Vân Đài Loại Ngữ - Phần CHÚ THÍCH

[1] Vân là một loại cỏ thơm ghép vào sách vở thì trừ được sâu mọt, do đó Vân-đài là nơi chứa sách. Vân-đài loại-ngữ là những lời nói thu-thập tại chốn Vân-đài được xếp theo từng loại.

[2] Ba điều bất hủ, ba điều không mục nát tiêu tan, vẫn còn mãi mãi: Lập đức, lập ngôn và lập công.

[3] Lập ngôn, những gì viết ra thành sách để lưu truyền mãi mãi cho đời sau.

[4] Dung-hội, dung-hòa và hội-họp những thuyết thành hệ-thống.

[5] Quản khuy lễ trắc, lấy ống nhìn trời thì thấy trời nhỏ bé, lấy bầu đong nước biển thì chẳng thấm vào đâu, ngụ ý kiến-thức cạn hẹp.

[6] Lục-kinh, là sáu bộ Kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân-thu.

[7] Cách vật trí tri, nghiên-cứu đến nguyên-lý của sự vật mà suy đạt đến trí-thức cùng cực.

[8] Thứ-xá (thứ là chỗ, xá là nhà nghỉ). Chỗ các vì sao dừng lại trong thiên-văn học.

[9] Triền-độ (triền là bước lên trên cái gì, độ là độ số), độ số vận hành của các vì sao trong 360 độ của bầu trời trong thiên-văn học.

[10] Trong chương Thuyết-phù, Liệt-Tử kể: Có người hàng xóm của Dương-Tử mất một con dê. Anh gọi hết người trong nhà và kêu người tớ của Dương-Tử cũng đi tìm con dê.

Một con dê lạc mất mà lắm người chạy đi tìm vì đường cái có nhiều đường rẽ, và trong đường rẽ lại có nhiều đường rẽ khác nữa, khiến Dương-Tử biến sắc biếng cười biếng nói suốt nửa ngày.

Câu chuyện này ngụ ý người học không luôn luôn lưu ý chú trọng đến chính đạo, để tư-tưởng lạc lỏng ở nhiều chiều hướng mà mất chính đạo.

[11] Liêm Lạc Quan Mân tức bốn địa-phương quê-quán của bốn vị nho đời Tống: Liêm-khê là quê quán của Chu Đôn-Di, Lạc-dương là quê-quán của Trinh-Di Trình Hiệu, Quan-trung là quê-quán của Trương-Tái, Mân-trung là quê-quán của Chu-Hy.

[12] Điệp sáng giá ốc, ý nói trùng điệp lặp đi lặp lại như đặt cái giường này ở trên cái giường khác, chồng cái nhà này lên trên cái nhà khác.

[13] Phân dã, khu-vực các vì sao trên không.

[14] Hy-Thúc là tên một viên quan dưới thời vua Nghiêu đến ở đất Minh-đô xem thiên-văn làm ra lịch.

[15] Thặng là tên bộ sử nước Tấn đời Xuân-thu. Thặng có nghĩa là ghi chép, ghi chép lịch-sử nước mình.

[16] Vô-vi, lấy đức mà háo dân, không cần đến hình-pháp và chính-sự.

[17] Luật lữ là tên hai thứ ống sáo dùng để thử thanh-âm mà phổ vào nhạc do Linh-luân đời Hoàng-Đế chế ra, ống dương gọi luật, ống âm gọi lữ. Có 6 luật dương và 6 luật âm.

[18] Triện, lệ là hai lỗi chữ đời cổ của Trung-quốc.

[19] Bách gia cũng như Chư tử là hàng trăm nhà triết-học đủ các phái của Trung-quốc.

[20] Đại-diễn là sách số của Tăng-Nhật-Hành đời Đường Huyền-Tông. Tác-giả dùng 50 cộng cỏ thi để bói. Đại diễn có 50 số, là 10 ngày, 12 giờ và 28 vì sao.

[21] Lời của Lão-tử trong Đạo-đức kinh.

[22] Kỳ-Bá, tương truyền là người đời Hoàng-Đế, tổ-sư nền y-học Đông-phương.

[23] Tiết-Huyên, người đời Minh, quán ở Hà-tân, tự là Đức-ôn, hiệu là Kính-hiên, viết sách Tiết-văn thanh-tập, sách Tiết-tử thông luận.

[24] Sinh ý, cơ mầu để sinh hoá.

[25] nt

[26] Trung hoà tuyên sướng. Trung là âm-tỷ ở trong chưa phát ra. Hoà là phát ra mà trúng tiết. Tuyên là phân tán ra. Sướng là thông đạt.

[27] Nhị thập bát tú là 28 chòm sao. Thiên-văn-học Trung-quốc chua các ngôi sao trên trời làm 4 nhóm ở bốn phương: đông, tây, nam, bắc, mỗi phương 4 chòm sao (4 x 7 = 28).

[28] Đúng câu văn trong sách Trang-Tử ở chương Thiên-vận là: Thục hư hấp thị, thục cư vô sự nhi phi phất thị.

[29] Nhĩ-Nhã, tên sách có cả thảy 19 thiên. Đấy là bộ sách Tiểu-học cũng như từ-điển có trước đời Khổng-Tử.

[30] Hoài-Nam-Tử, sách này do Hoài-Nam-Vương Lưu-An viết, nói theo Đạo-đức kinh, gồm có 21 quyển.

[31] Khoảnh, khoảng rộng 100 mẫu.

[32] Thái-bình quảng ký, sách có 500 quyển do Lý-Phỏng phụng sắc soạn ra, chia làm 55 bộ, chép nhiều chuyện thần quái nhưng có nhiều điển cố, thanh vật có thể giúp ích cho các nhà khảo-cứu.

[33] Luận-hành có 30 quyển, do Vương-Sung đời Đông-Hán soạn ra, chép nhiều điều tiến bộ.

[34] Hoảng hốt, nói tình trạng không thể phân biệt mà nhận-định được.

[35] Ở trang này nguyên-tác đánh nhảy 1 số, trang 17 rồi trang 19.

[36] Tượng là hiện-tượng, biểu-tượng. Số là quy-luật, số-học. Tượng và số là hai khái niệm căn bản của kinh Dịch.

[37] Sách chép sai. Câu đúng ở Hệ từ thượng truyện trong kinh Dịch là: Nhân giả kiến chi vị chi nhân. Trí giả kiến chi vị chi tri. Bách tính nhật dụng nhi bất tri. Cố quân-tử chi đạo tiển hĩ.

[38] Sách chép sai. Câu đúng ở Hệ tứ thượng truyện trong kinh Dịch là: Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động cảm nhi toại thông thiên-hạ chi cố

[39] Lục hư có 2 nghĩa. 1. Trên dưới và bốn phương. 2. Sáu hào, sáu ngôi trong 1 quẻ, nơi âm-dương giao-cảm.

[40] Chi cán tức can chi (thiên can và địa chi).

[41] Thanh-Ô-Tử là nhà phong thủy nổi tiếng đời xưa.

[42] Thanh nang kinh là một bộ sách về phong thủy (địa lý).

[43] Đồng-dao bài hát của trẻ trong thôn xóm.

[44] Sách chép như là sai. Đúng là chữ .

[45] Ly-sơn, tên núi ở tỉnh Thiểm-tây. Vua U-vương nhà Chu mắc nạn mà chết ở đấy.

[46] Sấm-vĩ, thử thách chiêm nghiệm thuật số, đoán việc vị-lai.

[47] Xích-Lưu, Hán Cao-tổ họ Lưu, tương truyền là con của Xích-đế, cho nên được gọi là Xích-Lưu.

[48] Thạch, đồ để đong lương, 10 đấu là 1 thạch.

[49] Sách chép Phụ-Nho-Lược là sai. Đúng là Ngải-Nho-Lược.

[50] Luân-hồi, xoay vần không thôi. Phật-giáo cho rằng người ta lần lượt sống chết trong khoảng lục-đạo, xoay vòng như cái bánh xe không khi nào thôi (Métempsychose).

[51] Thiên tào phán sự, Thiên đình xử kiện.

[52] Địa ngục câu đối, Diêm-vương bắt đến đối chất để xử kiện ở Địa ngục.

[53] Ngụy-Thù nước Tấn có một nàng hầu trẻ và đẹp. Thường ngày, Thù dặn các con nên tìm nơi xứng đáng gả nàng hầu ấy khi mình chết rồi.

Nhưng đến lúc đau nặng sắp mất, Ngụy-Thù lại bảo các con nên chôn sống nàng hầu ấy theo mình.

Ngụy-Thù chết, con là Ngụy-Khỏa cho là lời lúc đau yếu sắp chết là mê loạn không đáng kể, đã không chôn sống nàng hầu ấy mà còn gả cho lấy chồng.

Về sau Ngụy-Khỏa đánh giặc gặp tướng nhà Tần là Đỗ-Hồi rất hung-tợn. Lúc xáp trận trên bãi cỏ, Ngụy-Khỏa thấy mơ-hồ hình bóng một ông già đang lom-khom kết cỏ thành vòng để làm vướng chân ngựa của Đỗ-Hồi. Ngựa của Đỗ-Hồi vấp ngã. Đỗ-Hồi té xuống Ngụy-Khỏa đâm chết. Đến tối Ngụy-Khỏa chiêm-bao thấy một ông già tự xưng là cha của nàng hầu đến nói đã kết cỏ vướng chân ngựa của tướng địch để đền ơn.

[54] Lấy đạo mà trị thiên-hạ thì quỷ sẽ không thiêng vì không có việc oan ức rửa oán trả thù, quỷ còn hiện lên để làm gì nữa?

[55] Biết chuyện Chuyên-xa, Ngô Phù-Sai đánh nước Việt, phá núi Cối-kê, lấy được một cỗ xe đầy xương người, sai đi hỏi Khổng-Tử. Ngài bảo: “Đó là xương họ Phòng-Phong. Khi vua Vũ nhà Hạ hội quần-thần ở Cối-kê, họ Phòng-Phong đến chậm mà bị giết” .

[56] Nói chuyện Khổ thỉ. Có một con chim cắt bay đến đậu ở sân Trần-hầu rồi chết ngay, vì có một cây tên bằng gỗ cây khổ đâm suốt minh. Chim và tên được đem đến hỏi Khổng-Tử. Ngài bảo: “Đó là thứ tên của họ Túc-Thận đem cống cho Vũ-vương” .

[57] Phân biệt được Quỷ-võng và Phần-dương. Quỷ-Tương-Tử đào giếng lấy được một vật, đem hỏi Khổng-Tử. Ngài bảo: “Nó là loài mộc thạch quái gọi là Quỷ-võng, và thổ quái gọi là Phần-dương” .

[58] Đúng là sách Sơn-hải kinh chớ không phải Sơn-hãi chí, là bộ sách nói về sông núi, có từ trước đời Hán.

[59] Đình chuyên, cách bói của người nước Sở bằng cách kết cỏ và chẻ tre.

[60] Ngõ bốc, đập vỡ tấm ngói, xem lằn nứt mà bói.

[61] Kẻ bốc, xem chân gà mà bói.

[62] Điểu bốc, bắt con chim, mở bụng, hễ thấy lúa thì biết được mùa, thấy đá cát thì biết mất mùa.

[63] Hưởng bốc, đêm trừ tịch, nghe tiếng người ta nói mà đoán lành dữ.

[64] Nước phụ-dung, nước chư-hầu nhỏ phải phụ thuộc vào nước chư-hầu lớn.

[65] Câu này sách chép sai, phải lấy ý ở mục sao Chuyên-húc trong sách Trung-văn Đại từ-điển mà dịch.

[66] Lịch Thái-sơ, lịch làm năm Thái-sơ đời Hán Vũ-đế do Đặng-Bình làm.

[67] Lịch Đại-diễn, tên một thứ lịch đời Đường Huyền-Tông do tăng Nhất-Hạnh làm dựa vào số Đại-diễn trong kinh Dịch.

[68] Lịch Thụ-thì, tên một thứ lịch đời Hán Nguyên-đế do Hứa-Hành và Quách-Thủ-Kính tham- khảo các lịch đời trước và châm chước làm ra.

[69] Trung tinh, vì sao nào trong nhị thập bát tú vận chuyển lần lượt mỗi tháng đến giữa trời gọi là Trung tinh.

[70] Cơ hành, tức tuyền cơ ngọc hành là những khí-cụ đời xưa dùng để đo lường thiên tượng.

[71] Nguyên hội, 1 giáp-tý 60 năm là 1 nguyên. Trải qua 3 nguyên (thượng, trung, hạ) là 1 chu, tức 180 năm, (= 60x3). Trải qua 3 chu là một vận, tức 540 năm (= 180 X 3). Lấy 1 nguyên 60 năm là 1 đại vận. Trong 1 nguyên, mỗi 20 năm là 1 tiểu vận. Lấy đó định địa khí suy hay vượng.

[72] Tương truyền trong mặt trời có con quạ ba chân, cho nên người ta dùng danh-từ kim ô (quạ vàng) để chỉ mặt trời.

Tương truyền trong mặt trăng có con ngọc thỏ già, trường sinh bất tử, cho nên người ta dùng danh-từ Ngọc thố (thỏ ngọc) để chỉ mặt trăng.

[73] Hồn-thiên học, một môn toán học về thiên-tượng ngày xưa, cho rằng trời tròn như quả trứng bao bọc lấy đất. Trời tròn như hòn đạn, cho nên gọi là Hồn-thiên.

[74] Đếm thấy 7 từng mới đúng, sách chép 8 từng là sai.

[75] Câu này nguyên văn chép sai. Đúng theo Thiên-văn chí trong sách Tùy-thư là: Phi nhân biểu hiện hậu định thiên trường đoản.

[76] Đái-nhật (nghĩa là lạy Mặt trời), theo sách Nhĩ-nhã, vùng Đái-nhật ở phía nam Tề-châu, người nam thờ Mặt trời, cho Mặt trời là Chúa các Thiên-thần.

