Uống rượu với Tản Đà - Phần 2. Cô hàng tạp hoá

Năm mười chín tuổi, cậu ấm Hiếu theo ông anh về Hà Nội tòng học tại trường Quy thức phố Gia Ngư. Hồi ấy “ở phố Hàng Bồ số nhà hơn hai mươi về dãy bên lẻ có một người con gái ngồi bán hàng tạp hoá, không biết có phải là tuyệt sắc hay không mà tự con mắt mình khi bấy giờ thì như ngoài người ấy không có ai là con gái”[3].

Vốn giống tài hoa, thư sinh cảm thấy ở giai nhân một trái tim đồng điệu. Trong tâm hồn tứ thư ngũ kinh của người thiếu niên thế phiệt ấy tình yêu lẳng lơ nắn một phím đờn. Theo tiếng huyền ân ái, thơ bắt đầu len vào cuộc đời hoa mộng của cậu học trò ngoan ngoãn. Từ đấy, “mỗi buổi chiều tan học ở phố Gia Ngư về phố Hàng Nón, trừ phi giời mưa gió, thường tất phải đi quanh qua phố Hàng Bồ”[4].

Bạn đọc chớ vội cười! Trong lối đào nguyên ai chẳng thế? Khoé mắt thân tình, nụ cười giăng gió vốn từ ngàn xưa vẫn là abc của nghệ thuật yêu đương. Rồi sớm mận tối đào, rồi trăng thề quạt ước… Kẻ thư sinh khắc khoải vẫn mong diễn lại lớp trò đầu của tích chàng Kim ả Thuý.

“Tấm lòng ao ước ngỏ cùng một người anh em bạn học đồng canh. Người bạn đi nói giúp việc mối. Cứ bên nhà người con gái thời việc có nhẽ xong; bên nhà mình thời ông anh chỉ bảo một câu rằng: Nhà ta nghèo như thế lấy đâu được song mã mà cưới?” [5]

Tình duyên đành gác một bên, cậu ấm thất vọng theo ông anh về phủ Vĩnh Tường, quyết chuyên tâm vào sự học, những mong tiền đồ khoa cử sẽ đem lại cho mình cảnh “võng anh đi trước võng nàng theo sau”.

Ðằng đẵng bốn năm trời, trong trái tim đau khách si tình vẫn ấp ủ hình bóng ưu tư của cô hàng tạp hoá.

“Ðến lúc thi hỏng luôn hai khoá mà ý trung nhân xuất giá thời đời đáng chán hay không đáng chán cũng chẳng đợi cất chén quỳnh mà hỏi bạn tri âm”[6].

Thất vọng thành tuyệt vọng. Tiếng đàn ân ái chuyển sang điệu u hoài. Khách tài hoa ôm một tiếc hận nặng nề, nghìn thu không cởi được.

Một tiếng thở dài não nuột từ thâm tâm thư sinh vẳng ra: “Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!” Ngân rền trong tịch mịch của đêm thu, nó báo hiệu Khối tình con trong sổ văn chương Viêt Nam hiện đại, nó khai ngày sinh của thi sĩ Tản Ðà.

Rồi, những đêm giăng hiu quạnh, thi sĩ để bay trên mặt giấy những vần thơ ai oán:

Bồn chồn chín khúc cơn mưa lạnh

Ðòi đoạn năm canh bóng nguyệt mờ…

Kìa con én trắng đâu đâu lại

Giục cái thoi vàng chóng chóng qua

Buồn quấn mành trông trông chẳng thấy…

Bèo nước hợp tan người mỗi nẻo

Cậy ai mà nhắn một đôi câu…

Một vừng trăng khuất đi mà đứng

Một lá mành treo quấn lại buông

Ngồi hết đêm suông suông chẳng hết

Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông….

Trận gió thu phong rụng lá vàng

Lá rơi hàng xóm, lá bay sang

Vàng bay mấy lá năm già nửa

Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?

