Trường Ca Achilles - Chương 23
CHƯƠNG HAI MƯƠI BA
MỘT NGÀY LỄ NỌ, KHÔNG LÂU SAU KHI CUỘC đổ bộ của chúng tôi vào Troy, Achilles thức dậy vào lúc bình minh. “Cậu đi đâu thế?” Tôi hỏi.
“Tới chỗ mẹ mình,” cậu nói, rồi luồn qua cửa lều trước khi tôi nói thêm được gì.
Mẹ cậu. Phần nào đó trong tôi đã hi vọng, đầy ngốc nghếch, rằng bà sẽ không theo chúng tôi tới đây. Rằng nỗi đau, hay khoảng cách, sẽ đẩy bà ra xa. Nhưng dĩ nhiên là không. Bờ biển Anatolia không bất tiện hơn bờ biển Hy Lạp là bao. Và nỗi buồn chỉ khiến bà ở thăm lâu hơn. Cậu sẽ rời đi lúc bình minh, và mặt trời đã gần lên đỉnh trước khi cậu trở lại. Tôi sẽ đợi cậu, trong lúc đi qua đi lại và bồn chồn. Bà có thể nói gì với cậu mà lâu như thế? Thảm họa thần thánh nào đó, tôi sợ là vậy. Hay tiếng gọi nào đó của số mệnh sẽ cướp cậu khỏi tôi.
Briseis thường tới đợi cùng tôi. “Anh có muốn đi bộ lên rừng không?” Nàng sẽ hỏi như vậy. Chỉ riêng thanh âm trầm thấp ngọt ngào của nàng, và việc nàng muốn an ủi tôi, đã giúp tôi thoát khỏi bản thân mình. Và đi cùng nàng vào rừng luôn xoa dịu tôi. Dường như nàng biết hết bí mật của rừng, giống như thầy Chiron vậy - nơi những cây nấm ẩn nấp, và nơi thỏ đào hang. Nàng thậm chí còn bắt đầu dạy tôi tên bản địa của hoa cỏ và cây cối.
Khi đã đi hết, chúng tôi sẽ ngồi ở bìa rừng, nhìn xuống khu trại, để tôi có thể trông ngóng cậu trở lại. Hôm nay, nàng đã hái một giỏ nhỏ đầy rau ngò; mùi hương rau xanh tươi mới thoang thoảng khắp xung quanh.
“Tôi chắc anh ấy sẽ về sớm thôi,” nàng nói. Từ ngữ của nàng như da mới thuộc, vẫn thô sơ và chính xác, chưa được thành thục xâu chuỗi với nhau. Khi tôi không trả lời, nàng hỏi, “Tại sao anh ấy đi lâu vậy?”
Sao nàng lại không nên biết chứ? Điều đó có phải bí mật gì đâu.
“Mẹ cậu ấy là một nữ thần,” tôi nói. “Tiên biển. Cậu ấy tới gặp mẹ.”
Tôi đã tưởng nàng sẽ giật mình hay sợ hãi, nhưng nàng chỉ gật đầu. “Tôi đã nghĩ anh ấy là… gì đó. Anh ấy không…” Nàng ngừng lại. “Anh ấy không đi đứng như con người.”
Lúc ấy tôi đã mỉm cười. “Con người đi đứng như thế nào?
“Như anh,” nàng nói.
“Thế tức là vụng về rồi.”
Nàng không biết từ đó. Tôi mô tả cho nàng, định chọc nàng cười. Nhưng nàng lắc đầu, kịch liệt. “Không. Anh không như vậy. Đó không phải ý tôi.”
Tôi chẳng bao giờ nghe được ý nàng là gì, bởi ngay lúc đó Achilles đã leo lên đồi.
“Mình đã nghĩ mình sẽ tìm được cậu ở đây,” cậu cất tiếng. Briseis xin phép lui, và trở về lều của nàng. Achilles đổ vật xuống đất, tay gối sau đầu.
“Mình đói chết mất.” cậu nói.
“Đây.” Tôi đưa cho cậu phần còn lại của chỗ phô mai chúng tôi lấy cho bữa trưa. Cậu ăn trong vui sướng.
“Cậu đã nói chuyện gì với mẹ?” Tôi gần như hồi hộp khi hỏi cậu. Khoảng thời gian cậu dành cho mẹ không phải ngăn cấm gì, nhưng đều tách biệt đối với tôi.
Cậu thở ra, không giống thờ dài cho lắm. “Mẹ lo cho mình,” cậu nói.