[77] Thổ-khuê, dụng-cụ của người xưa đo bóng Mặt trời.

[78] Nhật-quan, chỗ ở trên ngọn phía đông núi Thái-sơn làm nơi xem mặt trời mọc.

[79] Xích-huyện, tức Xích-huyện thần châu, chỉ Trung-quốc.

[80] Tam thế, ba đời, ba kiếp: quá-khứ, hiện-tại, vị-lai.

[81] Tu-di sơn tức Tuyết-sơn, núi Hi-mã-lạp sơn.

[82] Tinh-kỷ, từ sao Nam-đẩu 12 độ đến sao Tu-nữ 7 độ là tinh-kỷ là phân-dã nước Ngô nước Việt.

[83] Sách chép Mang-thực là sai, đúng là Mang-chủng.

[84] Sách chép sai là Mang-thực, đúng là Mang-chủng.

[85] Trong sách in là Tận thị.

[86] Dạ-nhãn, đốm đen ở trên đầu gối con ngựa. Có dạ-nhãn, ngựa có thể chạy ban đêm.

[87] Cá du, loài cá biển không vảy.

[88] Vân-lộc mạn sao, có 15 quyển do Triệu-Ngạn-Vệ tự là Cảnh-An soạn ra.

[89] Quảng luân, đường đông-tây là quảng, đường nam-bắc là luân, ý nói diện-tích có chiều ngang chiều dọc.

[90] Tụ mễ vi sơn, Mã-Viện đi đánh Ngỗi-Ngao lấy gạo bày hình-thế núi-non, mưu tính thế-trận tấn-công cho vua Quang-vũ nhà Hán xem. Vua bảo: “Giặc ở tầm mắt của ta rồi” .

[91] Chỗ này sách chép đạo lý 道理 là vô nghĩa. Ở đây đạo lý 道里 là dặm đường mới hợp lý.

[92] Chín châu. Vua Vũ nhà Hạ đặt ra chín châu:

1. Ký-châu

2. Duyên-châu

3. Thanh-châu

4. Từ-châu

5. Dương-châu

6. Kinh-châu

7. Dự-châu

8. Lương-châu

9. Ung-châu

[93] Nguyên-tác chép sai ở đoạn này. Câu này ở Mạnh-Tử Tuân khanh truyện trong sách Sử-ký như sau: Trung-quốc danh viết Xích-huyện thần-châu. Xích-huyện thần-châu nội, tự hữu cửu châu, Vũ chi tự cửu châu thị dã. Bất đắc vi châu số, Trung-quốc ngoại như Xích-huyện thần-châu giả cửu. Nãi sở vị cửu châu dã.

[94] Nhị thập nhất sử, 21 bộ sử Trung-quốc gồm có 13 bộ sử đời Đường, 4 bộ sử đời Tống, 4 bộ sử đời Minh.

[95] Nguyên-văn trong Chu-lễ: Chu-lễ Địa-quan Đại Tư-đồ. Sách này chép thiếu chữ đồ.

[96] Thiệu-Tín-Thần, người đất Thọ-xuân đời Hán, tự là Ông-Khanh, làm Thái-thú ở Linh-lăng, Nam-dương, là người siêng-cần có phương lược thích làm việc mưu lợi cho dân để dân được giàu có, dân kính nên gọi ông là Thiệu-phụ (Từ-hải).

[97] Phong thổ ký, sách do Chu-Xử đời Tần soạn.

[98] Minh, một thể văn thường thấy ghi khắc trên vạc trên mâm, như đỉnh minh, bàn minh.

[99] Thang, Vua Thành-Thang nhà Thương.

[100] Vũ-Đinh, tức vua Cao-Tông nhà Ân, có Phó-Duyệt làm tướng, quốc-gia đại trị, ở ngôi được 59 năm.

[101] Hai câu này ý nói có bề tôi giỏi thì mọi việc được thành công.

[102] Nt.

[103] Bát nguyên (nguyên là giỏi), tám kẻ bề tôi giỏi của vua Cao-Tân thị.

[104] Bát khải (khải là hòa), tám kẻ bề tôi hòa của vua Cao-Dương thị.

[105] Phàn long phụ phụng, vịn rồng níu phụng, nói kẻ bề tôi vin níu theo vua mà lập công danh.

[106] Câu này ý nói vua hiền tôi giỏi gặp nhau rất khó-khăn, không như trường-hợp vua Vũ-Đinh gặp ông Phó-Duyệt rất dễ dàng.

[107] Sạn-đạo (sạn là gác cây làm đường đi), đường đi làm bằng tre gỗ gáp ráp lại, cũng gọi là các-đạo.

[108] Sạn-các, tức là sạn-đạo.

[109] Bản-các, sạn-đạo gác bằng ván.

[110] Thông-giám tức Tư-trị thông-giám.

[111] Câu này ở Chương 2 thiên Miên thuộc phần Đại-nhã trong kinh Thi: Chu nguyên vũ vũ, Cẩn đồ như di = đồng ruộng của nhà Chu mầu mở, Rau cần, rau đồ ngọt tợ như đường.

[112] Chu Vũ-nương đóng đô ở đất Hạo, cho nên gọi là Hạo-kinh.

[113] Sách chép thiếu 1 chữ rất dễ đoán mà biết đó là chữ nam.

[114] Một quẻ có 6 hào, hào dương có một nét liền ― gọi cửu, hào âm có 2 nét rời ― ― gọi lục

Quẻ kiền có 6 hào dương Image:

Thứ 1 là sơ-cửu,

Thứ 2 là cửu-nhị,

Thứ 3 là cửu-tam,

Thứ 4 là cửu-tứ,

Thứ 5 là cửu-ngũ,

Thứ 6 là thượng-cửu

[115] Quán là nhà của đạo-sĩ ở.

[116] Tự là chùa Phật.

[117] Y-khuyết tên đất ở huyện Lạc-dương, tỉnh Hà-nam, ngày xưa vua Đại-Vũ đào sông thoát nước thấy ở đấy có hai trái núi đối nhau như cửa khuyết của vua, lại có sông Y-thủy chảy ngang qua đấy về hướng bắc cho nên gọi đất ấy là Y-khuyết.

[118] Yển-sư, tên đất, Chu-Vũ vương đánh vua Trụ, thường đắp thành nghỉ quân (Yển, nghỉ ngơi; , quân-đội) ở đấy. Huyện Yển-sư ở phía đông huyện Lạc-dương, tỉnh Hà-nam.

[119] Sách phủ nguyên quy, tên sách gồm 1. 000 quyển do Vương-Khâm-Nhược Dương-Úc đời nhà Tống soạn ra, ghi chép những sự-tích về vua tôi các đời, chia làm 81 bộ, 1. 104 môn.

[120] Thạch-Tấn, nhà Hậu-Tấn do Thạch-Kính-Đường sáng-lập.

[121] Độ-chi, chức quan coi giữ thuế-má, dự liệu số thu vào mà quyết-định việc chi xuất, Nhà Ngụy có đặt quan Độ-chi Thượng-thư.

[122] Tổng-quản, chức quan đốc quân trấn thủ.

[123] Tô-dung ty, sở coi việc thuế-má.

[124] Lục quân, theo quân chế ngày xưa, 12. 500 người là một quân, Thiên tử có 6 quân (12. 500 x 6 = 750. 000), nước to có 3 quân (12. 500 x 3 = 375. 000), nước nhỏ hơn có 2 quân (12. 500 x 2 = 250. 000), nước nhỏ nhất có 1 quân (12. 500).

[125] Di, giống rợ phía đông Trung-quốc.

[126] Địch, giống rợ phía bắc Trung-quốc.

[127] Bách xuyên học hải, tên sách gồm có 10 tập, 100 loại do Tả-Khuê đời Tống biên soạn.

[128] Thất khiếu, bảy lỗ bày trên mặt: 2 mắt, 2 mũi, 2 tai và 1 miệng.

[129] Ngũ-tạng, năm tạng: tâm (tim), can (gan), tỳ (lá lách), phế (phổ), thận (cật).

[130] Thái-thấtThiếu-thất là tên hai ngọn núi ở dãy Tung-cao.

[131] Lục-triều, 6 triều vua là Ngô, Đông-Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần đến đóng đô ở Kiến-khang. Kiến-khang nay là Nam-kinh.

[132] Ở chữ này, khi dịch tới phần sau nhận thấy là chữ vượng mới đúng.

[133] Kiến-khang tức nay là Nam-kinh.

[134] Hành-cung, chỗ vua dừng nghỉ khi xuất-hành.

[135] Tam-quốc, ba nước là Ngụy, Ngô và Thục.

[136] Lục-triều, sáu nước là Ngô, Đông-Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần.

[137] Nguyên-Ngụy là Hiếu-Văn-đế nhà Bắc-Ngụy, đổi ra họ Nguyên, cho nên nhà Bắc-Ngụy cũng gọi là Nguyên-Ngụy.

[138] Lạc tức là Lạc-ấp, Lạc-dương nằm ở phía bắc (dương) sông Lạc-thủy.

[139] Canh-thủy, niên-hiệu của Hán Hoài-dương vương (23 sau Thiên-Chúa).

[140] Chu-Lương, nước Lương đời Ngũ-đại do họ Chu sáng-lập cho nên gọi là Chu-Lương.

[141] Nguyên-phong, niên-hiệu vua Thần-tông nhà Tống.

[142] Nguyên-hựu, niên-hiệu vua Triết-tông nhà Tống.

[143] Lưu Triệu loan, cái vịnh dành cho họ Triệu.

[144] Tốn sơn, ngọn núi nhỏ lên ở phương tốn, tức là phương đông-nam.

[145] Nhất thống chí, tức Đại Thanh nhất thống chí gồm có 34 quyển, soạn ra vào đời Gia-khánh.

[146] Tứ triều văn kiến lục, sách chia ra làm 5 tập chép các dật sự của bốn triều do Diệp-Thiệu-Ông đời Tống soạn ra.

[147] Vọng khí, người xem khí mây mà biết điềm lành dữ.

[148] Tuyên-hòa là niên-hiệu của vua Tống Huy-tông (1119).

[149] Quế hải chí tức sách Quế hải Ngu hành chí có một quyển do Pham-Thành-Đại đời nhà Tống soạn ra.

[150] Đức-hựu, niêu-hiệu vua Cung-đế nhà Nam-Tống (1275-1276).

[151] Tốn thủy, nước ở về phương đông-nam.

[152] Niên-hiệu Hàm-thông, 860-873 sau Thiên-Chúa.

[153] Khai-hoàng là niên-hiệu của Tùy Văn-đế, (581-589).

[154] Vũ-Đức, niên-hiệu của Đường Cao-tổ, 618-627.

[155] Trinh-quán, niên-hiệu của Đường Thái-tông, 627-650.

[156] Phân mao lãnh, núi cỏ rẽ. Tương truyền cỏ ở núi ấy mọc rẽ ra hai bên làm thành lằn ranh giữa nước ta và Trung-quốc.

[157] Nguyên-văn chép sai ra chữ châu州, đúng là chữ xuyên.

[158] Than là chỗ bãi cạn.

[159] Vũ-sư là thần làm mưa.

[160] Kiềm là tên riêng của tỉnh Quý-châu.

[161] Phong-bá là thần làm gió.

[162] Điền là tên riêng của tỉnh Vân-nam.

[163] Mã-bào tuyền (mã, ngựa ; bào, lấy chân trước đào đất ; tuyền, suối). Ngựa đào đất có mạch suối tuôn nước ra.

[164] Hoàn vũ ký tức là sách Thái-bình hoàn vũ ký gồm có 193 quyển, do Nhạc-sử đời Tống soạn, là bộ sách địa-lý xưa.

[165] Bắc mộng toả ngôn, tên sách gồm 20 quyển do Tôn-Quang-Hiến đời Tống soạn ra, ghi chép các dật-sử.

[166] Thông-giám, tức Tư-trị thông-giám.

[167] Đường Cao-tổ họ Lý, tên Uyên.

[168] Minh-đường, chỗ nước chung tụ ở trước huyệt mộ theo nhà phong thủy.

[169] Đồng-binh chương-sự là chức Tể-tướng đời nhà Đường.

[170] Do đó, chữ búa trong danh-từ chợ-búa vốn do chữ bộ chuyển ra.

[171] Hợp-bích tức Nhật nguyệt như hợp bích là mặt trời và mặt trăng như hai ngọc bích hợp lại.

[172] Uyên ngõa tức uyên ương ngõa là loại ngói lợp trên mái nhà có miếng úp miếng ngửa hiệp vào nhau như đôi chim uyên-ương, con trống con mái không rời nhau.

[173] Thố-ta cũng đọc là thố-tư (đánh bẫy thỏ): tên một bài thơ thuộc phần Chu-nam trong kinh Thi, đại ý nói nhà Chu đang hồi thịnh-trị nhiều nhân-tài, người đánh bẫy thỏ cũng có tài dùng vào đại sự.

[174] Thanh-trì, tên đất ở tỉnh Hà-đông, phụ-cận Hà-nội.

[175] Thủy-kinh, tên sách do Tang-Khâm đời Hán soạn ra, được Linh-Đạo-Nguyên đời Bắc-Ngụy chú thích, biên chép những con sông ở Trung-quốc về đời cổ, cũng có ghi những sông lớn ở Việt-nam.

[176] Tái ông là người đi ở cửa quan ải, chớ không phải sự tích Tái ông thất mã.

[177] Lung tức lung lung là thấp-thoáng.

[178] Bạch-mã, tên một ngôi đền thờ thần Bạch-mã ở phố Hàng Buồm Hà-nội. Ngày xưa ở đấy có chợ, gọi là chợ Bạch-mã.

[179] Bạch nghị. Nghị tức phủ nghị là bọt nổi lên mặt rượu. Bạch nghị là bọt trắng.

