Trường Ca Achilles - Chương 24
CHƯƠNG HAI MƯƠI TƯ
NĂM THÁNG CỨ TRÔI VÀ MỘT NGƯỜI LÍNH, thuộc đội quân của Ajax, bắt đầu phàn nàn vì cuộc chiến kéo dài. Ban đầu mọi người lờ anh ta đi; người này xấu ma chê quỷ hờn và nổi tiếng là một kẻ vô lại. Nhưng anh ta mỗi lúc một hùng hồn hơn. Bốn năm, anh ta nói, và không có gì để khoe khoang về cuộc chiến này. Châu báu ở đâu? Phụ nữ ở đâu? Lúc nào chúng ta mới về? Ajax đánh mạnh vào đầu anh ta, nhưng không bịt nổi miệng người này. Thấy cách họ đối xử với chúng ta chưa?
Dần dà, sự bất mãn của anh ta lan truyền từ khu trại này tới khu trại khác. Đó là vào mùa xấu trời, đặc biệt ẩm ướt, và đi đánh nhau thật khổ sở. Thương tật đầy rẫy, mề đay và trật chân vì bùn trơn với nhiễm trùng. Ruồi nhặng đã bu đầy trên vài góc của khu trại đến mức trông chúng như những đám mây khói mù.
Sưng sỉa và gãi sồn sột, binh lính bắt đầu lảng vảng quanh quảng trường. Ban đầu họ chẳng làm gì ngoài tụ tập thành nhóm nhỏ, thì thầm với nhau. Rồi tên lính khơi mào mọi chuyện kia tham gia vào với họ, và họ bắt đầu to mồm hơn.
Bốn năm!
Làm sao chúng tôi biết được nàng có trong đó hay không? Có ai trông thấy nàng chưa?
Troy sẽ không bao giờ đầu hàng chúng ta.
Tất cả chúng ta nên ngừng chiến đấu thôi.
Khi Agamemnon nghe được, lão ra lệnh quất roi họ. Ngày hôm sau số người phàn nàn tăng gấp đôi; không ít trong số đó là người Mycenae.
Agamemnon phái một đội vũ trang đi giải tán họ. Đám người lẩn đi, rồi trở lại khi đội lính đã rời khỏi. Để đáp trả, Agamemnon xếp một đội lính cầm khiên và giáo canh gác quảng trường cả ngày. Nhưng đây là một nhiệm vụ chán chường - đứng dưới nắng chang chang, nơi bọn ruồi bu tới đông nhất. Vào cuối ngày, đội lính tan tác vì một số rời bỏ hàng ngũ và số người chống đối lại tăng lên.
Agamemnon dùng gián điệp để mật báo về những người phàn nàn; những người này sau đó bị bắt và quất roi. Sáng hôm sau, vài trăm người lính từ chối đi chiến đấu. Vài người lấy lí do bị ốm, vài người chẳng thèm viện cớ gì. Tin tức lan ra, và thêm nhiều người tự dưng mà ốm. Họ ném kiếm và khiên lên đài thành một đống và chắn trước quảng trường. Khi Agamemnon cố chen qua, họ khoanh tay lại và không động đậy.
Bị chặn ở ngoài quảng trường của chính mình, mặt Agamemnon đỏ lên, rồi đỏ lên nữa. Ngón tay lão trắng bệch siết lên quyền trượng, cán trượng làm từ gỗ chắc nịch và bọc những vòng kim loại. Khi người lính trước mặt nhổ xuống chân lão, Agamemnon vung quyền trượng lên và vụt thật mạnh xuống đầu anh ta. Chúng tôi đều nghe tiếng xương vỡ giòn tan. Người lính ngã xuống.
Tôi không nghĩ Agamemnon định đánh anh ta mạnh đến vậy. Lão như hóa đá, nhìn xuống thi thể dưới chân, không động đậy nổi. Một người khác quỳ xuống lật thi thể lên; nửa hộp sọ đã móp xuống dưới lực của cú đánh. Chuyện này lan truyền giữa đám người trong tiếng xì xào như lửa bắt đầu bén. Nhiều người rút dao ra. Tôi nghe Achilles lẩm bẩm gì đó; rồi cậu biến mất khỏi vị trí bên cạnh tôi.
Mặt Agamemnon bắt đầu bừng lên giác ngộ rằng lão đã phạm sai lầm. Lão đã bất cẩn bỏ lại đám lính canh trung thành của mình đằng sau. Giờ lão đã bị bao vây, dù có ai muốn giúp thì cũng không thể đến được chỗ lão đứng. Tôi nín thở, chắc chắn rằng mình chuẩn bị chứng kiến cái chết của lão.
“Hỡi binh lính Hy Lạp!”