Vì ai cho tớ cứ lênh đênh

Nặng lắm ai ơi một gánh tình! [7]

Toàn những lời thất vọng, trách móc, thở than! Trong thơ ta gặp cả một linh hồn tê tái. Ta muốn ơn cô hàng tạp hoá phố Hàng Bồ, nàng Elvire của thi sĩ Tản Ðà. Nhờ cô, ta được ngâm bao nhiêu vần thơ trác tuyệt chan chứa một hận tình thắc mắc. Trong suốt dọc đời thi sĩ, tế Chiêu Quân ở chùa Non Tiên hay khóc Thuý Kiều bạc mệnh, thương nhớ người tình nhân không quen biết hay mơ tưởng đến cố hữu Chu Kiều Oanh, - những đề hứng buồn và đẹp ấy đều bắt nguồn trong giấc mộng phù hoa thứ nhất của cậu học trò mười chín tuổi. Thi sĩ có đa tình là chỉ đa tình với kỷ niệm ái ân đầu tiên ấy. Bao nhiêu năm chìm nổi cũng không xoá nhoà được hình ảnh thân yêu của người hồng phấn nữ phố Hàng Bồ.

*

Lịch sử văn học đã chứng thực nhiều lần mối quan hệ mật thiết của tình yêu đầu tiên đối với nhà văn, nhất là nhà thơ. Khi nhà thơ mới lớn, trái tim và khối óc đang trắng phau, một cái gì lăn qua là in dấu vết lại không tài nào gột sạch. Huống hồ lại là vết yêu đương! Một bóng giai nhân, lúc đó, có thể định đoạt được cả một kiếp người.

Ở đây tôi chỉ đơn cử một chứng cứ văn chương để làm sáng điều tôi vừa ký nhận. Một chứng cứ rất thú vị chưa từng thấy trong thi giới ta. Tôi muốn nói cái tình duyên đầu tiên của thi sĩ Baudelaire. Năm ấy thi sĩ mười tám tuổi và thường cùng một người bạn, Privat d’ Anglemont, lui tới một tửu lâu hạ cấp phố La Harpe (Paris). Ở chốn này thi sĩ được biết một gái đĩ người Do Thái tên là Sarah. Về đức hạnh kỹ nữ, thi sĩ đã tả rất chua chát trong một câu: “Nàng đã bán rẻ linh hồn để mua một đôi giày”. Các nhà văn học sử cận đại đều đồng ý cho người gái đĩ Do Thái ấy là nguồn cảm hứng của tập thơ tuyệt tác Fleurs du Mal. Ta hẵng nghe thi sĩ nói về cuộc đi lại ghê sợ ấy:

Elle louche, et l’effet de ce regard étrange

Qu’ ombragent des cils noirs plus longs que ceux d’ un ange

Est tel que tous les yeux pour qui l’ on s’ est damné

Ne valent pour moi son oeil juif et cerné.

Elle n’ a que vingt ans; la gorge deja basse

Pend de chaque côté comme une calebasse

Et pourtant me tratnant chaque nuit sur son corps

Ainsi qu’un nouveau né, je la telle et la mords.

Et bien qu’elle n’ait pas souvent même une obole

Pour se frotter la chair et pour s’ oindre l’épaule

Je la leche en silence, avec plus de ferveur

Que Madeleine en feu les deux pieds du Sauveur.

Dịch nghĩa:

Mắt nàng lác, và mãnh lực của cái nhìn kỳ quái ấy,

Cái nhìn bị ẩn dưới bóng những lông mi đen dài hơn mi của thiên thần,

Hiệu nghiệm đến nỗi khiến tôi thấy rằng tất cả những cặp mắt đẹp đã làm đắm người đời

Ðều không giá trị bằng con mắt Do Thái thâm quầng của nàng.

Nàng mới có hai mươi tuổi, mà đôi vú đã trễ xuống

Treo lủng lẳng ở hai bên ngực như hai quả bầu

Thế mà đêm nào tôi cũng rẫy rụa trên thân hình nàng

Như một đứa trẻ mới đẻ, tôi bú và cắn nàng.

Và tuy rằng thường thường nàng chẳng có đến một đồng xu

Ðể tắm gội xác thịt và tẩm dầu đôi vai

Tôi cũng cứ âm thầm liếm thân thể nàng, say mê hơn cả

Nữ thánh Madeleine nhiệt tình quỳ liếm đôi bàn chân của đấng Cứu Thế.