[180] Minh hồng, chim hồng bay vút cao, ngụ ý kẻ-sĩ lánh đời.

[181] Lạc-khoản, phần đề tên họ ngày tháng năm ở bức tranh hay bài thơ.

[182] Mã Tân-tứctức Mã-Viện. Mã-Viện sau khi dẹp Ngỗi-Ngao, rợ Khương, nước Giao-chỉ được phong tước Tân-tức hầu.

[183] Đế-điển tức thiên Nghiêu-điển trong kinh thư.

[184] Nguyên văn câu này trong phần Mã-viện truyện ở sách Hậu Hán-thư là: Ngưỡng thị phi diên thiếp thiếp dọa thuỷ trung = Ngẩng lên trông diều bay rơi tòm xuống nước.

[185] Việt-tây tức Quảng-tây.

[186] Lục-dương nay là đất Lưỡng-Việt (Việt-đông và Việt-tây).

[187] 18 châu phủ mới đúng, được lần lượt kể tiếp theo sau.

[188] 7 huyện, dư ra 1 huyện.

[189] Động-thiên, chỗ của thần tiên ở phần nhiều ở nơi sơn động, thường gọi có chữ thiên.

[190] Trục mạt, chạy theo mạt-nghiệp là nghề buôn. Còn bổn-nghiệp là nghề nông.

[191] Vận-dụng, khéo dùng trí kế biến thông mà không câu nệ.

[192] Lợi-Mã-Đậu (Matteo Ricci) là nhà truyền-giáo đạo Thiên-Chúa người nước Ý-đại-lợi, trong niên-hiệu Vạn-lịch thứ 8 (1580) đời Minh Thần-tông vào tỉnh Quảng-đông, đổi lấy tên Trung-hoa là Lợi-Tây-Thái, sau vào Bắc-kinh dựng nhà thờ Thiên-Chúa, biết chữ Trung-hoa và Âu-tây, giỏi thiên-văn, địa-dư, y-dược, được vua Thần-tông kính trọng.

[193] Đạt-ma tức Bồ-đề Đạt-ma, một nha sư Tây-trúc (Ấn-độ) trong năm đầu niên-hiệu Đại-thông (527) đời Lương Vũ-đế vượt biển đến Quảng-châu, được Lương Vũ-đế sai sứ đón đến Kiến-nghiệp, sang nước Ngụy, ở chùa Thiếu-lâm tự núi Tung-sơn, suốt ngày ngồi ngoảnh mặt vào vách đến 9 năm, trao pháp và áo ca-sa cho Tuệ-Khả rồi nhập tịch, táng ở chùa Định-lâm tự núi Hùng-nhĩ sơn. Lương Vũ-đế soạn bài bia dựng ở núi Chung-sơn, trong thời Đường Đại-tông được tên thụy là Viên-giác đại sư.

[194] Nam-Hoài-Nhân (Ferdinandus Verbiest, 1628-1688) tên tự là Huân-Khanh là Đồn-Bá, giáo-sĩ của Hội Da-tô nước Belgique, trong khoảng niên-hiệu Thuận-trị nhà Thanh (1644-1661) đến Trung-quốc cùng với nhóm Thang-Nhược-Vọng (người nước Đức) cùng đến Bắc-kinh truyền-giáo. Nam-Hoài-Nhân được vua nhà Thanh thâu-dụng cho làm chức Khâm-thiên Giám-phó, được chiếu lịnh cải-chế các khí-cụ xem thiên-tượng.

[195] Ngải-Nho-Lược (Giuleo Aleni), người Ý-đại-lợi đến Trung-quốc vào cuối đời nhà Minh.

[196]Thái-đàn, người xưa đắp đất làm Thái-đàn, chất củi lên rồi đặt ngọc và con vật hy-sinh lên trên mà đốt để hơi khí bốc lên trời.

[197]Xã tắc, Xã là thần thổ-địa, Tắc là thần ngữ-cốc đều được Thiên-tử và Chư-hầu cúng tế.

[198]Thích thái, làm lễ dâng rau tảo rau phiền cúng tế Tiên sư.

[199]Hành hương, theo nhà Phật đốt hương ở lò và đi quanh trong đạo-trường.

[200]Tống-Liêm, người ở Phố-giang đời nhà Minh, sáng-suốt nhớ dai, làm chức Hàn-lâm Học-sĩ, có viết nhiều sách.

[201]Tiêu-Lương, nhà Lương trong thời Nam-triều do họ Tiêu sáng lập, cho nên gọi là Tiêu-Lương.

[202] Quan đánh nhạc ngày xưa đều là người mù.

[203]Phu nhân, thiếp của Thiên tử, vợ của Chư hầu, vợ của các quan lớn.

[204]Linh đài, ngôi đài do Văn-vương nhà Chu dựng lên, dùng để xem khí âm dương mà xét biết là lành hay dữ và để xem thiên - văn để tiết chế sự lao nhọc hay nhàn rỗi.

[205]Nhận, 8 hay 7 thước là một nhận.

[206]Cờ mao, một loại cờ có gắn lông đuôi bò Ly ngu ở đầu gù.

[207]Tiết tức tinh tiết một vật cầm làm tin của người xuất hành, làm bằng tre dài 8 thước, có kết lông đuôi bò Ly ngu ở ở ba chặng.

[208]Cờ đạo, cờ bằng lông, cắm ở xe lúc xuất hành.

[209]Tiết lâu, ngôi lầu để cây tinh tiết của Tiết độ sứ.

[210]Trá, đại lễ cúng vạn vật vào tháng chạp.

[211]Na, quỷ ôn dịch, Khu na là lễ tế để đuổi trừ quỷ ôn dịch.

[212]Chu quan tức sách Chu-lễ.

[213]Trung hoàng môn, tức hoạn quan ở trong cung cấm.

[214]Chấn tử, đồng nam, đồng nữ, con trai con gái nhỏ tuổi.

[215]Thái lệ, bậc đế vương chết mà không có con nối dõi thờ phụng.

[216]Công lệ, bậc chư hầu chết mà không có con nối dõi thờ phụng.

[217]Tộc lệ, quan đại phu chết mà không có con nối dõi thờ phụng.

[218]Thành-hoàng, ông thần làm chủ trấn giữ một thị thành (thành hoàng là thành trì). Người ta cúng tế Thành hoàng để cầu mưa, cầu nắng và trừ tai ách.

[219] Nhà Minh không có niên hiệu Hồng Đức, nguyên văn chép lầm Hồng Vũ ra Hồng Đức.

[220]Văn Tuyên Vương, hiệu phong của Khổng-Tử đời nhà Tống, nhà Nguyên.

[221]Tứ phối, 4 vị được thờ chung trong Khổng miếu: ỉ) Nhan Tử. 2) Tử-Tư. 3) Tăng-Tư. 4) Mạnh-Tử.

[222] Nguyên văn chép thiếu, chỉ có 11 vị tiên hiên, phải tra Trung văn đại từ điển mới kể đủ 12 vị hiền.

[223] Khải-thánh từ, đền thờ của Thúc Lương Hột, cha của Khổng-tử, về sau đổi gọi là Sùng thánh từ, gọi Thúc Lương Hột là Khải Thánh Vương.

[224]Chiêu, Mục, ngày xưa thần vị bày trong tông miếu bên trái gọi là Chiêu bên phải gọi là Mục. Tả Chiêu thờ tổ tiên 2 đời, 4 đời, 6 đời. Hữu Mục thờ cha, tổ tiên 3 đời, 5 đời.

[225]Điện Đại Thành, cái đền to ở miếu thời Khổng-Tử.

[226]Kích môn, của nhà có dựng cây kích. Thời nhà Đường, quan chức từ tam phầm trở lên được phép dựng cây kích ở cửa. Nhà quý hiển.

[227]Linh-tinh môn, ngày xưa trước miếu thời Khổng-Tử ở Học cung có Linh Tinh môn.

[228]Minh Luân đường, trong Học-cung có Minh Luân đường (nhà làm sáng tỏ luân thường).

[229]Hiệu phòng, phòng ngủ của sĩ-tử ứng thí đời nhà Minh.

[230]Xạ phố, nơi tập bắn cung.

[231]Danh hoạn, làm quan ở địa phương mà khi rời đi được người khác tưởng nhớ.

[232]Hương hiền, người hiền đức sống trong làng được nhiều người khen ngợi luyến mộ.

[233]Liễu-Khai, người đời Tống ở đất Đại Danh, đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Điện Trung Thị Ngự Sử.

[234]Đinh-tế, mỗi năm trong ngày thuộc đinh ở thượng tuần tháng trọng xuân (tháng 2) và tháng trọng thu (tháng 8) cúng tế Khổng-Tử gọi là đinh-tế.

[235]Các-lão, đời nhà Minh, quan tể phụ được gọi là Các lão, vì vốn là quan Đại-học-sĩ vào làm việc ở Nội-các.

[236]Cổ-tông, nhà học đời Ân.

[237]Hương tiên-sinh, quan đại phu trí sĩ về làng mở nhà học dạy dỗ con em gọi là hương tiên-sinh.

[238]Tiên-nông tức Thần-Nông, người đầu tiên bày ra việc làm ruộng.

[239]Biên, một loại dĩa bằng tre đương dùng để đựng trái cây mà cúng tế.

[240]Đậu, một loại đĩa bằng gỗ dùng để thịt mà cúng tế.

[241]Phủ, một loại thố vuông bằng gỗ dùng để đựng xôi mà cúng tế.

[242]Quỷ, một loại thố tròn bằng gỗ dùng để đựng xôi mà cúng tế.

[243]Yến-khí, những vật dụng dùng lúc ở yên như gậy để chống đi, nón để che nắng, quạt để phẩy mát.

[244]Tế-khí, là những dụng cụ dùng lúc cúng tế.

[245]Trở-nhục, vật hy sinh để nguyên con trên giá gỗ mà cúng tế.

[246]Khâu Quỳnh-Sơn, hiệu của Khâu-Tuấn, người đời Minh, đỗ tiến sĩ, cố làm nhiều sách.

[247]Giáp-thất, nhà để cất thần chủ ở hai bên chính-đường trong miếu.

[248]Tục-tiết là những tiết thường như tiết Thanh-minh, tiết Hàn-thực, tiết Đoan-ngọ, tiết Trung-nguyên, tiết Trùng-dương.

[249]Vu-lan bồn, tiếng Phạm là Ulambana có nghĩa là treo ngược, ngụ ý rất khốn-khổ. Ngày rằm tháng 7 người ta bố-thí cho Phật cho tăng để báo đền ơn đức của cha mẹ đã mất, có thể cứu cha mẹ đang bị thọ hình treo ngược ở địa-ngục.

[250]Vu-sử, đồng bóng thờ phụng quỷ thần.

[251]Phóng-đăng, thắp đèn và đi chơi suốt đêm.

[252]Quán, lễ đội mũ của con trai được 20 tuổi.

[253]Hôn, hôn-nhân, cưới gả.

[254]Tang, đám tang.

[255]Tế, cúng tế.

[256]Truyện, phần giải rõ nghĩa lý trong kinh sách.

[257] Câu nầy nguyên-văn chép sai. Phải dịch theo câu đúng ở phần Miễn-học trong sách Nhan thị gia huấn: Lương triều hoàng tôn dĩ hạ, tổng quản chi tử tất tiên nhập học.

[258]Lượng là 4 trượng. Đoan là 2 trượng, 5 lượng là 10 đoan.

[259] Bữa cơm đầy tháng.

[260]Tối, là đầy năm, giáp năm.

[261]Mệnh-phụ, những người đàn bà được phong hiệu. Có Nội mệnh-phụNgoại mệnh-phụ.

[262]Tam-ban-viện, ba cơ-quan trong triều: Đài-viện, Điện-viện và Sát-viện.

[263]Khẩu hiệu, lời nói bí-mật dùng để hô ứng với nhau mà nhận ra người trong bọn.

[264]Thử-phác, tên sách, có 1 quyển do Đái-Thực đời Tống soạn ra, khảo-chứng những nghĩa nghi-ngờ trong kinh sử và những chỗ dị-đồng về danh vật điển-cố, biện-luận có nhiều điều tinh-thâm. Sách nầy được đặt tên là Thử-phác vì sự-tích sau đây: Người nước Trịnh gọi là ngọc chưa trau-giồi là phác. Người nhà Chu gọi con chuột chưa khô là phác. (Đồng một tên gọi mà khác vật-thể). Người nhà Chu gặp người nước Trịnh, mới hỏi: “Anh mua phác không? ” - “Mua” . Người nhà Chu đưa con chuột ra. Người nước Trịnh không mua. Câu chuyện nầy ngụ ý việc hiểu lầm nhau vì có việc đồng tên mà khác vật.

[265]Lục-điển, sách Lục-điển trong thời Đường Minh-hoàng có 30 quyển.

[266]Cáo thân, văn-bằng trao chức quan trong thời nhà Đường, cũng như bổ-nhiệm trạng ngày nay.

[267]Lăng, thứ lụa có vân.

[268]Phiêu, thứ lụa màu xanh trắng.

[269]Mệnh phụ, vợ các quan to được tước phong.

[270]Sắc điệp, bản sao làm chiếu nghiệm của Tòa Trung-thư.

[271]Thuyết-phu, tên sách có 100 quyển do Đào-Tông-Nghi đời Minh biên soạn, sao chép những tiểu-thuyết sử ký, tóm tắt phần đại-lược, gom nhặt những sách thất-lạc.

Sách nầy nay đã thất-lạc chỉ còn 30 quyển. Úc-Văn-Bác trong niên-hiệu Hoành trị có chép bù vào đủ 100 quyển. Diêu-An và Đào-Ban đời Thanh lại chép thêm được 120 quyển.

[272]Triện, lối chữ cổ đời xưa thường dùng để khắc trên mặt ấn. Có hai lối chữ triện: Tiểu-triện và Đại-triện.