Những khuôn mặt giật mình quay về phía tiếng hô. Achilles đang đứng lên một đống khiên trên đài. Mỗi tấc trên người cậu trông đều vô địch, đẹp đẽ và mạnh mẽ, vẻ mặt cậu nghiêm nghị.
“Mọi người đang giận dữ,” cậu tuyên bố.
Điều này khiến họ chú ý. Họ đang giận dữ thật. Một vị chỉ huy không thường thừa nhận rằng đội quân của anh ta có lẽ đang cảm thấy điều ấy.
“Hãy nói với ta những phiền muộn của các ngươi,” cậu nói.
“Chúng tôi muốn đi về!” Giọng nói đến từ đằng cuối đám đông. “Trận chiến này thật vô vọng!”
“Chỉ huy nói dối chúng tôi!”
Tiếng rì rầm tán đồng rộ lên.
“Đã bốn năm rồi!” Lời cuối này nghe tức giận nhất. Tôi không thể trách họ. Đối với tôi, bốn năm qua đã là kho báu, là khoảng thời gian giành giật được từ tay của những nữ thần Số Phận hà tiện. Nhưng với họ, đó là một phần đời bị cướp đi: khỏi vợ con họ, khỏi gia đình và mái nhà của họ.
“Các ngươi có quyền băn khoăn về những việc đó,” Achilles nói. “Các ngươi cảm thấy bị lừa dối; các ngươi đã được hứa hẹn về chiến thắng.”
“Đúng vậy!”
Tôi thoáng thấy vẻ mặt Agamemnon, đang rúm ró lại vì tức giận. Nhưng lão bị kẹt trong đám đông, không thể tự thoát ra hay phát biểu mà không gây lộn xộn.
“Hãy cho ta biết,” Achilles nói. “Các ngươi nghĩ Aristos Achaion chiến đấu trong những cuộc chiến vô vọng ư?”
Binh lính không trả lời.
“Sao nào?”
“Không,” ai đó nói.
Achilles gật đầu trang trọng. “Không hề. Ta không làm vậy, và ta xin thề với bất kì lời thề nào. Ta ở đây vì ta tin rằng chúng ta sẽ chiến thắng. Ta sẽ ở lại đến cùng.”
“Tốt cho ngài thôi.” Một giọng khác. “Nhưng những người muốn đi thì sao?”
Agamemnon mở miệng định trả lời. Tôi có thể tưởng tượng lão sẽ nói gì. Không ai được phép đi! Những kẻ đào ngũ sẽ bị xử tử! Nhưng may cho lão là Achilles nhanh miệng hơn.
“Các ngươi được phép đi bất cứ khi nào các ngươi muốn.”
“Chúng tôi được phép ư?” Giọng nói kia ngờ vực.
“Dĩ nhiên rồi.” Cậu ngừng lại, và nở nụ cười thân thiện, ngây thơ nhất của mình. “Nhưng ta sẽ lấy phần của cải của các ngươi khi chúng ta hạ được Troy.”
Tôi cảm thấy không khí căng thẳng dịu dần, nghe thấy vài người bật ra tiếng cười tán thưởng. Hoàng tử Achilles nói về kho báu sẽ giành được, và ở đâu có lòng tham ở đó có hi vọng.
Achilles nhận thấy sự biến đổi trong đám đông. Cậu tiếp tục, “Quá thời gian ra trận rồi. Đám dân Troy sẽ bắt đầu nghĩ chúng ta sợ chúng.” Cậu rút thanh kiếm sáng loáng ra và chĩa lên cười. “Ai có gan cho chúng thấy điều ngược lại nào?
Những tiếng hò hét đổng tình vang lên, theo sau bởi tiếng loảng xoảng đồng loạt khi binh lính nhặt lại chiến giáp, cầm giáo lên. Họ nâng người lính đã chết kia lên và mang anh ta đi; ai cũng đồng ý rằng anh ta luôn khá phiền phức. Achilles nhảy xuống từ trên đài và phải phép gật đầu với Agamemnon khi đi ngang qua lão. Vị vua xứ Mycenae không nói gì. Nhưng tôi thấy mắt lão nhìn theo Achilles suốt một lúc lâu sau.
***
SAU HẬU QUẢ của lần gần như là nổi dậy ấy, Odysseus đã nghĩ ra một công việc khiến binh lính phải bận rộn: một tường rào khổng lồ, dựng lên xung quanh toàn bộ khu trại. Mười dặm, đó là độ dài anh ta muốn dựng rào, bảo vệ lều trại và tàu chiến khỏi bãi đất bằng trước mặt. Ở chân tường rào sẽ có chiến hào, lởm chởm những cọc nhọn.
