhà vào mùa thu năm sau. Ta sẽ ở lại đây vài ngày, và ta mong là cậu sẽ cân nhắc chuyện đó.” Anh ta buông tay xuống đầu gối đế kết lời, và đứng dậy.
“Chỉ thế thôi?” Tôi đã tưởng sẽ có thuyết phục và ép buộc, cả một tối dông dài.
Anh ta cười, gần như trìu mến. “Ừ, thế thôi. Ta nghĩ ta sẽ gặp cậu vào bữa tối chứ?”
Tôi gật đầu. Anh ta dợm bước đi, rồi lại dừng lại. “Biết gì không, hay thật đấy; ta cứ nghĩ ta đã gặp cậu trước kia rồi.”
“Ta không nghĩ vậy đâu,” tôi vội vã nói. “Ta không nhận ra ngài.”
Anh ta săm soi tôi một hồi, rồi nhún vai, bỏ cuộc. “Chắc là ta nhầm cậu với một chàng trai trẻ khác. Cậu biết người ta nói gì mà. Càng già thì mình càng nhớ ít đi. Anh gãi râu vẻ đăm chiêu. “Cha cậu là ai? Có lẽ ta biết ông ấy.”
“Ta bị trục xuất.”
Anh ta tỏ ra đồng cảm. “Rất tiếc khi nghe chuyện đó. Cậu từ đâu tới?”
“Vùng bờ biển?’
“Bắc hay nam?”
“Nam.”
Anh ta 1ắc đầu ủ dột. “Ta thề là cậu từ phía bắc tới mà. Đâu đó gần Thessaly. Hoặc Phthia. Cậu phát âm các nguyên âm tròn trịa giống như họ vậy.”
Tôi nuốt khan. Ở Phthia, các phụ âm nghe nặng hơn những nơi khác, và các nguyên âm mở rộng hơn. Cách phát âm này đã từng xấu xí đối với tôi, cho tới khi tôi nghe Achilles nói. Tôi không nhận ra là mình đã nhiễm theo đến mức nào.
“Ta… ta không biết đó,” tôi lẩm bẩm. Tim tôi đang đập rất nhanh. Ước gì anh ta đi cho rồi.
“Mấy thông tin vô bổ là nợ đời của ta, e là vậy.” Anh ta lại vui vẻ, mỉm cười nhẹ. “Đừng quên tới tìm ta nếu cậu quyết định sẽ tham gia nhé. Hoặc nếu cậu biết chàng trai trẻ nào khác giống cậu mà ta nên nói chuyện cùng.” Cánh cửa khép lại sau lưng anh.
TIẾNG CHUÔNG BÁO BỮA TỐI RUNG LÊN và các hành lang đầy ắp người hầu bưng chén bát và ghế ngồi. Khi tôi bước vào sảnh đường, người vừa gặp tôi đã ở đó, đứng cạnh Lycomedes và một người khác.
“Chironides,” Lycomedes nhận ra tôi đã đến. “Đây là Odysseus, trị vì vùng Ithaca.”
“Cảm ơn những người tiếp đón chúng ta,” Odysseus nói. “Sau khi đi rồi ta mới nhận ra rằng ta chưa bao giờ xưng danh với cậu.”
Và mình không hỏi bởi vì mình đã biết. Đó là một sai lầm nhưng không phải là không khắc phục được. Tôi trợn mắt. “Ngài là vua ư?” Tôi quỳ xuống, với thái độ cung kính hoảng hốt nhất.
“Thật ra, hắn chỉ là một hoàng tử thôi,” ai đó dài giọng. “Ta mới là kẻ làm vua này.” Tôi ngẩng lên nhìn vào mắt người thứ ba; đôi mắt màu nâu nhạt đến nỗi gần thành màu vàng, và sắc sảo. Bộ râu của người này ngắn và đen, làm nổi bật lên hai bên gò má hóp xuống cằm nhọn hoắt trên mặt gã.