“Tại sao?” Tôi xù lông trước suy nghĩ rằng bà lo lắng cho cậu; đó là việc của tôi.
“Mẹ nói rằng có dị động giữa các vị thần, rằng họ đang gây gổ với nhau, chia bè kéo cánh trong cuộc chiến này. Mẹ sợ rằng các thần đã hứa hẹn cho mình danh tiếng, nhưng không hứa là danh tiếng cỡ nào.”
Đây là một mối lo mới mà tôi chưa cân nhắc tới. Nhưng dĩ nhiên rồi: Có nhiều nhân vật trong những câu chuyện của chúng tôi. Perseus vĩ đại hay Peleus khiêm nhường. Heracles hay Hylas[22] gần như đã bị lãng quên. Vài nhân vật có cả một thiên sử thi, số khác chỉ có một đoạn thơ.
Cậu ngồi dậy, vòng tay ôm đầu gối. “Mình nghĩ mẹ sợ rằng ai đó sẽ giết Hector. Trước khi mình làm vậy.”
Lại một nỗi sợ khác. Sinh mệnh của Achilles đột ngột bị rút ngắn hơn cả bây giờ. “Ý bà ấy là ai?”
“Mình không biết. Ajax đã thử rồi và thất bại. Diomedes cũng vậy. Họ là những người giỏi nhất sau mình. Mình không nghĩ ra được ai khác.”
“Còn Menelaus thì sao?”
Achilles lắc đầu. “Không bao giờ. Ông ta dũng cảm và hùng mạnh, nhưng chỉ có vậy thôi. Ông ta va vào Hector sẽ như nước táp vào đá. Thế nên. Là mình, hoặc không ai cả.”
“Cậu không được giết anh ta.” Tôi cố gắng không để giọng mình nghe như đang cầu xin.
“Mình sẽ không mà.” Cậu im lặng một lát. “Nhưng mình thấy được cảnh đó. Đó là điểm kì quái. Như ở trong mơ vậy. Mình có thế thấy bản thân phóng cây giáo, thấy anh ta ngã xuống. Mình đi tới chỗ thi thể và đứng cạnh nó.”
Nỗi khiếp đảm dâng lên trong ngực tôi. Tôi hít vào một hơi, cố xua cảm giác ấy đi. “Rồi sao nữa?”
“Đó là chỗ quái lạ nhất. Mình nhìn xuống máu anh ta và biết rằng cái chết của mình đang tới. Nhưng trong mơ mình chẳng quan tâm. Điều mình cảm thấy, trên hết, là nhẹ lòng.”
“Cậu có nghĩ đó có thể là điềm báo không?”
Câu hỏi này dường như khiến cậu lúng túng. Cậu lắc đầu. “Không. Mình nghĩ nó chẳng là gì đâu. Chỉ là một thoáng mơ màng mà thôi.”
Tôi ép giọng mình phải nhẹ nhõm được như giọng cậu. “Mình chắc là cậu nói đúng. Sau cùng, Hector chẳng làm gì cậu cả.”
Khi ấy cậu mỉm cười, như tôi đã mong chờ. “Ừ,” cậu nói. “Mình có nghe người ta nói vậy.”
TRONG NHỮNG GIỜ ĐẰNG ĐẴNG khi Achilles vắng mặt, tôi bắt đầu lang thang khỏi khu trại của chúng tôi, tìm tôi bầu bạn, tìm điều gì đó để khiến bản thân bận rộn. Tin tức của Thetis khiến tôi lo lắng; tranh chấp giữa các vị thần, danh tiếng vĩ đại của Achilles bị đe dọa. Tôi không biết phải nghĩ gì chuyện đó, và những câu hỏi chạy vòng vòng trong đầu tôi tới khi tôi suýt phát điên. Tôi cần việc để giải khuây, việc gì đó đúng đắn và thiết thực. Một trong mấy người lính chỉ tôi tới căn lều trắng của y sư. “Nếu cậu đang tìm việc gì đó để làm, thì họ luôn cần trợ giúp đấy,” anh ta nói. Tôi nhớ về bàn tay kiên nhẫn của thầy Chiron, những dụng cụ treo trên vách hang thạch anh hồng. Tôi đi tới đó.