Khi Agamemnon tuyên bố việc này, tôi chắc mẩm binh lính sẽ nhận ra đây chỉ là một mánh khoé. Suốt những năm đã qua trong cuộc chiến này, doanh trại và tàu thuyền chưa bao giờ bị đe dọa, dù đội quân nào tới tiếp viện Troy đi nữa. Sau cùng thì, ai có thể vượt qua Achilles cơ chứ?
Nhưng rồi Diomedes bước tới, tung hô kế hoạch này và dọa dẫm binh lính bằng những cuộc đột kích buổi đêm và tàu chiến bị đốt. Điểm cuối này đặc biệt hiệu quả - không có tàu, chúng tôi không thể trở về nhà được nữa. Cuối cùng, mắt binh lính sáng ngời và háo hức. Khi họ vui vẻ cầm rìu và thước đi vào rừng, Odysseus tìm ra người lính gây rối đầu tiên - Thersites, đó là tên anh ta - và ra lệnh kín đáo đánh anh ta đến bất tỉnh.
Thế là kết thúc cuộc binh biến ở Troy.
Mọi chuyện đều thay đổi sau đó, dù là do chung tay xây dựng tường rào hay nhẹ nhõm vì bạo động đã được đẩy lui. Tất cả chúng tôi, từ lính bộ binh thấp kém nhất cho tới chính các vị chỉ huy, bắt đầu nghĩ về Troy như một mái nhà. Cuộc đổ bộ của chúng tôi biến thành chiếm đóng. Trước kia chúng tôi sống như thổ phỉ nhờ những lãnh thổ và làng mạc mà chúng tôi cướp bóc. Giờ chúng tôi bắt đầu xây dựng, không chỉ tường rào, mà cả những công trình của một thị trấn: lò rèn, và chuồng trại cho gia súc chúng tôi trộm từ những nông trại xung quanh, thậm chí cả một xưởng gốm. Ở nơi sau cùng này, các nghệ nhân nghiệp dư lao động để thay thế những đồ sứ nứt vỡ chúng tôi đã mang tới, hầu hết số đó đều rạn hay vỡ vì cách sử dụng thô bạo trong trại. Tất cả những đồ chúng tôi có bây giờ đều tạm bợ, là đồ thó được, từng qua sử dụng ít nhất là hai kiếp trước đó vào mục đích khác. Chỉ có chiến giáp riêng của các vị vua là còn chưa được đụng tới, gia huy sáng bóng và mới nguyên.
Binh lính cũng càng ngày càng khác với tập hợp hàng tá các đội quân khác nhau, và giống nông dân hơn. Những người này, rời Aulis với thân phận người Crete, người Cyprus và người Argos, giờ chỉ đơn giản là những người Hy Lạp - hun đúc trong cùng một khuôn trước sự đối đầu với dân thành Troy; chia sẻ đồ ăn, phụ nữ, quần áo và những câu chuyện chiến trường; những khác biệt giữa họ đều phai nhạt đi. Việc Agamemnon khoe khoang sẽ thống nhất Hy Lạp cuối cùng cũng không vớ vẩn đến vậy. Thậm chí nhiều năm sau, tình hữu nghị này vẫn sẽ còn đó, thứ tình đồng chí thật không giống bản chất nơi những vương quốc xung khắc dữ dội của chúng tôi chút nào. Suốt một thế hệ, sẽ không có cuộc chiến nào xảy ra giữa những người từng chiến đấu ở Troy.
NGAY CẢ TÔI CŨNG KHÔNG PHẢI NGOẠI LỆ. Trong giai đoạn này - sáu, bảy năm trong đó tôi ở tại lều của Machaon mỗi lúc một nhiều và ít ở với Achilles trên chiến trường hơn - tôi bắt đầu thân thiết với những người khác. Ai rồi cũng sẽ tới đây, dù chỉ là vì giập ngón chân hay móng quặp. Ngay cả Automedon cũng tới, tay bịt lại vết tích đẫm máu của một cái nhọt độc. Binh lính mê mẩn những nữ nô lệ và dẫn họ với cái bụng bầu tới chỗ chúng tôi. Chúng tôi đỡ đẻ một loạt em bé la hét, đều đặn ra đời, rồi chữa bệnh cho chúng khi chúng lớn lên.
Và không chỉ là binh lính thông thường: Dần dà, tôi quen biết cả những vị vua nữa. Nestor với món si rô thông họng, thêm mật ong và được hâm nóng, mà ông cụ uống vào cuối ngày; Menelaus và thuốc chứa á phiện ông ta dùng khi đau đầu; Ajax với cái dạ dày trào ngược. Thấy họ tin tưởng tôi đến thế nào, bày ra những vẻ mặt đầy hi vọng với tôi để được xoa dịu, khiến tôi cảm động; tôi bắt đầu thích họ, dù họ có khó tính đến đâu trong các cuộc hội nghị.