Kết cục, chàng thanh niên thi sĩ hư hỏng ấy bị nàng truyền cho bệnh hoa liễu. Trong một cuốn sách nói về thân thế và sự nghiệp Baudelaire, nhà phê bình John Charpentier thuật đến đoạn này, có viết: “Tính cách ghê tởm của tấn thảm kịch đó ảnh hưởng quyết định đến số kiếp thi nhân. Từ đó, Baudelaire cứ tưởng vâng theo những bản tính thân thích khi đắm mình trong cuộc truy hoan… Ðeo nặng trên lương tâm cái tội gốc, chàng cứ lăn lóc suốt đời trong truỵ lạc…” [8], và “Baudelaire đã viết: Văn minh không phải ở điện khí, cũng không phải ở hơi nước… mà chính ở chỗ làm giảm bớt dấu tích của tội gốc trong lòng người. Coi đó Baudelaire tin ở tội lỗi.” [9]

Tin tưởng này là nền tảng luân lý của tâm hồn Baudelaire. Nó cũng là nguồn cảm hứng vô tận của thi sĩ. Tập thơ bị người đời kết án, Les Fleurs du Mal, chỉ là biểu thị mỹ thuật của tin tưởng ấy. Cũng bởi cô gái đĩ Do Thái đã đi qua khoảng đời niên thiếu của nhà thi hào bất hủ…

Trái hẳn Baudelaire, thi sĩ Tản Ðà đã gặp một giai nhân hiền hậu. Cậu học trò trường Quy thức, lúc thầm yêu trộm nhớ cô hàng tạp hoá phố Hàng Bồ, đã làm gì có quan niệm về tình ái. Chàng chỉ yêu trong mộng tưởng. Chung quanh người đẹp, chàng thêu dệt bao nhiêu ảo ảnh. Ðó là một tình yêu tinh thần. Tình yêu của một nhà nho! Rồi khi tình yêu, vì cảnh đời ngang ngửa, không kết quả được thành hôn nhân, thư sinh liền mang nặng trong tâm hồn hình ảnh người yêu với tất cả ảo tưởng đẹp đẽ của nó. Suốt đời, thi sĩ Tản Ðà chỉ thờ phụng tình yêu và người yêu ấy. Nhờ hai bảo vật này, tâm hồn nho của nhà thơ thêm nhu nhuyễn và đa cảm. Phát hiện tuyệt đối của trạng thái tâm lý đó là bài khóc tế Chiêu Quân ở chùa Non Tiên.

Giời Nam thằng kiết là tôi

Chùa tiên đất khách khóc người bên Ngô

Tôi với cô, tôi với cô

Trước sân lễ bạc có mồ nào đây

Trong bài tế, thi sĩ để lộ một tâm hồn đa cảm vô cùng tế nhị. Thương người bạc mệnh vùi xương ngàn năm ở đất Hồ, thi sĩ cất tiếng ai điếu số kiếp buồn tênh của con người hồng phấn:

Ô hô Chiêu Quân

Phương cốt hữu tận

U khảm vô kỳ

Minh nguyệt độc cử

Âm vân không thuỳ

Dịch nghĩa:

Ô hô nàng Chiêu Quân

Nắm xương thơm của nàng có thể mất

Mà mối hận u uất của nàng không có thời hạn nào

Chỉ có trăng sáng soi thấu

Thì lại bị mây đen che khuất [10]

Mấy câu này đủ nói dài về tính chất lãng mạn của thi sĩ Tản Ðà, một tâm hồn dễ xúc động, dễ bị đốt nóng bởi những trạng huống tâm lý của đời tài hoa xấu số. Tản Ðà khóc Chiêu Quân cũng như Nguyễn Du khóc Thuý Kiều, Chu Mạnh Trinh khóc Nguyễn Du. Cùng giống đa tình, các bậc thi nhân ấy đã giảng dạy cho người đời một yêu thương mênh mông và tha thiết, một yêu thương vô tận, không bờ bến, không địa giới.

Ở điểm này, thi sĩ Tản Ðà là nối tiếp tinh thần của thơ ca Việt Nam cố hữu. Trường thơ lãng mạn hiện đại của các ông Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Vỹ,… nhận Tản Ðà là người khởi xướng cũng chỉ là công bằng và hợp lý.

*

Tình yêu đã đánh thức Nàng Thơ trong tâm hồn thi sĩ. Thất vọng lại gieo thêm vào một cung điệu não nùng. Trong mười năm hơn, giữa những gió lốc bụi mù của thế kỷ, Nàng Thơ ấy đã gẩy réo rắt cung điệu ấy trong cảnh hoang tàn của bao nhiêu cõi lòng hiu quạnh…

Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!...