Trong lều mờ mịt, không trung tối, ngọt và nồng, nặng mùi kim loại từ máu. Ở một góc là y sư Machaon, với bộ râu quai nón, quai hàm bành bạnh, thực dụng mà cởi trần, chiếc tunic cũ buộc lộn xộn quanh hông. Da ông tối màu hơn đa số dân Hy Lạp, bất chấp việc ở trong lều biết bao lâu, và tóc ông hớt ngắn, vẫn là vì thiết thực, để không rũ xuống mắt. Ông đang cúi người trên chân một người bị thương, ngón tay nhẹ nhàng xem xét một đầu mũi tên ghim lên dó. Ở phía bên kia lều, em trai ông là Podalerius đã mặc xong chiến giáp lên người. Ông chào Machaon một tiếng xuề xòa trước khi vòng qua tôi ra khỏi cửa. Ai cũng biết rằng ông thích chiến trường hơn là lều quân y, dù ông phục vụ ở cả hai nơi.
Machaon nói mà không ngẩng lên: “Nếu đứng được lâu vậy thì cậu hẳn không bị thương nặng rồi.”
“Không,” tôi nói. “Ta tới đây…” Tôi ngừng lại khi đầu mũi tên được lấy ra dưới những ngón tay của Machaon, và người lính rên lên nhẹ nhõm.
“Sao?” Giọng ông nghiêm túc nhưng không khó chịu.
“Ngài có cần giúp đỡ không?”
Ông ừ hử một tiếng mà tôi đoán là mang ý chấp thuận. “Ngồi xuống và cầm thuốc cho ta,” ông nói, không nhìn tôi. Tôi làm theo, gom lại những lọ nhỏ vương vãi trên sàn, vài cái lóc xóc tiếng thảo dược bên trong, vài cái nặng chích thuốc mỡ. Tôi ngửi chúng và nhớ lại: thuốc bôi từ tỏi và mật ong chống nhiễm trùng, hoa anh túc để gây mê, và vạn diệp giúp cầm máu. Hàng tá thảo dược khiến tôi hồi tưởng lại những ngón tay kiên nhẫn của người thầy nhân mã, và mùi cây cỏ ngọt ngào trong hang động thạch anh hồng.
Tôi đưa ra những lọ ông cần và nhìn ông khéo léo bôi thuốc - một nhúm thuốc mê bôi lên môi trên người lính để anh ta hít và nhấm nháp, quệt chút thuốc chống nhiễm trùng, rồi băng gạc để buộc và che vết thương. Machaon xoa đều lớp sáp ong mịn mượt, thơm phức lên chân người lính và mệt mỏi ngẩng lên. “Patroclus, phải không? Và cậu học ở chỗ Chiron? Chào mừng cậu tới đây.”
Có tiếng ồn ào ngoài lều, những giọng quát tháo và tiếng rên đau đớn. Ông gật đầu về phía đó. “Họ lại mang cho chúng ta một người nữa - Cậu chăm anh ta đi.”
Mấy người lính, lính của Nestor, nâng đồng đội lên chiếc nệm rơm trống trong góc lều. Anh ta bị một mũi tên bắn trúng, loại mũi tên có răng cưa, lên vai phải. Mồ hôi trên mặt anh ta sủi bọt, và anh ta gần như cắn đứt lìa môi mình để cố không la hét. Hơi thở của anh ta giờ hổn hển bít bùng bật ra, tròng mắt hoảng loạn xoay vòng và run rẩy. Tôi cố kìm nén xung động muốn gọi Machaon - ông đang bận bịu với một người bắt đầu kêu khóc - và với lấy mảnh khăn để lau mặt anh ta.
Mũi tên đã đâm thủng phần thịt dày nhất trên vai anh ta và xuyên một nửa ở trong và một nửa ở ngoài, như một mũi kim thật khủng khiếp. Tôi sẽ phải bẻ gãy phần đuôi và lôi phần mũi ra khỏi vai anh ta, mà không làm vết thương rách thêm hay để lại dằm gỗ có thể gây mưng mủ.
Vội vã, tôi cho anh ta uống thứ thuốc nước thầy Chiron đã dạy tôi pha chế: một hỗn hợp anh túc và cành liễu khiến bệnh nhân mơ màng và vô cảm với đau đớn. Anh ta không giữ được cốc, nên tôi cầm cho anh ta uống, nâng đầu anh ta lên và giữ để anh ta không bị sặc, cảm nhận mồ hôi, bọt nước và máu thấm vào tunic của tôi.