Tôi dần có được danh tiếng, có chỗ đứng trong trại. Tôi được người ta gọi tới, vì nổi tiếng với đôi tay nhanh nhen và ít gây đau đớn. Càng ngày Podalerius càng bớt xuất hiện làm việc trong lều hơn - tôi là người trực khi Machaon không có ở đó.
Tôi bắt đầu khiến Achilles ngạc nhiên, khi gọi tên những người lính trong lúc chúng tôi đi bộ qua khu trại. Tôi luôn thấy hài lòng khi họ giơ một tay lên đáp trả, chỉ vào một vết sẹo đã suôn sẻ lành lại.
Sau khi họ đi rồi, Achilles sẽ lắc đầu. “Mình không biết làm sao cậu nhớ được tất cả bọn họ. Mình thề với mình trông họ đều giống nhau.”
Tôi sẽ cười và gọi tên họ lần nữa. “Kia là Sthenelus, phu xe của Diomedes. Và kia là Podarces, có anh trai là người đầu tiên tử trận, nhớ không?”
“Họ đông quá,” cậu nói. “Để đơn giản hơn thì họ cứ nhớ mình là được.”
NHỮNG KHUÔN MẶT vây quanh lò lửa của chúng tôi bắt đầu giảm dần, khi lần lượt từng người phụ nữ có tình nhân là lính Myrmidon, và sau đó là chồng. Họ không cần đống lửa của chúng tôi nữa; họ đã có ngọn lửa của riêng mình. Chúng tôi đều mừng. Tiếng cười trong trại, và những tiếng rên cao vút trong khoái cảm về đêm, và kể cả những cái bụng phình ra - những anh lính Myrmidon cười nhăn nhở toại nguyện - đều là những điều chúng tôi đón chào, hạnh phúc của họ như những đường chỉ vàng thêu viền hoa văn xung quanh hạnh phúc của chính chúng tôi.
Ít lâu sau, chỉ còn lại có Briseis. Nàng chưa bao giờ có tình nhân, bất chấp vẻ đẹp và bao nhiêu anh lính Myrmidon theo đuổi nàng. Thay vào đó nàng trở nên giống một người dì - một phụ nữ cho ta kẹo ngọt, tình dược và những mảnh khăn mềm mại để lau khô đôi mắt. Đây là hình ảnh tôi nghĩ về chúng tôi, khi hồi tưởng lại những đêm ở thành Troy: Achilles và tôi bên cạnh nhau, Phoinix mỉm cười, Automedon lắp bắp nói ra câu pha trò của những mẩu chuyện hài, cùng Briseis với đôi mắt bí ẩn và tiếng cười gấp gáp tuôn rơi.
TÔI TỈNH DẬY TRƯỚC BÌNH MINH và cảm thấy chút lạnh lẽo nhói buốt đầu tiên của mùa thu trong không khí. Đó là một ngày lễ, ngày thu hoạch những hoa quả đầu tiên dâng lên thần Apollo. Achilles vẫn ấm nóng bên cạnh tôi, cơ thể trần trụi nặng nề say ngủ. Trong lều rất tối, nhưng tôi có thể thấy riêng những đường nét trên mặt cậu, quai hàm mạnh mẽ và những đường cong dịu dàng trên mắt cậu. Tôi muốn đánh thức cậu và nhìn đôi mắt ấy mở ra. Tôi đã ngắm nhìn điều ấy cả nghìn lần, nhưng tôi chẳng bao giờ chán.
Tay tôi khẽ lướt trên ngực cậu, vuốt ve cơ bắp phía dưới. Giờ cả hai chúng tôi đều khỏe khoắn, sau những ngày trong căn lều trắng và trên chiến trường; đôi lúc tôi vẫn kinh ngạc khi bắt gặp hình bóng của bản thân. Tôi trông như một người đàn ông, to lớn như cha tôi hồi xưa, dù vẫn thon thả hơn nhiều.
Cậu rùng mình dưới tay tôi, và tôi cảm thấy khao khát dâng lên trong người. Tôi vén chăn lên để có thể thấy toàn bộ thân thể cậu. Tôi cúi xuống và ấn môi mình lên cậu, trong những nụ hôn mềm mại.
Bình minh lóe qua cửa lều. Trong lều sáng bừng lên. Tôi thấy giây phút cậu tỉnh dậy và nhận biết tôi. Chân tay chúng tôi cọ vào nhau, trên những cung đường chúng tôi đã lần theo biết bao nhiêu lần trước dây, mà vẫn không thấy cũ.