“Đây là ngài Diomedes, vua xứ Argos,” Lycomedes nói. “Một người đồng đội của ngài Odysseus.” Và là một kẻ cầu hôn Helen khác, dù tôi không nhớ gì ngoài tên gã.
“Thưa ngài.” Tôi cúi chào gã. Tôi không có thời gian để sợ bị nhận ra - gã đã quay mặt đi rồi.
“Chà.” Lycomedes ra hiệu về phía bàn. “Chúng ta dùng bữa chứ?”
Vào bữa tối rất nhiều cố vấn của Lycomedes ăn cùng chúng tôi, và tôi thấy mừng vì mình có thể tan biến giữa họ. Odysseus và Diomedes hầu như không quan tâm tới chúng tôi, chỉ chăm chú nói chuyện với nhà vua.
“Và Ithaca thế nào rồi?” Lycomedes lịch sự hỏi.
“Ithaca vẫn ổn, cảm ơn ngài.” Odysseus trả lời. “Ta để vợ và con ở đó, cả hai đều mạnh khỏe.”
“Hỏi hắn về vợ hắn đi,” Diomedes nói. “Hắn mê nói về vợ lắm. Ngài đã nghe kể chuyện hắn gặp vợ như thế nào chưa? Đấy là câu chuyện ưa thích của hắn.” Giọng gã có phần khiêu khích, gần như chẳng che đậy gì. Những người ngồi quanh tôi ngừng ăn, để nhìn họ.
Lycomedes nhìn qua lại giữa hai người, rồi mạnh dạn hỏi, “Và ngài gặp vợ ngài như thế nào vậy, hoàng tử xứ Ithaca?”
Nếu Odysseus cảm thấy căng thẳng, anh ta cũng không thể hiện ra. “Ngài thật tốt bụng vì đã hỏi. Khi Tyndareus tìm chồng cho Helen, người cầu hôn tới từ mọi vương quốc. Ta chắc là ngài có nhớ.”
“Khi đó ta đã kết hôn rồi,” Lycomedes nói. “ Ta không tới.”
“Dĩ nhiên rồi. Và đám này thì còn quá trẻ, ta e là vậy.” Anh ta cười với tôi, rồi quay lại với nhà vua.
“Trong số những người đó, ta may mắn tới nơi đầu tiên. Nhà vua mời ta vào ăn tối với gia đình: Helen; chị gái nàng, Clytemnestra; và em họ Penelope của họ.”
“Mời vào,” Diomedes giễu cợt. “Người ta gọi việc bò trườn qua bãi dương xỉ để rình mò họ là mời mọc à?”
“Ta chắc chắn rằng hoàng tử xứ Ithaca sẽ không làm những chuyên như vậy.” Lycomedes cau mày.
“Thật không may là ta làm đúng như vậy, nhưng ta cảm kích niềm tin của ngài nơi ta.” Anh ta tặng Lycomedes một nụ cười chan hòa. “Thật ra, Penelope là người đã bắt được ta. Nàng nói rằng nàng đã quan sát ta được hơn một tiếng rồi và nghĩ rằng nàng nên can thiệp trước khi ta bò vào bụi gai. Đương nhiên, chuyên này có chút lúng túng, nhưng cuối cùng Tyndareus hoàn hồn và mời ta ở lại. Xuyên suốt bữa tối, ta nhận ra rằng Penelope thông minh gấp đôi mấy chị em họ và xinh đẹp tương đương. Nên là…”
“Đẹp bằng Helen ư?” Diomedes cắt lời. “Đó có phải lí do tại sao nàng lúc ấy hai mươi và vẫn chưa có chồng?”
Giọng Odysseus nhẹ nhàng. “Ta chắc chắn là người ta sẽ không khiến một người phải nghĩ vợ mình kém hơn người phụ nữ khác,” anh ta nói.
Diomedes đảo mắt và ngồi yên lại để xỉa răng bằng mũi dao của gã.