Tôi cố để mình trông vững vàng, cố không để lộ sự hoảng loạn tôi đang cảm thấy bên trong. Người lính chỉ lớn hơn tôi một hai tuổi, tôi thấy vậy. Đó là một trong số các con trai của Nestor, tên Antilochus, một chàng trai trẻ với gương mặt ngọt ngào và yêu thương cha mình vô cùng. “Sẽ ổn cả thôi,” tôi nói, hết lần này tới lần khác, không rõ là với bản thân hay với anh ta nữa.
Vấn đề là cán mũi tên; thường y sư sẽ bẻ gãy một đầu, trước khi lôi mũi tên ra bên kia. Nhưng không có đủ cán tên lộ ra trên ngực anh ta để thực hiện điều đó mà không phải rạch vết thương ra thêm. Tôi không thể để yên như vậy, hay lôi cả đuôi mũi tên xuyên qua vết thương. Vậy giờ làm sao?
Đằng sau tôi một trong mấy người lính đã mang anh ta tới đây đứng bồn chồn ở cửa vào. Tôi ra hiệu cho anh ta qua vai mình.
“Đưa ta con dao, nhanh lên. Con sắc nhất mà anh tìm được.” Tôi khiến bản thân ngạc nhiên với uy quyền hối thúc trong giọng mình, và cách nó khiến người khác tuân lệnh ngay lập tức. Anh ta trở lại với một lưỡi dao ngắn, được mài sắc lẻm để cắt thịt, vẫn còn đóng cặn máu khô. Anh ta lau sạch dao lên tunic trước khi đưa cho tôi.
Cơ mặt chàng trai giờ đã chùng xuống, lưỡi lỏng lẻo đá trong miệng. Tôi nghiêng người trên anh ta và nắm mũi tên, bóp nát lông đuôi trong lòng bàn tay ẩm ướt. Tôi bắt đầu cưa bằng tay kia, cắt từng mảnh nhỏ qua cán gỗ, nhẹ nhàng nhất có thế, để không rung động đến vai chàng trai. Anh ta sụt sịt và lẩm bẩm, lạc lối trong làn sương mà nước thuốc mang lại.
Tôi cưa và chống tay rồi lại cưa. Lưng tôi đau nhói, và tôi quở trách bản thân vì đã đặt đầu anh ta lên đầu gối mình, vì đã không chọn một tư thế tốt hơn. Mãi rồi phần đuôi lông vũ cũng gãy ra, chỉ sót lại một mảnh dài mà lưỡi dao nhanh chóng cắt đứt. Cuối cùng cũng xong.
Tiếp đó, khó không kém là rút thân tên ra từ phía bên kia vai anh ta. Trong một khoảnh khắc chợt lóe, tôi vớ lấy thuốc chống nhiễm trùng và cẩn thận phủ lên cán gỗ, mong rằng thuốc sẽ khiến nó trượt qua dễ dàng hơn và chống hoại tử. Rồi, từng chút một, tôi bắt đầu kéo mũi tên xuyên qua. Sau một khoảng thời gian tưởng như vài canh giờ, phần đuôi lởm chởm đã thoát ra, đẫm máu. Với chút lí trí cuối cùng, tôi băng bó vết thương, buộc nó thành một kiểu dây đeo vòng qua ngực anh ta.
Về sau Podalerius bảo rằng tôi điên rồi nên mới làm như vậy, cắt chậm rãi như thế, ở góc độ như vậy - chỉ giật gọn một cái, ông nói, là đuôi tên sẽ gãy lìa. Hãy mặc kệ vết thương bị chấn động bên trong, còn những người lính khác cần được chăm sóc. Nhưng Machaon đã thấy vai Antilochus thuận lợi lành thương thế nào, không bị nhiễm trùng và ít gây đau đớn, và lần tiếp theo có người bị tên bắn ông đã gọi tôi tới, đưa tôi một lưỡi dao sắc bén, và nhìn tôi đầy mong đợi.
ĐÓ LÀ MỘT KHOẢNG THỜI GIAN KÌ LẠ. Trên đầu chúng tôi, mỗi giây mỗi phút, treo lơ lửng nỗi khiếp sợ về số mệnh của Achilles, trong lúc những lời xì xầm về cuộc chiến giữa các vị thần mỗi lúc một nhiều. Nhưng ngay cả tôi cũng không thể lấp đầy từng giây từng phút với nỗi sợ. Tôi nghe kể rằng những người sống cạnh thác nước dần dần không còn nghe thấy tiếng thác đổ - theo đó tôi đã học cách sống cạnh dòng chảy hối hả xuôi về cái chết của cậu. Ngày cứ trôi, và cậu vẫn sống. Tháng trôi qua, và tôi có thể trải qua một ngày mà không nhìn xuống vực thẳm tận số của cậu. Ấy là phép màu sau một năm, rồi hai năm, trôi qua.