Rồi chúng tôi dậy và ăn sáng. Chúng tôi đã mở tung cửa lều để không khí tràn vào; gió dễ chịu mơn trớn trên làn da ẩm ướt của chúng tôi. Qua ngưỡng cửa, chúng tôi ngắm quân Myrmidon đan xen nhau đi làm việc. Chúng tôi thấy Automedon chạy ào xuống biển để bơi. Chúng tôi thấy cả mặt biển, mời gọi và ấm áp sau một mùa hè đầy nắng. Tay tôi quen thuộc đặt trên đầu gối cậu.
Bà không đi qua cửa. Bà đơn giản chỉ xuất hiện, ở trung tâm căn lều, nơi vừa giây phút trước vẫn còn là khoảng trống. Tôi hổn hển, và giật tay lại từ nơi đang đặt lên người cậu. Tôi biết điều đó thật ngớ ngẩn, ngay cả trong lúc thu tay. Bà là một nữ thần; bà có thể thấy chúng tôi bất kì lúc nào bà muốn.
“Mẹ à,” cậu nói, chào đón bà.
“Ta đã nhận được một lời cảnh báo.” Lời bà cấm cẳn, như con cú mổ xuyên một khúc xương. Trong lều tối mờ, nhưng làn da Thetis rực sáng và lạnh lẽo. Tôi có thể thấy từng đường nét khắc lên trên mặt bà, từng nếp gấp trên làn váy lấp lánh. Đã lâu rồi tôi không nhìn bà gần như vậy, kể từ lúc ở Scyros. Tôi đã thay đổi từ hồi đó. Tôi đã phát triển về sức mạnh và hình thể, bộ râu sẽ mọc lên nếu tôi không cạo đi. Nhưng trông bà vẫn vậy. Dĩ nhiên là thế.
“Apollo tức giận và tìm cách chống lại người Hy Lạp. Hôm nay con sẽ hiến tế cho ngài?”
“Vâng ạ,” Achilles nói. Chúng tôi luôn tham gia các lễ hội, nghiêm chỉnh cắt tiết và nướng thịt mỡ.
“Con phải hiến tế,” bà nói. Mắt bà dán chặt vào Achilles, chúng dường như không hề thấy tôi. “Một lễ bách ngưu[24].” Đó là tế phẩm lớn nhất của chúng tôi, một trăm đầu cừu hay trâu bò. Chỉ có những người giàu có và quyền lực nhất mới có đủ điều kiện tỏ lòng ngoan đạo xa hoa đến vậy. “Dù người khác có làm thế nào, con cũng vẫn phải làm như vậy. Các vị thần đã chia phe, và con không được khiến họ tức giận.”
Chúng tôi sẽ phải mất gần như cả ngày để giết hết tế phẩm, và khu trại sẽ có mùi như lò mổ suốt một tuần liền. Nhưng Achilles gật đầu. “Bọn con sẽ làm vậy,” cậu hứa với mẹ.
Môi bà mím chặt lại, hai vệt đỏ tươi như miệng vết thương.
“Còn nữa,” bà tiếp tục.
Cả khi không nhìn đến tôi, bà vẫn khiến tôi sợ hãi. Bà mang theo cả một vũ trụ nguy khốn tới bất cứ nơi nào bà đi, gồm điềm gở, thành thần giận dữ và cả nghìn mối hiểm nguy chực chờ.
“Gì thế ạ?”
Bà do dự, và nỗi sợ thít chặt cổ họng tôi. Điều khiến một nữ thần phải ngập ngừng thực sự sẽ rất khủng khiếp.
“Một lời tiên tri,” bà nói. “Rằng người tài giỏi nhất đoàn quân Myrmidon sẽ chết trong vòng hai năm tới.”
Vẻ mặt Achilles phẳng lặng, phẳng lặng tuyệt đối. “Chúng ta đều đã biết chuyện đó sẽ đến rồi,” cậu nói.
Bà lắc đầu cụt lủn. “Không. Lời tiên tri nói rằng con vẫn còn sống khi điều đó xảy ra.”
Achilles cau mày. “Mẹ nghĩ điều ấy có nghĩa là gì?”
“Ta không biết,” bà nói. Mắt bà rất to; hai hồ nước đen kịt mở rộng như thể chúng sẽ nuốt cậu vào, kéo cậu trở lại vào trong bà. “Ta sợ rằng có điều gian trá.” Các nữ thần Số Phận nổi tiếng vì những điều khó hiểu như vậy, mơ hồ cho tới khi mảnh ghép cuối cùng hiện ra. Rồi sau đó, mọi chuyện sáng tỏ đến xót xa.
“Hãy cẩn thận,” bà nói. “Con phải tự bảo trọng.”
“Vâng ạ,” cậu trả lời.