[273]Tam-sảnh, ba cơ-quan lớn trong triều đời Tống: Trung-thư-sảnh, Thượng-thư-sảnh và Môn-hạ-sảnh.

[274]Phục-mệnh, nhận mệnh-lệnh đi thi-hành rồi trở về báo-cáo khi thi-hành hoàn-tất.

[275]Ngư-đại, cái túi đựng cái phù-tiết hình con cá. Đời xưa dùng hổ-phù, phù-tiết hình con cọp. Đời Đường đổi hổ-phù a ngư-phù, phù-tiết hình con cá. Cái túi đựng ngư-phù gọi là ngư-đại. Túi ngư-đại có ba loại: 1) Loại trang sức bằng ngọc. 2) Loại trang sức bằng vàng. 3) Loại trang sức bằng bạc. Đời Tống túi cũng con dùng, ở ngoài có hình con cá bằng vàng bằng bạc để trang-sức, nhưng ở trong thì không có đựng ngư-phù nữa.

[276]Thất-sự là bảy món của quan võ như dao, đá mài, đá lửa, ống kim...

[277]Thiếp-tiếp, cái yên ngựa.

[278]Thông-thiên-tê, một loài tê-giác, sừng có một cái lỗ thông suốt từ trên xuống dưới. Ai được sừng thông-thiên -tê dài một thước trở lên, khắc vào đấy hình con cá, cầm xuống nước, nước sẽ rẽ làm lối đi.

[279]Hoa-tê, sừng tê có hoa.

[280]Ban-tê, sừng tê có đốm.

[281]Hổ-phù, binh-phù làm thành hình con cọp.

[282]Sứ-phù, phù-tiết dùng để cầm làm tin lúc đi đường.

[283]Thố-phù, phù-tiết làm thành hình con thỏ.

[284]Ngư-phù, phù-tiết làm thành hình con cá.

[285]Nội-khố, kho ở nội-đình.

[286]Tản quan, quan lại nhàn tản không có chức sự.

[287] Nguyên văn là đảm tử là đồ để gánh khiêng, chắc là cái kiệu, tức là cái ghế có mui dùng để khiêng bậc quý nhân đi.

[288]Hề-xa (hề, tôi-tớ; xa, xe) dịch theo nghĩa từng chữ là xe của tôi-tớ đẩy kéo.

[289]Tư-lại, chức lại coi giữ giấy tờ sổ sách, như chức thư-ký ngày nay.

[290]Đâu-lung (đâu, loại kiệu khiêng ở vai; lung, cái lồng), kiệu có mây hay tre đan như cái lồng.

[291]Kiên-dư (kiên, cái vai; dư, cái kiệu), cái kiệu có người khiêng ở vai.

[292]Kiệu song loan, kiệu có trang-sức bằng hình hai con chim loan.

[293]Tinh biểu, người trung hiếu tiết nghĩa được vua ban cho tấm biển tuyên-dương đức hạnh đáng làm gương treo ở cửa.

[294]Ô đầu, đầu con quạ. Đầu cây trụ sơn đen gọi là ô-đầu.

[295]Phiệt-duyệt, cửa bên trái gọi là phiệt, cửa bên mặt gọi duyệt, dùng để ghi công-trạng. Từ đời nhà Đường nhà Tống trở về sau, nhà có công-trạng được trồng hai cây trụ, gọi là ô-đầu phiệt-duyệt. Nhà thế-gia gọi là phiệt-duyệt.

[296]Đạo, khu vực hành-chánh.

[297]Mộc-giáp, tấm ván gỗ dùng để kẹp giữ văn-thư sắc-thư để chuyển đi.

[298]Gián-viện, viện của các gián quan (quan dùng để can-gián) làm việc.

[299]Thất, độ dài 4 trượng dùng để đo vải lụa.

[300]Đoan, độ dài 1 trượng 8 thước dùng để đo vải lụa.

[301]Khoáng, bông.

[302]Trừu, một loại lụa dệt bằng tơ.

[303]Mạn, một loại tằng không có vân.

[304]Đoạn, thứ lụa trơn bóng và dày.

[305]Si, thứ vải dệt bằng chỉ dây sắn.

[306]Lăng, một lại tằng có vân.

[307]Miên, bông gòn.

[308]Thường tham quan, các quan thường ngày đến chầu tham chính gọi là thường tham quan, như quan văn từ ngũ phẩm trở lên, quan cung phụng ở lưỡng-sảnh, giám-sát ngự-sử, viên-ngoại-lang, thái-thường bác-sĩ theo chế-độ nhà Đường.

[309]Trung đơn, cũng gọi là trung y, là áo mặc lót ở trong.

[310]Tế tất, miếng che ở phía trước thòng xuống đầu gối.

[311]Bổ-phục cũng gọi là bổ-tử, miếng che ở ngực và lưng của các quan văn võ thêu bằng chỉ màu hay kim-tuyến, triều nhà Minh đã có dùng. Theo chế-độ nhà Thanh miếng bổ-phục của quan văn thêu chim, của quan võ thêu thú: nhất phẩm, của quan văn thêu chim hạc, của quan võ thêu con kỳ-lân, nhị phẩm của quan văn thêu chim cẩm-kê, của quan võ thêu con sư-tử, tam phẩm, của quan văn thêu chim công, của quan võ thêu con beo, tứ phẩm, của quan văn thêu chim nhạn, của quan võ thêu con cọp, ngũ phẩm, của quan văn thêu chim bạch-hàn (giống như chim cẩm-kê), của quan võ thêu con gấu, lục phẩm, của quan văn thêu chim cò, của quan võ thêu con cọp con, thất phẩm, của quan văn thêu chim khê-sắc (chim uyên-ương lông tía), của quan võ thêu con tê giác, bát phẩm, của quan văn thêu chim cút, của quan võ thêu con tê-giác, cửu phẩm của quan văn thêu chim sẻ, của quan võ thêu con hải-mã.

Ngoài phép nầy ra, bổ-phục của qua ngự-sử, quan án-sát-sứ, quan đề-pháp-sứ đều thêu con giải-trãi (một loài thú đời xưa có một sừng, có linh-tính biết được kẻ gian dối mà đến húc cụng, được triều-đình nuôi để xử kiện).

[312]Phong-hiến, chức quan xem xét phong-độ và kỷ-luật của quan-lại, tức là chức ngự-sử, án-sát-sứ và đề-pháp-sứ.

[313]Nha môn, cửa quan; quan thự.

[314]Bạch-trạch, loại thần thú. Vua Hiên-Viên đi chơi ở núi Hằng-sơn được con thần thú bạch-trạch có thể nói tình-hình muôn sự.

[315]Bi, một loại gấu rất to sinh-sản ở miền bắc có thể sống đến 50 tuổi.

[316]Hoa dạng, các thứ bông hoa.

[317]Thạch, đồ để đong lường, 100 thăng là 10 đấu là 1 thạch.

[318]Ấm-tự, việc phong quan chức cho con quan có công.

[319]Tôn hiệu, dâng hiệu-xưng suy-tôn bậc đế-vương hay hoàng-hậu. Như Cao-tổ đã dẹp yên thiên-hạ được quần-thần suy-tôn làm Hán Thái-tổ, công đức tối cao được quần-thần suy-tôn làm Cao Hoàng-đế.

[320]Xuất thân, bước vào đường làm quan.

[321]Minh-kinh, thông hiểu kinh nghĩa. Khoa Minh-kinh chọn lấy người thông hiểu kinh nghĩa.

[322]Chế-khoa, những khoa thi đặc-biệt ngoài những khoa thi có định-kỳ.

[323]Cập-đệ, thi đỗ chớ chưa được ghi tên vào sổ làm quan.

[324]Quận-truyền, (truyền, văn-tự), chức thư-ký ở quận.

[325]Bình-thiên, thiên bổ bằng với chức đương làm.

[326]Bổ thụ, trao chức mà bổ làm quan.

[327]Điện-thí, cuộc thi do vua đích thân chủ-thí ở điện-đình. Đời nhà Thanh, những vị thi dỗ Hội-thí được vào Điện-thí, vua đích thân ra chủ-thí ở điện-đình. Những vị xuất thân được gọi Tiến-sĩ: nhất giáp được cho tiến-sĩ cập-đệ, nhị giáp được cho Tiến-sĩ xuất thân, tam giáp được cho đồng tiến-sĩ xuất thân.

[328]Truất lạc, đánh rớt, đánh hỏng.

[329]Di phong, dán bít tên và biên số-hiệu lên quyển vài thi của sĩ-tử nộp.

[330]Đằng-lục, sao chép bài thi của sĩ-tử để các khảo-quan không nhận được tuồng chữ của sĩ-tử thân-thuộc.

[331]Quải-bảng, treo bảng những sĩ-tử trúng tuyển trong khoa thi.

[332]Tuần bổ quan, quan đi tuần trong trường thi để bắt việc gian lận.

[333]Vũ-hậu, người ở Văn-thủy đời nhà Đường, vốn là tài-nhân của vua Đường Thái-tông. Khi Đường Thái-tông băng, họ Vũ ra làm ni-cô. Khi vua Đường Cao-tông lên ngôi, họ Vũ được đưa vào cung và được lập làm Hoàng-hậu. Khi vua Cao-tông băng, vua Trung-tông lên ngôi, Vũ-hậu lâm triều thính-chính, phế vua Trung-tông xuống, lập vua Duệ-tông lên, rồi lại phế vua Duệ-tông và tự lập làm Hoàng-đế, đổi quốc-hiện là Chu. Vũ-hậu là người dâm-đãng tàn bạo làm ô-uế cung vi, việc triều-chính ngày càng đổ nát.

Về sau Vũ-hậu lâm bịnh, bọn Tể-tướng Trong-Giản-Chi đưa vua Trung-tông trở lại ngôi báu, ép Vũ-hậu rời quyền chính và đưa Vũ-hậu an-trí ở Thương-dương cung, dâng tôn-hiệu là Tắc-thiên Đại-thánh Hoàng-đế. Vũ-hậu mất, tên thụy là Tắc-thiên Hoàng-hậu.

[334]Khúc vĩ cựu văn, (nguyên bổn chép sai ra Khúc chư cựu văn), tên sách, có 10 quyển do Chu-Biền đời Tống soạn ra.

Chu-Biền đi sứ nước Kim. Trong thời-gian bị giữ ở nước ấy, Biên soạn sách Khúc vĩ cựu văn, thuật lại sự tích vua tôi nhà Bắc-Tống để làm sáng tỏ lý do trị hay loạn của một thời, thật có ích cho khoa Sử-học. Sách nầy lại có thi-thoại văn-bình và khảo-chứng.

[335]Xuất liêm, ra ngoài rèm. Chấm những quyển thi xong, các quan khảo-thí mới được ra ngoài.

[336]Xuất đề, ra đề để cử-tử làm văn.

[337]Chế-nghệ, cũng nói là chế-nghĩa tức là văn bát cổ (tám vế), y theo kinh mà lập nghĩa.

[338]Sách-vấn, trong thời khoa-cử, lấy chính-sách trị an mà hỏi cử-tử.

[339]Khúc-giang, tên con sông có phong-cảnh đẹp.

[340]Danh hoa, thứ hoa nổi tiếng.

[341]Tô Lão-tuyền, Tô-Tuân, tự là Minh-doãn, hiệu là Lão tuyền, người ở My-sơn đời nhà Tống, năm 27 tuổi mới phẫn chí học tập, thông hiểu lục kinh và thuyết của Chư-tử bách-gia, lời văn như cổ phong mà có khí-lực lại giản-dị chất-thực, được tiến-cử lên triều-đình và được trao chức Hiệu-thư-lang, cùng với Diêu-Tịch soạn sách Thái thường nhân cách lễ được một trăm quyển, viết vừa xong thì chết.

[342]Thích-cát, cởi áo vải. Các Tiến-sĩ mới đỗ, đến nhà Thái-học, cởi áo vải thường mặc ra để mặc áo quan vào.

[343]Lưỡng-chế, Tòng-chế và Tiết-chế, hai chức quan to ở triều nhà Tống.

[344]Đông hiên bút lục, tên sách có cả thảy 15 quyển, do Ngụy-Thái đời nhà Tống soạn ra, lập luận nhiều điều không thể tin, chỉ có những bài chép việc lặt-vặt là có thể dùng được.

[345]Hoàng-giáp, người đỗ giáp-khoa cập đệ, tên được biên ở cuối quyển viết trên giấy vàng, cho nên gọi là Hoàng-giáp.

[346]Chích-ngôn, tức sách Đường Chích-ngôn có 15 quyển, do Vương-Định-Bảo đời Ngũ-đại soạn chia làm 103 môn, thuật chế-độ thi-cử đời Đường và những việc lặt-vặt đều là những điều mà sử-ký chưa nói đến.

[347]Hạnh-viên, theo sách Du thành nam ký của Trương-Lễ, Hạnh-viên và phía nam chùa Từ-ân giáp nhau. Các tân Tiến-sĩ đời Đường thường dạo chơi và dự yến ở đấy, nền cũ hiện tại ở phía tây Khúc-giang, huyện Trường-an, tỉnh Thiễm-Tây.

[348]Phụng-trì tức Phụng-hoàng trì là Trung-thư-sảnh.

[349]Đông quán tấu ký, tên sách có 3 quyển, do Bùi-Đình-Dụ đời Đường soạn ra dâng lên vua. Sách chép những thời-sự triều vua Tuyên-tông, đáng làm tài-liệu cho chính-sử.

[350] Tra Từ-hải, Từ-nguyên và Trung-văn đại từ điển đều không thấy chép có sách Thính vũ khởi đàm.

[351]Giám-sinh, học-sinh ở Quốc-tử-giám.