Odysseus quay lại với Lycomedes. “Nên là, sau cuộc trò chuyện, khi đã rõ ràng là công nương Penelope yêu thích ta…”
“Không phải vì nhan sắc của ngươi, chắc chắn rồi,” Diomedes bình luận.
“Chắc chắn là không rồi,” Odysseus đồng tình. “Nàng hỏi ta sẽ tặng quà cưới gì cho cô dâu của mình. Một chiếc giường cưới, ta trả lời, một cách khá hào phóng, làm từ gỗ sồi tốt nhất. Nhưng câu trả lời này không làm nàng hài lòng. ‘Giường cưới không nên làm từ gỗ khô cứng, chết chóc, mà nên từ thứ gì đó xanh tốt và còn sống,’ nàng nói với ta. ‘Và nếu ta làm được chiếc giường như vậy thì sao?’ tôi hỏi. ‘Nàng sẽ lấy ta chứ?’ Và nàng nói…”
Nhà vua xứ Argos kêu lên ghê tởm. “Ta chán muốn chết với cái chuyện về giường cưới của nhà ngươi rồi.”
“Thế thì có lẽ ngươi đừng nên gợi ý ta kể chuyện này mới phải.”
“Và có lẽ ngươi nên tìm thêm mấy câu chuyện của nợ mới, để ta không phải tự tử chết bà luôn vì quá chán.”
Lycomedes trông khá sững sờ; chửi thề chỉ dành cho lúc ở phòng riêng và thao trường, không phải tiệc tối trang trọng. Nhưng Odysseus chỉ buồn bã lắc đầu. “Thật sự, đám người Argos này mỗi năm một thêm man rợ hơn. Vua Lycomedes, chúng ta hãy cho vua xứ Argos thấy một chút văn mình đi nào. Ta đang mong được chiêm ngưỡng qua các vũ công nổi tiếng trên hòn đảo của ngài.”
Lycomedes nuốt khan. “Phải rồi,” ông nói. “Ta đã không nghĩ là…” Ông ngừng lại, rồi lại nói tiếp, bằng giọng vua chúa nhất ông có thể nói. “Nếu ngài muốn xem.”
“Chúng ta muốn xem.” Đây là lời Diomedes.
“Được.” Mắt Lycomedes đảo qua lại giữa hai người. Thetis đã ra lệnh cho ông phải giấu đám phụ nữ khỏi mọi người khách, nhưng từ chối sẽ gây nghi ngờ. Ông hắng giọng, quyết định. “Được, vậy thì để ta gọi họ tới.” Ông mạnh mẽ ra hiệu cho một người hầu, người nọ quay lưng chạy khỏi sảnh. Tôi dán mắt lên đĩa, để họ không thấy nỗi sợ hãi trên mặt tôi.
Đám phụ nữ ngạc nhiên vì bị triệu vào và vẫn đang sửa sang vài chi tiết nhỏ trên trang phục và đầu tóc khi họ tiến vào sảnh. Achilles đang ở giữa bọn họ, tóc được trùm cẩn thận, ánh nhìn hạ xuống khiêm nhường. Mắt tôi lo lắng liếc Odysseus và Diomedes, nhưng không ai nhìn đến cậu.
Các nàng vào vị trí, và âm nhạc nổi lên. Chúng tôi quan sát họ bắt đầu một chuỗi những bước nhảy phức tạp. Điệu nhảy thật đẹp, tuy đã bớt đẹp vì vắng Deidameia; nàng vốn là vũ công giỏi nhất trong số họ.
“Con gái ngài đâu?” Diomedes hỏi.
“Con bé không ở đây, vua xứ Argos ạ. Con bé đang đi thăm họ hàng.”
Tiếc thật, Diomedes nói. “Ta đã mong rằng kia là nàng.” Gã chỉ về một thiếu nữ ở phía cuối, nhỏ nhắn và tóc đen; nàng nhìn hơi giống Deidameia thật, và cổ chân nàng đặc biệt xinh đẹp, lấp ló dưới mép váy xoay vòng.