Trước đó bà dường như không hề biết tôi ở đó, nhưng giờ mắt bà đã tìm đến tôi, và mũi bà nhăn lại, như thể có mùi gì đó bốc lên. Bà lại nhìn sang cậu. “Nó không xứng với con,” bà nói. “Nó chưa bao giờ xứng đáng.”
“Về việc này chúng ta bất đồng quan điểm rồi,” Achilles đáp lời bà. Cậu nói như thể đã nói điều ấy rất nhiều lần. Có lẽ là thế thật.
Bà khẽ kêu lên một tiếng ghê tởm, rồi biến mất. Achilles quay sang tôi. “Mẹ đang lo sợ.”
“Mình biết,” tôi nói. Tôi hắng giọng, cố đánh tan cơn khiếp sợ đóng cục nơi đó.
“Cậu nghĩ ai là người tài giỏi nhất đoàn quân Myrmidon? Nếu loại trừ mình ra.”
Tôi nghĩ tới các chỉ huy. Tôi nghĩ về Automedon, người đã trở thành trợ thủ quý giá của Achilles trên chiến trường. Nhưng tôi sẽ không phong cậu bé làm người giỏi nhất.
“Mình không biết,” tôi trả lời.
“Cậu có nghĩ điều đó ám chỉ cha mình không?” Cậu hỏi.
Peleus, ở quê nhà Phthia, người đã chiến đấu cùng Heracles và Perseus. Huyền thoại của thế hệ ông về lòng mộ đạo và sự quả cảm, ngay cả khi danh tiếng của ông nay mai rồi sẽ mai một. “Có thể,” tôi thừa nhận.
Chúng tôi im lặng một lúc. Rồi cậu nói, “Mình nghĩ chúng ta sẽ sớm biết thôi.”
“Không phải cậu,” tôi nói. “Ít ra là vậy.”
Chiều hôm đó chúng tôi làm lễ hiến tế mà mẹ cậu đã yêu cầu. Quân Myrmidon nhóm đống lửa thờ lên cao vút, và tôi giữ những thau hứng máu khi Achilles cắt tiết hết con này tới con khác. Chúng tôi nướng những tảng thịt đùi béo ngậy cùng lúa mạch và hạt lựu, rót thứ rượu ngon nhất lên than. Apollo đang giận dữ, bà đã nói vậy. Một trong những vị thần quyền năng nhất, với mũi tên có thể khiến trái tim một người ngừng đập, chóng vánh như những tia nắng. Tôi không được biết đến vì lòng mộ đạo, nhưng ngày hôm đó tôi cầu khẩn thần Apollo với tấm lòng mộ đạo có thể sánh ngang với chính Peleus. Và dù ai mới là người tài giỏi nhất đoàn quân Myrmidon đi nữa, tôi cũng gửi tới thần linh một lời cầu nguyện cho người ấy.
***
BRISEIS NHỜ TÔI DẠY NÀNG Y THUẬT và hứa sẽ đổi lại bằng kiến thức về thảo dược trong vùng này, là những thứ cần thiết cho nguồn thuốc đang cạn dần của Machaon. Tôi đồng ý, và trải qua nhiêu ngày mĩ mãn với nàng ở trong rừng, rẽ những bụi cây mọc thấp, sờ dưới những khúc gỗ mục tìm thứ nấm mảnh mai và mềm mại như tai em bé.
Đôi khi trong những ngày đó, tay nàng sẽ tình cờ cọ vào tay tôi, và nàng sẽ ngước lên mỉm cười, những giọt sương đọng lại trên tai và tóc nàng như ngọc trai. Lớp váy dài của nàng buộc quanh đầu gối cho thuận tiện, để lộ đôi bàn chân vững vàng và chắc chắn.
Vào một trong những ngày đó, chúng tôi dừng lại ăn trưa. Chúng tôi thưởng thức bánh mì và phô mai, những miếng thịt khô gói trong khăn vải, và tay vốc nước lên từ suối. Khi ấy là mùa xuân, và vây quanh chúng tôi là sự màu mỡ dồi dào của vùng Anatolia. Trong suốt ba tuần thiên nhiên khoác lên mình mọi sắc màu, bung nở mọi nụ hoa, vươn ra mọi cánh hoa đương nổi loạn. Rồi, khi cơn phấn khích phóng khoáng dâng trào đã qua, nàng sẽ an ổn đi vào nhịp điệu đều đặn của mùa hè. Đó là khoảng thời gian ưa thích của tôi trong năm.