[352]Đao bút lại (đao, dao dùng để gọt những chữ khắc sai trên thẻ tre; bút, cây viết; lại, thuộc-lại, chức việc dưới quyền sai khiến của quan), chức thư-lại, thư-ký trong quan nha.

[353]Tự ban, chức quan thuộc Hồng-lô-tự.

[354]Lưu-phẩm (lưu, ngành phái; phẩm, đẳng cấp), bậc cao thấp của nhân-vật.

[355]Chế, lời của vua truyền xuống hỏi kẻ bề-tôi.

[356]Cáo, lời của vua bảo rõ cho thần-dân được biết.

[357]Chiếu, mệnh-lệnh của vua.

[358]Biểu, lời thần-dân dâng lên vua.

[359]Lộ-bố, chiếu-thư văn-kiện không có phong kín (để bày lộ ra ngoài).

[360]Hịch, bài văn bố-cáo để hiểu dụ quần-chúng, thường là kể tội một nhân-vật nào đó để kích-động sự thù ghét của quần-chúng.

[361]Châm, bài văn ngụ ý răn ngừa.

[362]Minh, bài văn khắc ở chuông vạc bia đá thường để khen tặng hay răn ngừa.

[363], bài văn nói về việc gì, ghi chép một sự gì.

[364]Tán, bài văn ngụ ý khen chê.

[365]Tụng, bài văn khen tặng công-đức của một nhân-vật nào đó.

[366]Tự, bài văn trần thuật ý thú của người trứ-tác.

[367]Lục-điển, quan Tể-tướng đặt ra lục-điển để giúp vua trị nước: 1) Trị-điển. 2) Lễ-điển. 3) Giáo-điển. 4) Chính-điển. 5) Hình-điển. 6) Sự-điển.

[368]Đóa, sách chép sai chữ đóa 垜ra Image.

[369] Nguyên văn chép sai. Sách Đường-thư phần Tuyển-cử chí chép: Kinh tam thốn bán (đường kính 3 tấc rưỡi).

[370] Nguyên văn chép sai. Sách Đường-thư phần Tuyển-cử chí chép: Vô quá nhất xích (Không quá 1 thước).

[371]Bùi-Hành-Kiệm, người ở đất Văn-hỉ đời Đường, tự là Thủ-ước, thông binh-pháp, giỏi chữ thảo chữ lệ, trong niên-hiệu Trinh-quán thi đỗ khoa Minh-kinh, biết thuật âm dương lịch số, làm đại tướng đi dẹp giặc.

[372]Trường danh bảng, Bùi-Hạnh-Kiệm đời Đường nhiệm chức Thị-lang bộ Lại, để ngăn phòng việc thuộc lại lấy ý riêng quyết-định việc thuyên-tuyển quan-viên, kẻ trước người sau, mới ghi tên họ những người sắp thuyên-bổ theo thứ-tự vào bảng, gọi đó là Trường danh bảng.

[373]Tống-Bạch, người ở đất Đại-danh đời Tống, tự là Thái-tố, học-vấn rộng, thi đỗ Tiến-sĩ làm Thượng-thư bộ Lại.

[374]Thuyên hành là cái cần dùng để cân vật hai bên cho đồng nhau, chuyển ra nghĩa cân nhắc nhân-tài mà tuyển-dụng.

[375]Niêm cưu, bắt thăm. Viết vào tờ giấy rồi vò lại để chung, ai bắt được giấy nào thì chịu sự may rủi ấy.

[376]Xiết tiêm, rút thẻ. Trong niên-hiệu Vạn-lịch, Phi-Dương làm chức Lại bộ Thượng-thư tuyển dụng nhiều ngoại-quan, vì nhiều người đến gởi-gắm nài xin, bèn lập ra phép rút thẻ, hên xui chịu lấy.

[377]Tùng-phẩm, Tùng là đối với chính. Phẩm là cửu phẩm. Nói tùng nhất phẩm đến tùng cửu phẩm.

[378]Văn-xương, tên sao. Sao Văn-xương có sáu ngôi như hình bán-nguyệt, nhà tinh-mệnh cho rằng sao Văn-xương là sao lành, chủ đại quý.

[379]Chiếu tức chiếu thư, văn-thư của hoàng-đế bố-cáo cho thần-dân hay biết.

[380]Chỉ tức thánh-chỉ, thần dân gọi mệnh-lệnh của vua là thánh-chỉ.

[381]Chế, lời nói của thiên-tử.

[382]Sắc, văn-thư của Hoàng-đế dụ cáo cho thần-dân được rõ, và chiếu-lịnh của Hoàng-đế ban tước vị cho kẻ bề-tôi.

[383]Tỷ thư, văn-thư có đóng dấu ngọc-tỷ của vua.

[384]Sách-mệnh, mệnh-lệnh của Hoàng-đế sách phong cho kẻ bề-tôi.

[385]Lục-Du, người đời Tống ở đất Sơn-âm, tự là Vụ-quan, biệt-hiệu là Phong-ông, dưới đời Tống Hiếu-tông, thi đỗ Tiến-sĩ xuất thân, làm chức Biên-tu quan ở Khu-mật-viện, tài khí hơn người, giỏi về thơ.

[386]Bả ma, nhắc nho-nhỏ. Trong triều nhà Đường, quan đọc chiếu thường là người không thông chữ nghĩa, đọc sai chấm phết. Vì thế có một người nhắc nho nhỏ khiến việc đọc được suôn-sẻ.

[387]Trọng-Trường-Tống, người đời Đông-Hán, ở đất Cao-bình, tự là Công-lý, được cử làm Thượng-thư lang, lúc bé ham học, tính cương-trực dám nói.

[388]Chữ 倚nên đọc ky là khác nhau mới xuôi lý ở đây, còn nếu đọc là dựa vào nhau thì không xuôi lý ở đây.

[389]Phụ-bậc, Tể-tướng.

[390]Tam-công: ba vị quan to nhất đời Chu: Thái-sư, Thái-phó và Thái-bảo.

[391]Lục-khanh, sáu chức quan đời nhà Chu: 1) Trủng-tể giữ việc trị nước, thống-lãnh các quan, điều-hòa bốn biển. 2) Tư-đồ giữ việc giáo-dục trong nước, phô bày ngũ-điển, làm yên trăm họ. 3) Tông-bá giữ lễ-nghi trong nước, trị thần và người, hòa trên và dưới. 4) Tư-mã giữ quốc-chính, thống-lãnh 6 đạo quân, dẹp yên trong nước. 5) Tư-khấu giữ điều cấm của quốc-gia, tra xét việc gian ác, xử tội kẻ bạo loạn. 6) Tư-không giữ đất nước, làm cho bốn giai-cấp nhân-dân ở yên và phát-triển địa lợi theo mùa.

[392]Trủng-tể, chức cầm đầu các quan.

[393]Khanh-sĩ, tức quan Lục-khanh (đã chú ở trước).

[394]Lục bộ, sáu bộ của triều-đình: 1) Bộ Lại. 2) Bộ Hình. 3) Bộ Lễ. 4) Bộ Binh. 5) Bộ Hộ. 6) Bộ Công.

[395]Trung-thư môn-hạ, tên quan thự. Đời Đường trong niên-hiệu Khai-nguyên thứ 11, Trương-Thuyết làm Tể-tướng đổi Chính-sự-đường ra Trung-thư môn-hạ, chia ra làm 5 phòng: 1) Lại-phòng. 2) Khu-mật-phòng. 3) Binh-phòng. 4) Hộ-phòng. 5) Hình-lễ-phòng.

[396]Từ-thần, quan văn-học đi theo vua.

[397]Các-lão, quan Tể-phụ làm việc ở Nội-các gọi là Các-lão.

[398]Cương-lĩnh (cương, dây to trong mặt lưới; lĩnh, cổ áo), phần cốt yếu, phần chủ não.

[399]Khu-mật, chủ-yếu và bí-mật.

[400]Viêm-Hán, tức nhà Hán, vì nhà Hán lấy hỏa đức làm vua.

[401]Chư-hầu, đời nhà Hán phong bậc vương trong tông thất tước hầu, gọi là chư-hầu.

[402]Danh-hiệu hầu, tước hầu chỉ có danh-hiệu để gọi chớ không có thái-ấp để hưởng thuế má.

[403]Ngũ-đại phu, tước vị do nhà Tần đặt ra để thưởng kẻ bề-tôi có công.

[404]Liệt hầu, đời nhà Hán phong kẻ bề-tôi khác họ có công làm liệt-hầu.

[405]Quan-nội-hầu, tước hầu chỉ có danh-hiệu chớ không có thái-ấp, ở trong kinh-kỳ (ở trong cửa quan-ải) được gọi là Quan-nội-hầu.

[406]Khánh-thưởng (khánh cũng là thưởng), ban thưởng cho kẻ bề-tôi.

[407] Ẩm chi, quân-đội trở về uống rượu ở nhà tông-miếu gọi là ẩm chi.

[408] Truyện, giải rõ ý nghĩa trong kinh.

[409] Phương nhạc, bốn dãy núi ở bốn phương. Đời xưa thiên-tử đi tuần thú đến phương nào thì triều hội chư-hầu ở dãy núi phương ấy mà thăng-thưởng hay truất-giáng.

[410] Hạn-mã (hạn, mồ-hôi; , ngựa), lúc đánh trận, ngựa chạy nhanh mà đổ mồ-hôi. Nhân đó gọi chiến-công là hạn-mã.

[411] Trụ-tử, con trưởng của từ thiên-tử đến cửa quan đại-phu.

[412] Tuyển xa, xe binh thứ tốt. Đúng là Tuyển xa, nhưng nguyên-bản chép sai ra Soạn xa.

[413] Biểu mã, lễ tế của quân-đội tế người tạo ra binh-pháp, tức thần Xi-Vưu hay Hoàng-đế

[414] Bất dịch, không thay đổi. Nói lời nói rất đúng lý không thể sửa đổi gì được.

[415] Bài tráp. Bài và tráp đều là loại công văn đời xưa.

[416] Sách chép sai Đường Minh-hoàng ra Đường Minh-tông. Đường Minh-hoàng tức Đường Huyền-tông (713 - 755).

[417] Văn hiến thông-khảo, tên sách, gồm có 348 quyển do Mã-Đoan-Lâm đời Nguyên soạn ra.

[418] Tô-dung-điệu, chế-độ thuế-má sưu-dịch đời Đường. Con trai được giao cho một khoảnh ruộng (150 mẫu), mỗi năm phải nộp 2 hộc thóc, ba hộc nếp, gọi đó là ; mỗi năm phải nộp 2 tấm lụa quyến, 2 trượng lăng-the, 1/5 số vải, sợi 3 lượng, gai 3 cân, vùng nào không có trồng dâu nuôi tằm thì phải nộp 14 lạng bạc, gọi đó là điệu; đi làm xâu mỗi năm 20 ngày, tháng nhuận thêm hai ngày, người nào không đi làm xâu thì mỗi ngày nộp 3 thước lụa quyến, gọi đó là dung.

[419] Thường-điệu, mức thuế về vải lụa đã định sẵn.

[420] Thường nhật, số ngày làm xâu đã định sẵn cho mọi người dân.

[421] Nha-tiền người lực-dịch trong quan-nha.

[422] Lý-chính, tức là lý-trưởng.

[423] Hương thư-thủ, chức thư-lại ở trong làng.

[424] Kỳ-trưởng, người già cả trưởng-thượng.

[425] Cung-thủ, người bắn cung giỏi.

[426] Tráng-đinh, trai trẻ mạnh khỏe.

[427] Tạo-lệ, những người hèn-hạ để sai khiến làm việc.

[428] Du-thủ, kẻ rong chơi biếng-nhác không chịu làm việc

[429] Phù-ông, a) Người không rõ tên họ vào thời Đông-Hán thường đi câu ở sông Phù, cho nên hiệu là Phù-ông, thường đì ăn xin, thấy ai có bịnh tật thì dùng thuật châm cứu mà chữa trị dứt ngay, có truyền lại sách Châm kinh chẩn mạch pháp.

b) Hoàng-Đình-Kiên đời Tống bị biếm làm Tư-mã Phù-châu, tự hiệu là Phù-ông.

[430] Tư thị, chức quan coi việc chính-trị hình-pháp giáo-dục ở thị-thành.

[431] Chất-nhân, chức quan giữ việc bình-định vật-giá.

[432] Tư-dân, chức quan biên-chép số dân trong nước.

[433] Sinh xỉ, mọc răng. Con trai 8 tuổi mọc răng, con gái 7 tuổi mọc răng.

[434] Tư-khấu, chức quan coi việc hình-pháp đời nhà Chu.

[435] Khoảnh, 100 mẫu ruộng là 1 khoảnh.

[436] Mẫu, 60 trượng vuông là 1 mẫu.

[437] Văn Cảnh, vua Hán Văn-đế và Hán Cảnh-đế. Vua Văn-đế nhân-từ cung kính cần-kiệm. Vua Cảnh-đế là con vua Văn-đế cũng noi theo đức độ của cha mà trị vì.

[438] Ủy, tức là ủy-lại, chức-viên coi giữ việc tích-trữ ở kho lẫm.

[439] Hậu-quán, lầu để trông ra xa.

[440] Triều-sính, Chư-hầu đi chầu Thiên-tử, kẻ bề-tôi đi chầu vua gọi là triều. Chư-hầu sai quan đại-phu đi thăm viếng chư-hầu gọi là sính.

[441] Tam đại, ba đời: Hạ, Thương, Chu.

[442] Lâm chung, tên một âm trong 12 luật. Có lẽ lâm chung ở đây là cái chuông có tiếng kêu đúng với âm lâm-chung.

[443] Chiến-quốc-sách, tên sách, gọi tắt là Quốc-sách và cũng gọi là Đoản-trường-thư do Lưu-Hướng đời Hán sưu-tập thời-sự chiến-quốc của các nước để ghi chép.