Lycomedes hắng giọng. “Ngài đã kết hôn chưa, thưa ngài?
Diomedes nhếch miệng. “Lúc này thì có.” Mắt gã chưa lần nào rời khỏi những người phụ nữ.
Khi điệu nhảy kết thúc, Odysseus đứng dậy, cao giọng để mọi người đều nghe thấy. “Chúng ta cảm thấy thật vinh hạnh khi được xem các nàng biểu diễn; không phải ai cũng có thể nói rằng họ đã được thấy các vũ công đảo Scyros. Để bày tỏ lòng ngưỡng mộ, chúng ta đã mang quà tới cho các nàng và vua của các nàng.”
Những tiếng thì thầm phấn khởi. Vật phẩm xa xỉ không hay cập bến Scyros; không ai ở đây có tiền mua chúng.
“Ngài tốt bụng quá.” Mặt Lycomedes đỏ bừng vì nỗi vui sướng chân thật; ông đã không trông đợi sự hào phóng này. Người hầu mang những chiếc rương tới trước khi Odysseus ra lệnh và bắt đầu dỡ đồ đặt lên các bàn dài. Tôi thấy sắc bạc lấp lánh, thuỷ tinh và đá quý long lanh. Tất cả chúng tôi, phụ nữ và đàn ông, vươn về phía quà tặng, háo hức muốn nhìn.
“Xin các vị, cứ lấy những gì các vị muốn,” Odysseus nói. Các thiếu nữ lập tức lướt về phía bàn, và tôi thấy họ mân mê những món đồ lấp lánh: nước hoa trong những lọ thuỷ tinh nhỏ được bịt bằng chút sáp; gương với tay cầm bằng ngà voi chạm khắc; vòng tay bằng vàng uốn; ruy băng nhuộm màu đỏ và tím đậm. Trong đống đồ đó có vài thứ tôi đoán là dành cho Lycomedes và các cố vấn của ông: khiên có quai da thuộc, cán giáo chạm khắc, và kiếm mạ bạc với bao bằng da dê mềm oặt. Mắt Lycomedes đã nhìn tới một trong số chúng, như con cá mắc vào dây câu. Odysseus đứng gần đó, làm một người chủ trì rộng lượng.
Achilles đứng ở phía sau, chậm rãi đi dọc các bàn. Câu ngừng lại để chấm chút nước hoa lên cổ tay mảnh khảnh, vuốt ve tay cầm mượt mà của một cái gương. Cậu nấn ná hồi lâu vì một đôi khuyên tai, đá xanh giữ bằng dây bạc.
Chuyển động ở phía cuối sảnh thu hút ánh mắt tôi. Diomedes đã băng qua phòng và đang nói chuyện với một trong số người hầu của gã, người này gật đầu và đi ra qua lối cửa lớn. Dù là điều gì đi nữa thì nó cũng chẳng quan trọng; Diomedes trông như đang gà gật, mi mắt gã trĩu xuống và chán chường.
Tôi quay lại nhìn Achilles. Giờ cậu đang giơ đôi khuyên tai lên tai, xoay chúng sang phía nọ phía kia, mím môi, giả vờ nữ tính. Điều này khiến cậu vui vẻ, và khóe miệng cậu cong lên. Mắt cậu liếc khắp sảnh, dừng lại một lúc trên mặt tôi. Tôi không thể nhịn được. Tôi mỉm cười.
Một hồi kèn nổi lên, ồn ào và hoảng hốt. Nó tới từ bên ngoài, một tiếng trầm đục, theo sau bởi ba hồi ngắn hơn: tiếng báo hiệu thảm họa khủng khiếp nhất sắp xảy đến. Lycomedes lảo đảo đứng dậy, lính gác quay phắt về phía cửa. Các thiếu nữ hét lên và túm tụm vào nhau, thả rơi kho báu của các nàng xuống sàn khiến thuỷ tỉnh leng keng vỡ vụn.