Những người khác dường như cũng dần thả lỏng giống tôi. Trong khu trại chúng tôi bắt đầu hình thành một kiểu gia đình, quây quần quanh đống lửa trong bữa tối. Khi mặt trăng lên cao và những ngôi sao ló dạng trên nền trời tối đen, tất cả chúng tôi đều tìm đường tới đó: Achilles và tôi, Phoenix lụ khụ, và rồi cánh phụ nữ - vốn chỉ có Briseis, nhưng giờ là cả một nhóm nhỏ những khuôn mặt lắc lư, yên tâm khi thấy sự chào đón dành cho Briseis. Và còn một người nữa - Automedon, trẻ nhất trong số chúng tôi, chỉ mới mười bảy tuổi. Cậu chàng là một người ít nói, Achilles và tôi đã chứng kiến cậu mỗi ngày một mạnh mẽ và khéo léo hơn khi học cách điều khiển những con ngựa khó bảo của Achilles, cách cậu ta đánh xe vòng quanh chiến trường với đủ nét hoa mĩ cần thiết.
Achilles và tôi rất vui khi được tiếp đón họ quanh lò lửa của hai đứa, vào vai người lớn mà chúng tôi chẳng thấy mình có chút nào giống, khi chúng tôi phục vụ thịt và rót rượu. Khi ngọn lửa lụi dần, chúng tôi sẽ lau chùi sự mỡ màng của bữa ăn khỏi mặt mình, và ầm ĩ đòi Phoinix kể chuyện. Ông sẽ ngả người ra sau trên ghế và chiều theo. Ánh lửa khiến góc cạnh trên mặt ông hằn sâu hơn, trông giống một cư dân thành Delphi, giống bí ẩn nào đó mà các thầy bói hay cố giải đáp.
Briseis cũng kể chuyện, những câu chuyện kì lạ và huyền ảo - về bùa chú, về những vị thần bị ma thuật mê hoặc và những phàm nhân đi ngang qua họ mà không hề hay biết; những vị thần này trông đều quái lạ, nửa người nửa thú: Họ là những vị thần thôn dã, không phải những vị thần tối cao mà thành thị tôn thờ. Những câu chuyện đều tuyệt đẹp, được kể lại bằng chất giọng trầm lắng du dương của nàng. Đôi khi chúng cũng hài hước - nàng bắt chước Cyclops[23], hay một con sư tử đánh hơi tìm người ẩn nấp.
Sau đó, khi chúng tôi còn lại một mình, Achilles sẽ kể lại vài mẩu nho nhỏ của những câu chuyện ấy, bằng giọng cao hơn, gảy vài nốt nhạc trên đàn lia. Rất dễ để nhìn ra những điều dễ thương như vậy có thể viết thành bài hát như thế nào. Và tôi mừng, vì tôi cảm thấy cậu đã nhìn nhận nàng, đã hiểu tại sao tôi dành cả ngày với nàng khi cậu vắng mặt. Giờ nàng đã là một trong số chúng tôi, tôi thầm nghĩ. Một thành viên trong đám chúng tôi, suốt cả đời này.
VÀO MỘT TRONG NHỮNG ĐÊM NHƯ VẬY, Achilles đã hỏi nàng biết những gì về Hector.
Nàng đang chống tay nghiêng người ra sau, mặt trong khuỷu tay hồng hào được sưởi ấm bên đống lửa. Nhưng khi cậu hỏi, nàng giật mình đôi chút và ngồi thẳng dậy. Cậu không thường trực tiếp nói chuyện với nàng, và nàng với cậu cũng vậy. Đó là di chứng, có lẽ vậy, của chuyện đã xảy ra nơi thôn làng của nàng.
“Tôi không biết nhiều,” nàng nói. “Tôi chưa thấy ngài ấy bao giờ, hay ai khác trong gia đình vua Priam.”
“Nhưng nàng hẳn đã nghe nói vài điều.” Giờ chính Achilles cũng nghiêng tới trước.
“Một chút thôi. Tôi biết nhiều về vợ ngài ấy hơn.”
“Gì cũng được,” Achilles nói.
Nàng gật đầu, khẽ hắng giọng như nàng thường làm trước khi kể chuyện. “Tên phu nhân là Andromache, và phu nhân là con gái duy nhất của vua Eetion xứ Cilicia. Người ta nói ngài Hector yêu phu nhân hơn bất kì thứ gì khác.”