[444] Tuy khấu ký lược, tên sách, có 12 quyển, do Ngô-Vĩ-Nghiệp đời nhà Thanh soạn, chép những giặc cướp cuối đời Minh, phân làm 12 thiên, ở cuối mỗi thiên có thêm phần bình-luận. Việc chép gần đúng sự thật. Thiên cuối cùng, Ngu-Nguyên-Trầm, chép những tai-biến cuối đời Minh.

[445] Hiến vương, tức Trương-Hiếu-Trung, người đời Minh, nhiều mưu trí, mặt vàng, hàm cọp, được người đời gọi là Hoàng-hổ (cọp vàng). Trong niên-hiệu Sùng-trinh làm giặc cướp, thường bị Tả-Lương-Ngọc đánh bại, đầu hàng rồi lại phản, kết hợp với Lý-Tự-Thành, cướp phá những vùng đất Tấn, Thiểm và Dự, đi đến đâu thì tàn sát thê-thảm, về sau chiếm cứ Vũ-xương vây hãm Thành- đô, tiếm xưng là Đại-Tây Quốc-vương, cuối cũng gặp quân nhà Thanh, trúng tên ngã ngựa bị bắt và bị giết.

[446] Sấm-vương, tức Lý-Tự-Thành, người đời Minh trong niên-hiệu Sùng-trinh làm giặc cướp, tự xưng là Sấm-vương, cướp phá những vùng đất: Tấn, Dự, Hồ, Quảng, Ba, Thục, đốt phá tàn-sát rất thê-thảm, xưng Vương, tiếm hiệu là Đại-thuận, đưa quân tiến về phía đông, vây hãm kinh-đô, vua Trang-liệt-đế tử trận. Về sau Ngô-Tam-Quế dẫn quân Thanh vào, Lý-Tự-Thành chạy trốn về phía tây, bị nhân-dân bắt ở núi Cửu-cung và tự-sát.

[447] Nguyên văn là danh-đô, tức là những đô thị nổi tiếng như Thành-đô và Kinh-đo bị Trương-Hiến-Trung và Lý-Tự-Thành vây hãm.

[448] Mạnh-Bôn, người nước Vệ đời Chiến-quốc, có sức mạnh vô song, có thể nhổ sừng con bò còn sống.

[449] Mặc-Địch, người nước Lỗ đời Chiến-quốc, chu du các nước, làm quan đại-phu cho nước Tống, xướng lên học-thuyết kiêm-ái (thương yêu tất cả mọi người), dạy nhiều học trò, lập thành một học-phái nhà học Mặc, được người đời tôn-sùng gọi là Mặc-tử.

[450] Trác tỵ 斲鼻 (đẽo mũi), thiên Từ vô quỷ trong sách Trang-Tử chép: Có người đất Sính lấy bùn bôi lên chót mũi một lớp mỏng như cánh ruồi rồi cho người thợ Tượng-Thạch đẽo. Tượng-Thạch múa cây búa thành gió đẽo sạch lớp bùn mà không phạm đến chót mũi.

[451] Ngu hành chí, tức sách Quế hải ngu hành chí có một quyển do Phạm-Thành-Đại đời Tống soạn ra.

[452] Trường tùng, tùng quân dài hạn, suốt đời.

[453] Bạch-đinh, thường dân không có quan chức.

[454] Khách hộ, nhà từ nơi khác dọn đến ở.

[455] Trung-hạ, Trung-quốc, nước Tàu.

[456] Sách phủ nguyên quy, tên sách, có 1.000 quyển, do nhóm Vương-Khâm-Nhược và Dương-Ức phụng sắc biên soạn, chép những sự tích của vua tôi trải qua các đời chia làm 31 bộ, 1.104 môn.

[457] Thành-đinh tức thành-niên, con trai đủ 20 tuổi gọi là thành-đinh hay thành-niên.

[458] Chỗ nầy sách chép sai. - Tháng 8 năm Nhâm-tý vua Đường Duệ-tông truyền ngôi cho Thái-tử Long-cơ, tức Đường Huyền-tông (chớ không phải Đường Duệ-tông).

[459] Sách-ứng, quân ở bên tả ở bên hữu hay ở tiền ở hậu hô ứng nhau để tác-chiến.

[460] Thiên hộ, chức quan ở vệ sở cai-quản 1.000 binh.

[461] Tứ giáo, bốn điều dạy bảo của Khổng-Tử: Văn, hạnh, trung, tín. - Thiên Thuật-nhi trong sách Luận-ngữ có câu: “Tử dĩ tứ giáo” . Nghĩa là: Khổng-Tử lấy bốn điều dạy người: Văn, hạnh, trung, tín.

[462] Truyện, phần giải rõ ý-nghĩa trong kinh.

[463] Minh, bài văn thường được khắc trên vạc trên mâm hay trên bia đá để tỏ ý khen ngợi hay giới răn.

[464] Tạo mệnh, chuyển họa thành phúc. - Vua Tần sai sứ sang nước Sở. Vua Sở bảo sứ giả:“Ta sẽ giết ngươi để bôi chuông” . - Sứ giả đáp:“Tôi chết mà không về nước được thì vua tôi biết, lo chỉnh-bị quân-đội sang đánh nước Sở” . Vua Sở bèn tha sứ-giả cho trở về. Như thế gọi là tạo-mệnh. - Sách chép sai tạo mệnh ra đạt mệnh.

[465] Thệ, tức thệ sư, khi xuất chinh, vua hay tướng-lãnh tụ họp quân-sĩ lại mà răn dạy.

[466] Lũy, bài văn kể rõ đức hạnh của người chết.

[467] Câu nầy sách chép sai ra: Tế tự năng chúc.

[468] Đức-âm, danh tiếng tốt.

[469] Lục-nghệ, sáu nghề: Lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngư (cầm cương đánh xe), thư (viết chữ), số (tính toán).

[470] Trang-Tử, tên sách, do Trang-Chu soạn có nhiều tư-tưởng phóng khoáng siêu-việt cao xa gần giống như của Lão-Tử.

[471] Hoài-Nam-Tử, tên sách, do Hoài-Nam-Vương đời Hán là Lưu-An soạn, có tất cả 21 quyển.

[472] Sử-ký, tên sách, có 130 quyển, do Tư-Mã-Thiên tiếp-tục công việc của cha mà soạn ra, chép từ đời Hoàng-đế đến đời Hán Quang-Vũ.

[473] Tả-truyện, tên sách, cũng gọi là Tả-thị Xuân-thu do Tả-Khâu-Minh đời nhà Chu soạn ra, là một bộ sử rất có giá-trị.

[474] Sở-từ, tên sách, do Lưu-Hướng đời nhà Hán (hoặc người đời sau) sưu-tập những bài phú của Khuất-Nguyên, Tống-Ngọc, Cảnh-Sai có phụ thêm những tác phẩm của Giả-Nghị, Hoài-Nam, Tiểu-Sơn, Đông-Phương-Sóc, Nghiêm-Kỵ, Vương-Bao, và bài Cửu-thán của Lưu-Hướng bài Cửu-tư của Vương-Dật.

[475] Tử-thư, sách của Chư-tử bách-gia. Sách mà tác-giả lập thuyết tự-thành một phái riêng gọi tử-thư, như Lão-tử, Trang-Tử, Tuân-Tử, Hoài-Nam-Tử...

[476] Quản-Trọng, tự là Di-ngô, làm tướng-quốc nước Tề đời Đông-Chu, làm hùng-cường nước Tề và giành ngôi bá-chủ cho Tề Hoàn-công.

[477] Hàn-Phi, công-tử nước Hàn đời Chiến-quốc viết nhiều sách: Cô-phẫn, Ngũ-đỗ, Nội ngoại trừ thuyết, Thuyết lâm, Thuyết nan.

[478] Tuân-Huống, người nước Triệu đời nhà Chu được người bấy giờ tôn xưng là Tuân-Khanh, tuổi đã 50 còn đi học ở nước Tề, thường xướng lên thuyết tính ác trái ngược với tính thiện của Nho-giáo.

[479] Khuất-Nguyên, (343-290 trước Thiên-Chúa). Khuất-Đột-Nguyên, chính tên là Bình, hiệu là Linh-quán, làm chức Tam-lư đại-phu đời vua Sở Hoài-vương thời Chiến-quốc. Khi Vua Sở đem quân đi đánh nước Tần, ông ngậm gươm treo mình can vua mà không được. Vua Sở bại trận và chết ở đất Tần. Vua Sở Tương-vương lên ngôi, nghe lời gièm siễm đày ông ra Giang-nam, ông thất chí trầm mình ở sông Mịch-la mà chết vào ngày mùng 5 tháng 5.

Ông là người có tư-tưởng cao thượng, trong sạch, thiết tha với nước, đau khổ với đời. Ông đã mở một kỷ-nguyên mới cho văn-thể thi-ca, vì từ lúc bấy giờ trở về trước, thi-ca Trung-Quốc chỉ là ca-dao tục-ngữ, từ đời Ông trở về sau mới có lối thơ Sở-từ. Lối thơ thất-ngôn bắt nguồn từ lối thơ của Ông ở trong các tập Ly-tao, Cửu-chương, Thiên-vấn của Ông.

[480] Quốc ngữ, tên sách, gồm có 21 quyển, do Tả-Khâu-Minh đời nhà Chu soạn ra.

[481] Thành-chu, tên đất ngày xưa, thành xưa ngày nay ở phía đông-bắc huyện Lạc-dương tỉnh Hà-nam.

[482] Nhạc-Nghị, người nước Yên thời Chiên-quốc, được vua Yên Chiêu-vương phong làm Thượng-tướng-quân, đem binh năm nước Triệu, Sở, Hàn, Ngụy, Yên đánh nước Tề, phá được quân Tề, đánh lấy hơn 70 thành của Tề, được phong Xương-quốc-quân.

[483] Tô Đông-pha (1036-1101), tên Thức, tự là Tử-chiêm, người ở đất My-sơn đời Tống, con của Tô-Tuân, anh của Tô-Triệt, đỗ Tiến-sĩ năm Gia-hựu. Khi Vương-An-Thạch thi-hành tân-pháp, Thức và Triệt dâng thư lên vua Tống Thần-tông trần bình những điều bất tiện. Do đó Tô-Thức bị đổi đi nhiệm-chức ở Hàng-châu rồi dời sang Hồ-châu, Hoàng-châu, Huệ-châu, Quỳnh-châu. Lúc ở Hoàng-châu, Tô-Thức làm cái nhà ở Đông-pha, nhân đó tự xưng là Đông-pha cư-sĩ. Khi vua Tống Triết-tông lên ngôi, Ông được triệu về, làm quan đến chức Đoan-minh-điện Thị-độc học-sĩ. Lối văn của Ông mạnh-mẽ súc-tích trôi chảy bình-dị, thơ của Ông thanh-nhã phóng-dật. Ông viết chữ rất đẹp và vẽ tranh rất khéo. Ông có soạn những sách: Dịch-thư truyện, Luận ngữ thuyết, Cừu trì bút, Đông-pha chí lâm, Đông-pha toàn tập, Đông-pha từ.

[484] Thành tụng, đọc thuộc lòng.

[485] Đại nguyên tức đại bổn, nền-tảng chủ-yếu của sự-vật.

[486] Hoàn-Ôn, người ở đất Long-cang đời Tấn, tự là Nguyên-tử, lúc mới sinh ra, Ôn-Kiều nghe tiếng khóc bảo là bậc anh-tài, cha mẹ nhân đó đặt tên là Ôn. Trong thời vua Nguyên-đế, Hoàn-Ôn cưới Nam-Khang Trưởng công-chúa, được phong Phò-mã Đô-úy. Trong thời vua Minh-đế Hoàn-Ôn đem quân đi đánh Thục, Phù-kiên và Diêu-tương, làm quan đến chức Đại Tư-mã, được phong Nam Quận-công, được ban cửu-tích, uy-thế hống-hách, lần lần có chí phản-nghịch, thường than rằng: “Làm trai không để tiếng thơm cho trăm đời thì cũng nên để tiếng xấu lại muôn năm” . Về sau đánh nước Yên bị thua, trở về, phế Đế-Đội, lập Giản Văn-đế, âm mưu soán ngôi, chưa thành-công thì mất.

[487] Bát-trận-đồ, Gia-Cát-Lượng lấy đá bày ra Bát-trận-đồ, di tích còn ở tỉnh Thiểm-tây và tỉnh Tứ-xuyên.

[488] Thường-sơn xà, con rắn núi Thường-sơn ở Cối-kê, hễ mình động nó ở đầu thì đuôi nó phóng tới, mình động nó ở đuôi thì đầu nó phóng tới, mình động nó ở giữa bụng thì cả đầu và đuôi nó cùng phóng tới.

[489] Văn-Tử, học-trò của Lão-Tử, đồng thời với Khổng-Tử. Sách Văn-Tử có hai quyển.

[490] Dị-đồng, chỗ khác nhau và chỗ giống nhau.

[491] Nhan-Chi-Thôi, người ở đất Lâm-nghi thời Nam-Bắc triều, tự là Giới, lúc đầu làm quan cho nhà Lương làm đến chức Tán-thị-lang, sau chạy sang Tề làm chức Trung-thư xá-nhân, Hoàng-môn thị-lang, Bình-nguyên Thái-thú, giữ Hà-tân. Nước Tề mất, vào nhà Chu là Ngự-sử thượng-sĩ. Ông là người đọc nhiều sách và làm nhiều sách. Sách Nhan-thị gia-huấn là do Ông soạn ra.

[492] “Từ đạt nhi dĩ hĩ. Đạt giả bình dị chi vị dã” . Nghĩa là: Lời nói cốt được bình-dị mà thôi. Chữ đạt là nói bình-dị.