Lẽ ra tôi phải lường trước được điều đó. Có thể sẽ có người nghĩ tôi ngu si vì đã không nhìn ra được. Tôi đang kể cho nàng một câu chuyện - chuyện gì đó về thầy Chiron, tôi nghĩ vậy - và nàng lắng nghe, mắt nàng sẫm như mặt đất nơi chúng tôi đang ngồi lên. Tôi kết thúc, và nàng im lặng. Điều này không lạ gì; nàng vẫn thường im lặng. Chúng tôi đang ngồi gần nhau, chụm đầu vào nhau như đang mưu tính điều gì. Tôi có thể ngửi thấy mùi hoa quả nàng đã ăn; tôi có thể ngửi thấy mùi dầu hoa hồng nàng ép cho những người phụ nữ khác, vẫn còn bám trên ngón tay nàng. Nàng thật thân thiết đối với tôi, tôi thầm nghĩ. Vẻ mặt nghiêm nghị và đôi mắt thông minh. Tôi tưởng tượng ra nàng khi còn nhỏ, xây xước vì trèo cây, chân tay khẳng khiu vung vẩy khi nàng chạy. Tôi ước gì mình đã biết nàng hồi ấy, rằng nàng đã ở bên tôi tại nhà của cha tôi, đã ném đá với mẹ tôi. Tôi gần như có thể tưởng tượng ra nàng ở nơi đó, lơ lửng ở ngay bên lề kí ức của tôi.
Môi nàng chạm lên môi tôi. Tôi kinh ngạc tới nỗi không động đậy. Môi nàng mềm mại và có chút ngập ngừng. Mắt nàng ngọt ngào nhắm lại. Theo thói quen, theo bản năng, miệng tôi hé mở. Một khoảnh khắc cứ như vậy trôi qua, nền đất dưới chúng tôi, gió đưa hương hoa bay tới. Rồi nàng lùi lại, mắt cụp xuống, chờ đợi sự phán xét. Nhịp tim thình thịch trong tai tôi, nhưng nghe không giống như lúc Achilles khiến nó rung động. Mạch đập nghe giống như bị bất ngờ hơn, và lo sợ rằng tôi sẽ làm nàng tổn thương. Tôi đặt tay mình lên tay nàng.
Khi ấy, nàng đã biết. Nàng cảm nhận được điều ấy trong cách tay tôi nắm lấy tay nàng, cách mắt tôi nhìn nàng. “Tôi xin lỗi,” nàng thì thầm.
Tôi lắc đầu, nhưng không nghĩ ra điều gì hơn để nói.
Vai nàng nhô lên, như hai cánh chim gập lại. “Tôi biết anh yêu anh ấy,” nàng nói, ngập ngừng đôi chút trước từng từ. “Tôi biết. Nhưng tôi nghĩ là… vài người có cả vợ và tình nhân.”
Khuôn mặt nàng trông nhỏ nhắn vô cùng, và buồn bã tới nỗi tôi không thể im lặng.
“Briseis à,” tôi nói. “Nếu ta có bao giờ muốn lấy vợ, thì người đó sẽ là nàng?”
“Nhưng anh không muốn lấy vợ.”
“Phải,” tôi khẳng định, dịu dàng hết mức có thể.
Nàng gật đầu, và mắt lại cụp xuống. Tôi có thể nghe tiếng hít thở chậm rãi của nàng, tiếng rung động thật khẽ trong ngực nàng.
“Ta xin lỗi,” tôi nói.
“Anh chưa từng muốn có con ư?” Nàng hỏi.
Câu hỏi khiến tôi bất ngờ. Tôi vẫn cảm thấy mình còn trẻ con phân nửa, dù hầu hết những người bằng tuổi tôi đã làm cha mẹ hết lần này tới lần khác.
“Ta không nghĩ mình sẽ là một người cha tốt,” tôi trả lời.
“Tôi không tin điều đó,” nàng nói.
“Ta không biết nữa,” tôi đáp. “Còn nàng?”
Tôi ngẫu nhiên hỏi vậy thôi, nhưng điều này dường như chạm tới nàng một cách sâu sắc, và nàng lưỡng lự. “Cũng có thể,” nàng nói. Và rồi tôi hiểu ra, quá muộn màng, điều nàng thực sự đang hỏi. Tôi đỏ mặt, xấu hổ vì sự vô tư của mình. Và tầm thường nữa. Tôi mở miệng định nói gì đó. Cảm ơn nàng, có lẽ vậy.
Nhưng nàng đã đứng dậy, phủi váy. “Chúng ta đi chứ?”
Tôi không thể làm gì khác ngoài đứng dậy và đi cùng nàng.