“Ngài gặp phu nhân lần đầu tiên khi ngài tới vương quốc của cha phu nhân để nhận cống nạp. Phu nhân đón chào ngài, và khiến ngài vui vẻ trong bữa tiệc tối hôm đó. Vào cuối buổi tiệc, ngài Hector đã xin cha phu nhân cho ngài được cưới phu nhân.”
“Nàng ấy hẳn phải rất đẹp.”
“Người ta nói phu nhân đẹp, nhưng không phải là thiếu nữ đẹp nhất ngài Hector có thể kiếm được. Phu nhân được biết đến vì tính cách ngọt ngào và tâm hồn dịu dàng. Người dân yêu quý phu nhân vì phu nhân thường mang thức ăn và quần áo cho họ. Phu nhân đã mang thai, nhưng tôi chưa nghe thấy tin gì về đứa trẻ.”
“Cilicia là ở đâu?” Tôi hỏi.
“Vương quốc đó ở phía nam, bên bờ biển, không xa lắm nếu đi bằng ngựa.”
“Gần Lesbos,” Achilles nói. Briseis gật đầu.
Sau đó, khi mọi người đã về, cậu nói, “Bọn mình đã cướp bóc Cilicia. Cậu có biết không?”
“Không.”
Cậu gật đầu. “Mình nhớ ông ấy, vua Eetion. Ông có tám người con trai. Họ đã cố chống lại bọn mình.”
Tôi có thể đoán được từ giọng nói lặng lẽ của cậu.
“Cậu đã giết họ.” Cả một gia đình, đều bị sát hại.
Cậu bắt gặp vẻ mặt tôi dù tôi đã cố kìm nén. Nhưng cậu không bao giờ nói dối tôi.
“Ừ.”
Tôi biết mỗi ngày cậu đều giết người; cậu trở về mà ướt đẫm máu của họ, những vết máu cậu kì cọ khỏi da mình trước bữa tối. Nhưng có những lúc, như hiện tại đây, khi việc nhận thức điều ấy khiến tôi ngộp thở. Khi tôi nghĩ tới những dòng lệ đã đổ xuống vì cậu, suốt những năm qua. Và giờ cả về Andromache nữa, và Hector đau buồn vì cậu. Những lúc ấy cậu như cách tôi cả một thế giới, dù cậu ngồi gần tới nỗi tôi cảm nhận được hơi ấm phả ra từ da thịt cậu. Tay cậu đặt trên đùi, chai sạn vì cầm giáo nhưng vẫn thật đẹp đẽ. Không có bàn tay nào dịu dàng, hay chết chóc, được đến nhường ấy.
Trên cao, những vì sao đã khuất dạng. Tôi có thể cảm thấy không khí trĩu nặng. Tối nay sẽ có giông. Mưa sẽ thấm đẫm, len vào trong đất tới khi đất lở ra. Nước sẽ đổ xuống từ đỉnh núi, mỗi lúc một mạnh hơn để cuốn bay những thứ nằm trên đường đi của nó: động vật, nhà cửa và con người.
Cậu như một cơn lũ vậy, tôi thầm nghĩ.
Giọng cậu phá tan sự tĩnh lặng khi tôi suy nghĩ. “Mình tha cho một đứa,” cậu nói. “Đứa con trai thứ tám. Để dòng giống của họ sẽ không chấm dứt.”
Thật kì lạ làm sao khi chút lòng tốt nhỏ nhoi như vậy lại tính là ban ơn. Song có chiến binh nào khác sẽ làm được đến vậy? Giết cả một gia đình là điều gì đó đáng để khoe khoang, là một chiến công rực rỡ chứng tỏ ta đủ mạnh để xóa sổ cả một cái họ khỏi mặt đất. Người con trai còn sống này sẽ có con; cậu ta sẽ ban cho chúng cái tên của gia đình mình và kể lại câu chuyện của họ. Những con người ấy sẽ được gìn giữ, nếu không phải trong cõi đời thì cũng là trong kí ức.
“Thật mừng,” tôi nói, với cõi lòng mãn nguyện.
Những khúc gỗ trong lửa dần phai nhạt thành tro tàn. “Lạ thật đấy,” cậu nói. “Mình vẫn luôn nói rằng Hector chẳng làm gì đụng đến mình cả. Nhưng giờ anh ta không thể nói điều tương tự về mình nữa rồi.”