[493] Đổng-Trọng-Thư, người ở đất Quảng-xuyên đời Hán, lúc trẻ chuyên đọc Xuân-thu, làm bác-sĩ trong thời vua Hán Cảnh-đế, rủ màn dạy học, các học-sĩ đều tôn Ông làm thầy, được vua Hán Vũ-đế tôn trọng cho là Giang-đô-tướng. Ông mắc tội bị phế làm Trung-đại-phu, nhân việc Ông nói điều tai dị, Ông bị hạ ngục và lên án tử hình, nhưng rồi Ông được tha.

Cái học của Đổng-Trọng-Thư có căn-bản. Ông có viết những sách Xuân-thu phiền-lộ.

[494] Lưu-Hướng, cháu bốn đời của Sở Nguyên-vương Giao, người đời Hán, tự Tử-chính, vốn tên là Cánh-sinh, là người thông-đạt, hay viết văn, giản-dị không có uy-nghi, ban ngày đọc kinh truyện, ban đêm xem tinh-tú, thường thức đến sáng. Ông làm Gián-đại-phu trong triều vua Tuyên-đế, thăng chức Cấp-sự-trung, mắc tội và được miễn, lại được trọng-dụng làm chức Trung-lang, đổi tên là Hướng, thăng chức Quang-lộc đại-phu, trong thời vua Nguyên-đế, là Trung-lũy hiệu-úy. Ông có soạn những sách: Hồng phạm ngũ hành truyện, Liệt nữ truyện, Liệt tiên truyện, Tân tự, Thuyết-uyển.

[495] Tân-tự, tên sách, có 10 quyển, do Lưu-Hướng đời Hán soạn ra, ghi chép những sự việc đời Xuân-thu, Chiến-quốc, Tần, Hán, đại để trích những truyện ký của Bách-gia mà xếp theo từng loại, với chủ ý chính kỷ-cương, theo đường giáo-hóa, phân-biệt tà chính, bỏ dị-đoan.

[496] Thuyết-uyển, tên sách, có 20 quyển, do Lưu-Hướng đời Hán soạn ra, chép những chuyện lặt-vặt, trích những sách khác mà chép lại. Những sách xưa thất-lạc nhờ đấy mà được lưu-tồn.

[497] Điển-luận, sách do Ngụy Văn-đế Tào-Phi soạn ra. Sách nầy đã thất-lạc từ lâu.

[498] Minh, thể văn thường được khắc ở vạc, ở mâm, ở bia đá ngụ ý ca-tụng hay giới-răn.

[499] Lũy, bài văn thuật lại đức hạnh của người chết lúc sinh thời.

[500] Văn tâm diêu long, tên sách, có 10 quyển, do Lưu-Hiệp nhà Lương thời Nam-triều soạn ra, phiếm-luận nguyên-lý, nguyên-tắc, chuộng tự-nhiên, tính-tình, thanh-luật, luận biểu ngẫu...

[501] Lục-kinh, sáu bộ kinh: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc, Xuân-thu.

[502] Tào-Phi, tức Ngụy Văn-đế, con của Ngụy Vũ-đế Tào-Tháo.

[503] Tạ-Linh-Vận, người ở đất Dương-hạ nhà Tống thời Nam-triều, học rộng, viết chữ và vẽ rất khéo, tung-hoành vượt bậc về thi-văn, một mình một cõi ở Giang-tả, tính xa-xỉ hay sửa-đổi lề-lối xưa, lúc đầu làm Thái-thú Vĩnh-gia, mặc tình vui thú núi sông, không lo việc chính-trị, bị đuổi về, ở ẩn ở Đông-sơn vùng Cối-kê, làm bài Sơn cư phú, lại được làm Nội-sử ở Lâm-xuyên, cũng phóng lãng như cũ, sau cùng mưu-phản mà bị bắt chém đầu.

[504] Ngô-Lai, người ở Phố-dương đời nhà Nguyên, tự là Lập-phu, thiên-tư hơn người, có soạn những sách Thượng-thư tiêu thuyết, Xuân-thu thế biến đồ, Xuân-thu truyện thụ phổ, Cổ chức phương lục, Mạnh-Tử đệ tử liệt truyện, Sở Hán chính thanh, Nhạc phủ loại biên, Đường luật cương yếu và những văn-tập.

[505] Diệp-Thích, người ở đất Vĩnh-gia đời Tống, tự là Chính-tắc, trong niên-hiệu Thuần-hy đỗ tiến-sĩ, trong thời vua Ninh-tông làm quan đến chức Bảo-mô các đãi-chế, mắc tội mà mất chức, bình-sinh ý-chí khảng-khái, văn-chương đẹp-đẽ, được học-giả gọi là Thủy tâm tiên-sinh, có soạn ra sách Thủy tâm tập.

[506] Lý-Ngao, người ở Triệu-quận đời Đường, tự là Tập-chí, theo Hàn-Dũ làm văn, đỗ tiến-sĩ, tính-tình cao-siêu, cứng-cỏi, nghị-luận bất-khuất, làm quan đến chức Sơn-nam đông-đạo tiết-độ-sứ, soạn ra sách Luận-ngữ bút giải, Ngũ mộc kinh, Lý văn công tập.

[507] Âu-Dương-Tu, người ở Lư-lăng đời nhà Tống, tự gọi là Túy-ông (ông say), về sau tự gọi là Lục nhất cư-sĩ, thi đỗ tiến-sĩ giáp khoa, làm quan đến chức Hàn-lâm-viện thị-độc học-sĩ, Khu-mật phó sứ, Tham-tri chính-sự, về sau ra nhiệm chức ở Thanh-châu, nghịch với Vương-An-Thạch, trí-sĩ trở về.

Ông đọc rộng các sách, thi-văn ngang hàng với Hàn-Dũ, Lý-Bạch và Đỗ-Phủ, có soạn những sách: Tân ngũ đại sử, hợp với Tống-Kỳ soạn sách Tân Đường thư. Người đời sau gom những thi-văn của Ông làm thành Văn-trung tập (Văn-trung, là tên thụy của Ông).

[508] Bùi-Độ, người ở đất Văn-hy, đời nhà Đường, tự là Trung-lập, thần khí sáng-suốt, tiết-tháo kiên-trinh, trong niên-hiệu Trinh-nguyên đỗ Tiến-sĩ, làm quan đến chức Trung-thư Thị-lang, Đồng-binh chương-sự, dẹp yên Hoài-Thái, bắt được Ngô-Nguyên-Tề, được phong Tấn-quốc-công. Khi vua Kính-tông bị viên hoạn-quan Lưu-Khắc-Minh thí nghịch, Bùi-Độ định kế giết Lưu-Khắc-Minh, rước Văn-tông lập làm vua. Phúc-tộ nhà Đường nhờ Ông mà không đổ nát. Ông nhiều lần cầm quân-chính, uy chấn tứ di. Về sau, hoạn-quan chuyên quyền, Ông dựng biệt thự ở Đông-đô, gọi đấy là Lục-dã thảo-đường, cùng với các danh-sĩ uống rượu ngâm thơ ở đấy, không màng hỏi đến việc đời. Ông mất tên thụy là Văn Trung.

[509] Tấn-công, tức Bùi-Độ. Ông được phong Tấn-quốc-công.

[510] Quan dạng văn chương, nói công-văn thư phải có một cách-thức nhất định. Người đời sau nhân đó gọi những công-văn viết theo lệ nhất định không có thực-tế là quan dạng văn chương.

[511] Hàn-Dũ, người ở Nam-dương đời nhà Đường, tự là Thoái-chi, người đời gọi là Hàn Xương-Lê, lúc bé mồ-côi, học nho rất khắc-khổ, lớn lên giữ hạnh-thảo kiên-trinh, nói năng chân-chính, trong thời vua Đức-tông đỗ tiến-sĩ, làm Giám-sát ngự-sử, dâng sớ can những điều tệ ở thị-tứ trong cung, bị biếm làm Dương-sơn-lịnh, trong thời vua Hiến-tông được triệu về làm Quốc-tử bác-sĩ, cải sang Sử-quán tu-soạn, chuyển qua Khảo-công lang-trung, biết về chế-cáo, được trao chức Trung-thư xá-nhân, mắc tội, cải làm Thái-tử hữu thứ-tử, can-gián việc rước cốt Phật, bị biếm làm Thứ-sử Triều-châu, ở đây có nạn cá sấu làm hại dân-chúng. Ông soạn bài Văn tế cá sấu để đưa chúng đi nơi khác, Ông được đổi làm Thứ-sử Viên-châu, đến đâu đều thi-hành chánh-trị tốt đẹp, được triệu về làm Quốc-tử Tế-tửu, thăng Lại-bộ thị-lang.

Hàn-Dũ bác thông kinh-sử, hiểu cả bách-gia, bình-sinh bài-xích dị-đoan và đạo Phật đạo Lão.

Về văn-chương, Ông chủ-trương lối văn giản-dị mạnh-mẽ trầm hùng để chống lại lối văn ủy-mị cầu-kỳ, biền-ngẫu, từ-chương đang thạnh-hành lúc bấy giờ.

[512] Tống-Kỳ, người ở đất An-lục đời nhà Tống, tự là Tử-kinh, đỗ tiến-sĩ một lượt với anh, làm quan đến chức Long-đồ các học-sĩ, Sử-quán tu-soạn, cùng với Âu-Dương-Tu tu-chỉnh sách Đường-thư, thăng chức Tả-thừa, Công-bộ Thượng-thư, Hàn-lâm học-sĩ thừa-chỉ, soạn sách Tống cảnh văn tập.

[513] Đỗ-Mục, người ở đất Vạn-niên đời nhà Đường, cháu của Đỗ-Hựu, tự là Mục-chi, hiệu là Phàn-xuyên, trong niên hiệu Thái-hòa đỗ tiến-sĩ, trong niên-hiệu Hội-xương, làm quan đến chức Trung-thư xá-nhân, là người cương-trực tiết-tháo, nổi tiếng về thi-văn ngang hàng với Lý-Thương-Ẩn, được người đời gọi là Lý-Đỗ, có soạn sách Phàn xuyên tập.

[514] Thân-Bất-Hại, người nước Hàn đời Chiến-quốc, làm tướng giúp Hàn Chiêu-hầu trong 15 năm, ở trong thì sửa-sang chính-giáo, ở ngoài thì ứng-phó với chư-hầu. Cái học của Ông gốc ở Hoàng-Đế và Lão-Tử. Ông có viết sách Thân-tử có 2 thiên.

[515] Thương-Ưởng, công-tử dòng thứ của nước Vệ đời Chiến-quốc, họ Công-tôn, thích cái học về Hình-danh và Pháp-thuật, làm tướng giúp Tần Hiểu-công, được phong ở đất Thương, gọi là Thương-quân. Làm tướng giúp nhà Tần, trong 10 năm thì ngoài đường không ai lượm của rơi, nhưng dùng pháp-luật quá nghiêm cho nên bậc quý thích đại thần phải oán-hận. Ông chết bị cực hình xé xác.

[516] Tô-Tần, người đất Lạc-dương thời Chiến-quốc, tự là Quý-tử, học-trò của Quỷ-Cốc-tử, đầu tiên đến du-thuyết Tần Huệ-vương mà không được dùng, bèn đi du-thuyết nước Tề, nước Sở, nước Yên, nước Triệu, nước Hàn, nước Ngụy, khiến sáu nước nầy hợp lưng chống lại Tần, làm tướng sáu nước khiến quân Tần không dám dòm ngó Hàn-cốc-quan trong 15 năm. Về sau bị quan đại-phu nước Tề sai người đâm chết.

[517] Trương-Nghi, người nước Ngụy thời Chiến-quốc, đầu tiên cùng với Tô-Tần là học trò của Quỷ-Cốc-tử. Lúc Tô-Tần làm tướng nước Triệu, Trương-Nghi đến bái-yết rồi lại bỏ đi sang Tần, được Tần Huệ-vương cho làm tướng, đi du-thuyết sáu nước khiến họ chống Tô-Tần để liên-hoành thờ Tần, được Tần gọi là Vũ-tín-quân. Khi Tần Huệ-vương mất, Vũ-vương lên ngôi, Ông bị quần-thần gièm siễm, gặp lúc sáu nước hợp tung chống Tần, Ông bỏ Tần làm tướng cho nước Ngụy, được một năm thì chết.

[518] Tử thư, những sách lập thuyết tự thành một phái như Nho-gia, Binh-gia, Pháp-gia, Đạo-gia, Thích-gia, và những sách về kỹ-nghệ thuật-số với tiểu-thuyết.

[519] Sử-thư, sách của sử-quan.

[520] Y-Xuyên, tức Trình-Di, hiệu là Y-Xuyên tiên-sinh, người đất Lạc dương đời Tống, tự là Chính-thúc, với anh là Trình-Hạo cùng học với Chu-Đôn-Di. Cái học của Y-Xuyên bổn ở thành, chủ ở cùng lý, lấy thánh-nhân làm thầy. Người theo học với Ông rất đông, Ông có soạn ra những sách Dịch-truyện, Xuân-thu truyện.

[521] Hoàng-Phủ-Thực, người ở đất Tân-an đời nhà Đường, tự là Trì-chính, trong niên-hiệu Nguyên-hòa đỗ tiến sĩ, giỏi về thi văn, nổi danh ngang hàng với Lý-Ngao, Trương-Tịch, tính người nóng- nảy, ưa uống rượu, làm quan đến chức Công-bộ lang-trung, có viết sách Hoàng-phủ Trì-chính tập.

[522] Lưu-Trường-Khanh, người ở đất Hà-giang đời nhà Đường, tự là Văn-phòng, trong niên-hiệu Khai-nguyên đỗ tiến-sĩ, làm quan thứ-sử Tùy-châu, giỏi thơ Ngũ-ngôn.