ĐÊM HÔM ĐÓ tôi không thể ngừng nghĩ về chuyện ấy: Con của Briseis và tôi. Tôi thấy đôi chân quẫy đạp, mái tóc đen và đôi mắt to tròn giống mẹ của đứa trẻ. Tôi thấy chúng tôi bên đống lửa, Briseis và tôi, cùng đứa trẻ, đang chơi với mấy mảnh gỗ tôi đã đẽo gọt. Nhưng có gì đó trống trải trong khung cảnh ấy, một sự thiếu vắng đến nhức nhối. Achilles đâu rồi? Cậu chết rồi ư? Hay cậu chưa bao giờ tồn tại? Tôi không thể sống một cuộc đời như vậy. Nhưng Briseis đã không yêu cầu tôi làm vậy. Nàng đã dành cho tôi tất cả, bản thân nàng cùng đứa trẻ và cả Achilles nữa.
Tôi trở mình đối mặt với Achilles. “Cậu có bao giờ nghĩ về chuyện có con không?” Tôi hỏi.
Mắt cậu đang nhắm, nhưng cậu không ngủ. “Mình có con mà,” cậu trả lời.
Lần nào nhớ lại chuyện đó cũng khiến tôi sững người như lần đầu tiên. Con của cậu với Deidameia. Một bé trai, Thetis đã nói với cậu vậy, tên là Neoptolemus. Cuộc Chiến Mới. Biệt danh là Pyrrhus, vì mái tóc đỏ rực lửa. Nghĩ về đứa bé khiến tôi khó chịu - nó là một phần của Achilles đang lưu lạc trong thế giới này. “Trông nó có giống cậu không?” Có lần tôi đã hỏi Achilles thế. Cậu chỉ nhún vai. “Mình không hỏi.”
“Cậu có muốn được thấy thằng bé không?”
Achilles lắc đầu. “Tốt nhất là để mẹ mình nuôi nó. Nó ở với mẹ mình sẽ tốt hơn.”
Tôi không đồng ý, nhưng đây không phải là lúc tôi nên nói vậy. Tôi đợi một lúc, để cậu hỏi tôi xem tôi có muốn có con hay không. Nhưng cậu không hỏi, và nhịp thở của cậu trở nên đều đặn hơn. Cậu luôn thiếp đi trước tôi.
“Achilles này?”
“Hửmm?”
‘‘Cậu thích Briseis không?”
Cậu cau mày, mắt vẫn nhắm. “Thích nàng ta là sao?”
“Thưởng thức nàng,” tôi nói. “Cậu biết mà.”
Cậu mở mắt, trông cảnh giác hơn là tôi tưởng. “Điều này thì có liên quan gì tới trẻ con?”
“Không liên quan gì đâu.” Nhưng tôi rõ ràng là đang nói dối.
“Nàng ta muốn có con sao?”
“Có lẽ vậy,” tôi nói.
“Với mình ư?” Cậu hỏi.
“Không,” tôi trả lời.
“Thế thì tốt,” cậu nói, mi mắt lại khép lại lần nữa. Một lúc lâu trôi qua, và tôi chắc chắn rằng cậu đã ngủ. Nhưng rồi cậu cất tiếng, “Với cậu. Nàng ta muốn có con với cậu.”
Sự im lặng của tôi là câu trả lời dành cho cậu. Cậu ngồi dậy, chăn rơi khỏi ngực. “Nàng ta mang thai rồi sao?” Cậu hỏi.
Có sự căng thẳng trong giọng cậu mà tôi chưa bao giờ nghe thấy trước đấy.
“Không đâu,” tôi nói.
Mắt cậu xoáy vào mắt tôi, xáo trộn lên tìm câu trả lời.
“Cậu có muốn không?” Cậu hỏi. Tôi thấy sự giằng xé trên mặt cậu. Ghen tuông thật mới mẻ với cậu, là một việc thật xa lạ. Cậu bị tổn thương, nhưng không biết phải nói ra như thế nào. Tôi cảm thấy mình thật tàn nhẫn, khi đã gợi lên chuyện này.
“Không,” tôi nói. “Mình không nghĩ vậy. Không đâu.”
“Nếu cậu muốn, thì cũng được mà.” Mỗi từ đều được cẩn thận sắp xếp; cậu đang cố tỏ ra công bằng.
Tôi lại nghĩ về đứa trẻ tóc đen. Tôi nghĩ về Achilles.
“Như bây giờ là được rồi,” tôi nói.
Vẻ nhẹ nhõm trên mặt cậu khiến lòng tôi ngập tràn đường mật.
MỌI CHUYỆN KHÁ KÌ QUẶC trong suốt một thời gian sau đó. Briseis vốn sẽ tránh mặt tôi, nhưng tôi gọi nàng tới như mọi khi, và chúng tôi đi dạo như vẫn thường làm. Chúng tôi trò chuyện về tin đồn trong trại và y thuật. Nàng không nhắc gì về thê thiếp, và tôi cẩn thận không nhắc tới con cái. Tôi vẫn thấy nét mềm mại trong mắt nàng khi nàng nhìn tôi. Tôi cố gắng hết sức để đáp trả điều ấy.