Mọi thiếu nữ chỉ trừ một người. Trước khi hổi kèn cuối cùng kết thúc, Achilles đã vớ lấy một trong những thanh kiếm mạ bạc và lột phăng bao kiếm da dê. Bàn ăn chặn lối cậu tới cửa; cậu nhảy vụt lên, tay kia túm lấy một cây giáo trên bàn khi cậu nhảy qua. Cậu tiếp đất, và vũ khí đã sẵn sàng giơ lên, nắm chắc trong tay với một tư thế chết chóc trông chẳng giống thiếu nữ nào, cũng chẳng như bất cứ thiếu niên nào. Chiến hình vĩ đại nhất của thế hệ này.
Tôi quét mắt từ chỗ Odysseus sang Diomedes và kinh hãi khi thấy họ mỉm cười. “Xin chào, hoàng tử Achilles,” Odysseus nói. “Chúng ta đang tìm cậu.”
Tôi vô dụng đứng đó khi những khuôn mặt trong cung điện của Lycomedes ghi nhận lời Odysseus nói, quay sang Achilles, nhìn chòng chọc. Achilles bất động mất một lúc. Rồi, chậm rãi, cậu hạ vũ khí xuống.
“Ngài Odysseus,” cậu nói. Giọng cậu bình tĩnh một cách đáng kinh ngạc. “Ngài Diomedes.” Cậu nghiêng đầu lịch sự, cư xử như một hoàng tử với hoàng tử khác. “Thật vinh hạnh cho ta khi được làm mục tiêu của từng ấy công sức.” Đó là một câu trả lời tuyệt vời, đầy phẩm giá và pha chút mỉa mai bâng quơ nhất. Giờ họ sẽ khó lòng hạ nhục cậu.
“Ta cho rằng ngài muốn nói chuyện với ta? Chờ một lát, và ta sẽ tiếp ngài.” Cậu cẩn thận đặt kiếm và giáo xuống bàn. Với những ngón tay vững vàng, cậu cởi khăn trùm đầu ra, lột nó xuống. Tóc cậu, khi đã lộ ra, tỏa sáng như đồng được đánh bóng. Đàn ông và phụ nữ trong cung điện của Lycomedes thì thầm với nhau trong sự phẫn nộ câm lặng; mắt họ dán lên người cậu.
“Có lẽ thứ này sẽ có ích?” Odysseus đã lấy ra một chiếc tunic từ túi hay hộp nào đó. Anh ta quăng cho Achilles, cậu bắt lấy nó.
“Cảm ơn ngài,” Achilles nói. Toàn cung điện quan sát, mê muội, khi cậu giở nó ra, cởi váy đến tận hông, rồi trùm tunic lên.
Odysseus quay về phía đầu sảnh, “Vua Lycomedes, liệu chúng ta có thể mượn một phòng nghị sự không? Chúng ta có rất nhiều việc phải thảo luận với hoàng tử xứ Phthia.”
Mặt Lycomedes như một chiếc mặt nạ đông cứng. Tôi biết ông đang nghĩ về Thetis, và hình phạt. Ông không trả lời.
“Vua Lycomedes.” Giọng Diomedes gắt gỏng, vang lên như một cú đấm.
“Được,” Lycomedes rền rĩ. Tôi thương hại ông. Tôi thương hại tất cả chúng tôi. “Được. Qua ngay bên kia thôi.” Ông chỉ.
Odysseus gật đầu. “Cảm ơn ngài.” Anh ta đi về phía cửa, đầy tự tin, như thế chẳng hề nghi ngờ Achilles sẽ làm gì khác ngoài đi theo.
“Xin mời,” Diomedes nhếch mép. Achilles lưỡng lự, và mắt cậu hướng về phía tôi, chỉ một cái nhìn thoáng qua.
“À phải rồi,” Odysseus nói qua vai anh ta. “Cậu cứ thoải mái mang theo Patroclus, nếu cậu muốn. Chúng ta cũng có việc phải bàn với cậu ta.”