[523] Nguyễn-Tịch, người nước Ngụy thời Tam-quốc, tự là Tự-tông, là một trong Trúc-lâm thất-hiền (7 người hiền tài ở rừng tre), học nhiều đọc rộng, thích Lão Trang, giỏi đàn, làm mắt trắng để khinh người, làm mắt xanh để trọng người, thích uống rượu, nghe nhà bếp Bộ-binh nấu rượu rất ngon, và có chứa 300 hộc rượu, bèn xin làm Bộ-binh Hiệu-úy, thường tự ý rong xe đi, cùng đường thì khóc thảm-thiết mà trở về. Ông có viết những sách: Vịnh hoài thi hơn 80 thiên, Đạt-sinh-luận, Đại-nhân tiên-sinh truyện.

[524] Lạc-Tân-Vương, người ở đất Nghĩa-ô đời nhà Đường, lúc bé thông-minh, giỏi văn-chương, là một trong tứ kiệt thời Sơ Đường, đầu tiên làm chức thừa ở Lâm-hải, bất đắc chí bèn bỏ đi, theo Từ-Kính-Nghiệp chống Vũ-hậu. Kính-Nghiệp thua, có người bảo Ông bị giết hay chạy trốn làm nhà sư ở chùa Linh-ẩn-tự. Ông có để lại sách Lạc-thừa-tập.

[525] Thiên bàng, trong chữ nho thuộc loại hợp-thể, phần bên tả gọi thiên, phần bên hữu gọi bàng.

[526] Tắc, Ông Hậu-Tắc, thần Ngũ-cốc.

[527] Tiết, vị danh-thần đời vua Thuấn.

[528] Phục-Kiến, người ở Đông-Hán, tự là Tử-thận. Trong thời vua Linh-đế làm quan Thái-thú ở Cửu-giang. Ông giỏi viết văn, viết sách Xuân-thu Tả-thị truyện giải.

[529] Trịnh-Huyền, người ở đất Cao-mật đời Đông-Hán, tự là Khang-thành, đọc rộng biết nhiều, đi học hơn 10, trở về cày ruộng ở Đông-lai. Ông viết rất nhiều sách. Sau khi Ông mất, học-trò chép lời vấn đáp của Ông làm thành sách Trịnh-chí. Ông có chú những sách: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nghi-lễ, Luận-ngữ, Hiếu-kinh, Thượng-thư đại truyện. Ông có viết những sách: Thiên văn thất chính biên, Lỗ lễ đề hợp nghĩa, Lục nghệ luận, Mao thi phổ.

[530] Lão-Đỗ, nhà thơ gọi Đỗ-Phủ là Lão Đỗ.

[531] Lãng-thùy cũng như lãng truyền, là lưu-truyền một cách khinh suất không cẩn-thận.

[532] Truyện, phần giải rõ nghĩa trong kinh.

[533] Chú, chua, chú-thích.

[534] Khảo-đinh, tức Chu-Hy, người ở đất Vụ-nguyên đời nhà Tống, ở trọ Kiến-châu, tự là Nguyên-hối, một tự nữa là Trọng-hối, lúc về già lấy hiệu là Hối-ông, Vân-cốc lão nhân, Thương-châu độn tẩu, đỗ tiến-sĩ trong niên-hiệu Thiệu-hưng, làm quan dưới bốn triều: Cao-tông, Hiếu-tông, Quang-tông và Ninh-tông, đến chức Bảo-văn các đãi-chế. Cái học của Ông là cùng lý để trí tri. Chỗ giảng học của Ông gọi là Khảo-đinh, học-phái của Ông gọi là Khảo-đinh học-phái. Trong niên-hiệu Khánh-nguyên, Ông trí-sĩ về hưu, Ông mất, thọ 71 tuổi. Người đời gọi Ông là Chu-tử hay Chu-văn-công.

[535] Tư-mã Tương-Như, người ở Thành-đô đời nhà Hán, tự là Trường-khánh, lúc bé ham viết, học đánh kiếm, thích con người như Lạn-Tương-Như, miệng cà-lăm nhưng viết văn rất giỏi, trong thời vua Cảnh-đế làm Vũ-kỵ thường thị, trong thời vua Vũ-đế làm Hiếu-văn viên lịnh. Tác-phẩm của Ông có: Tử hư phú, Thượng lâm phú, Đại nhân phú.

[536] Tiều-Vọng-Chi, người ở đất Lan-lăng đời nhà Hán, dời về ở Đỗ-lăng, tự là Trường-Thiến, ham học nghe nhiều, trong thời vua Tuyên-đế làm đến chức Thái-tử Thái-phó, khi vua bịnh nặng, nhận di-chiếu phò ấu-chúa (tức Nguyên-đế), về sau bị Thạch-Hiển hãm hại, phải uống thuốc độc tự-sát.

[537] Tử-Hư Ô-Hữu, Tư-Mã Tương-Như đời nhà hán có làm bài Tử-Hư phú, bịa đặt ra Tử-Hư công-tử (là nói người nầy không có), Ô-Hữu tiên-sinh (là không có ông nầy) và Vô-Thị-Công (là người nầy không có).

Người đời sau nhân đó gọi việc không có là Tử-Hư Ô-Hữu.

[538] Hạ-Tri-Chương, người ở đất Sơn-âm đời nhà Đường, tự là Quý-Chân, giỏi về văn-từ, tinh về loại chữ thảo chữ lệ, đàm thuyết rất giỏi, trong niên-hiệu Chứng-thánh đời Vũ-hậu thi đỗi tiến-sĩ, trong thời vua Huyền-tông làm chức Lễ-bộ thị-lang đổi làm Thái-tử tân-khách, làm chức Bí-thư giám, tự gọi là Bí-thư ngoại-giám, người đời gọi là Hạ-giám, về già phóng-tứ hiệu là Tứ-minh cuồng khách, trong đầu niên-hiệu Thiên-bảo xin làm đạo-sĩ trở về quê. Ông thọ được 86 tuổi.

[539] Văn-giáo, chỉ về lễ-nhạc pháp-độ.

[540] Quốc-sử bổ tức Đường quốc-sử bổ, tên sách có 3 quyển, do Lý-Triệu đời Đường soạn, chép những việc lặt-vặt từ niên-hiệu Khai-nguyên đến niên-hiệu Trường-khánh có bổ ích cho phong-giáo.

[541] Lữ Đông-lai tức Lữ-Tố-Khiêm, người ở đất Kim-hoa đời nhà Tống, tự là Bá-cung, người đời gọi là Đông-lai tiên-sinh, thi đỗ tiến-sĩ trong niên-hiệu Long-hưng, lại đỗ khoa Bác-học hoành-từ, làm quan đến chức Trực bí các trứ-tác lang, Quốc-sử viện biên-tu, cùng nổi danh ngang hàng với Chu Hy, Trương-Thức. Sách của Ông viết có: Cổ Chu dịch, Xuân-thu Tả-thị truyện thuyết, Đông-lai Tả-thị bác-nghị, Đại sự ký, Lịch đại chế-độ tường thuyết, Thiếu nghi ngoại truyện, Đông-lai tập.

[542] Bạch Lạc-thiên tức Bạch-Cư-Dị, người ở đất Thái-nguyên đời Đường, tự là Lạc-thiên, trong niên-hiệu Nguyên-hòa đỗ tiến-sĩ, đổi làm Tả thập đạo, ra làm quan tư-mã Giang-châu, làm thứ-sử Hàng-châu, Tô-châu, khi vua Văn-tông lên ngôi, đổi làm Hình-bộ thị-lang, trong niên-hiệu Hội-xương, làm Hình-bộ thượng-thư xin trí-sĩ về hưu.

Văn-chương của Ông rất tinh-thiết, thơ của Ông bình-dị cận nhân-tình.

Ông về ở núi Hương-sơn, cùng với nhà sư Như-mãn kết làm Hương-hỏa xã, tự gọi là Hương-sơn cư-sĩ. Sách của Ông có Bạch thị trường khánh lập.

[543] Nguyên Vi-chi tức Nguyên-Chân, người đất Hà-nam đời nhà Đường, tự là Vi-chi, được vua Mục-tông ban thưởng về thi ca, làm chức Từ-bộ lang-trung, vào Hàn-lâm làm Trung-thư xá-nhân, Thừa-chỉ học-sĩ, trong niên-hiệu Trường-khánh làm Đồng-trung thư-môn hạ Bình-chương-sự.

Nguyên-Chân và Bạch-Cư-Dị giao hảo với nhau rất hậu.

Thơ của Ông được phi tần ngâm đọc trong cung gọi Nguyên tài-tử. Sách của Ông có Nguyên thị trường khánh lập.

[544] Lưỡng-Chiết, tức Chiết-đông và Chiết-tây.

[545] Bưu-đồng, ống tre đựng văn-kiện giao cho trạm dịch đem đi.

[546] Giải-Tấn, người ở đất Cát-thủy đời nhà Minh, tự là Đại-thân, giỏi viết văn, trong niên-hiệu Hồng-vũ thi đỗ tiến-sĩ, làm quan đến chức Hàn-lâm học-sĩ, được vua sủng trọng, về sau mắc tội bị hạ ngục mà chết.

[547] Điển-lệ, điển-nhã mỹ-lệ, thanh-nhã đẹp-đẽ.

[548] Cao cổ, cao siêu khác thói tục.

[549] Trùng đạm, hòa dịu yên lặng.

[550] Sách chép ổn ước, nhưng chúng tôi tra các từ điển đều không có ổn ước, chỉ có ẩn ước (là không rõ-ràng) mà thôi. Có lẽ sách chép sai ẩn ước ra ổn ước.

[551] Huyên, âm huyên, là sáng. (Chú của nguyên-văn).

[552] Điển lệ tức điển-nhã mỹ lệ là thanh-nhã (không quê-kệch) đẹp-đẽ.

[553] Tư-Không-Đồ, người ở Ngu-hương thuộc Hà-trung đời nhà Đường, tự là Biểu-thánh, học với Trương-Tịch, cuối niên-hiệu Hàm-thông đỗ tiến-sĩ, tránh loạn ở ẩn ở Trung-điều-sơn, Vương-quan-cốc, tự gọi là Nại-nhục cư-sĩ. Lúc bấy giờ trộm cướp đều nổi lên bảo nhau không vào Vương-quan-cốc. Chu-Toàn-Trung đã soán ngôi, triệu Ông làm Lễ-bộ Thượng-thư, Ông không ra. Khi vua Ai-đế bị giết, Ông nhịn ăn mà chết.

[554] Thoát sái, minh-mẫn, siêu-dật.

[555] Mạch, sự-vật quán-thông nhau và có điều lý.

[556] Vị, thi-vị.

[557] Hành, nhạc khúc.

[558] Nhạc-phủ, quan nha có chức-vụ chọn lấy những bài thi ca cho phổ vào tiếng đàn tiếng sáo. Người đời sau gọi những thi ca được quan chức trong nhạc-phủ chọn lấy bảo tồn là nhạc-phủ.

Đầu tiên Hán Vũ-đế định lễ-nghi tế Giao và lập ra Nhạc-phủ, cho Lý-Diên-Niên làm Hiệp-luật Đô-úy. Nhạc-phủ bắt đầu lập ra từ đấy.

[559] Điệt đãng, là phóng-túng, không kiểm-thúc.

[560] Thiên lại, âm hưởng tự-nhiên.

[561] Nhãn căn, tiếng nhà Phật chỉ con mắt, là một trong lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).

[562] Quyết khoa, định bậc cao thấp ở khoa thi.

[563] Lục thư, sáu phép viết ra chữ Hán: 1) Tượng-hình. 2) Chỉ -sự. 3) Hội-ý. 4) Hài-thanh. 5) Chuyển-chú. 6) Giả-tá.

[564] Tượng-hình, phép vẽ hình-tượng món vật ra để đọc thành chữ. Phép tượng-hình phân ra hai loại:

a - Tượng-hình thuần-túy là phép vẽ hình-tượng món vật ra mà không có hợp với một bộ hay một chữ nào khác.

Trong chữ viết theo Tượng-hình thuần-túy chúng ta không thể phân-tách ra một bộ hay một chữ nào khác. Thí dụ:目Mục mắt. Tượng-hình con mắt có tròng trắng tròng đen.

Mộc, cây. Tượng-hình cây có gốc rễ và cành lá.

b - Tượng-hình hợp-thể là phép vẽ hình-tượng vật-thể ra và có hợp với một bộ hay một chữ khác. Thí dụ:

My, lông mày. 尸 tượng-hình lông mày. 目 mục, mắt. Lông mày ở phía trên con mắt.

Quả, trái cây. 田 tượng-hình trái cây. 木 mộc, cây. Trái, quả đơm trên cây.

[565] Hội ý, là phép căn cứ vào một sự vật do tượng-hình hay chỉ-sự trình-bày ra mà hiểu cái ngụ ý. Cái ngụ ý thường là cái cứu-cánh, cái kết-quả của sự-vật được suy-diễn. Thí dụ:

西 Tây, hướng tây. Cổ văn Image (chú ý đây là hình) tượng-hình con chim nằm trên ổ. Phải suy-diễn mà hiểu cái ngụ ý: Khi chim chóc về nằm trên ổ thì trời chiều bóng ngã về tây.

Sa, cát, bãi cát, 氵 thủy, nước, 少 Thiểu, ít, vơi cạn. Phép chỉ-sự trình-bày việc nước rút cạn vơi ít đi. Phải suy-diễn mà hiểu cái ngụ ý: Khi nước rút cạn thì cát ở bãi lộ ra.

[566] Lệ, là một loại chữ đời Tần, tuy tương-truyền do Trịnh-Mạc bày ra, nhưng có lẽ chữ lệ đã có từ trước đời Tần và được nhà Tần thông-dụng trong các quan nha, vì lẽ loại chữ triện khó viết, người ta mới bày ra loại chữ lệ để viết được rõ-ràng mà giúp đỡ các lại-dịch trong quan nha biên chép sổ sách.

[567] Nữ-chân, nước Mạt-hạt ở Hắc-thủy.

[568] Phần, tây di, rợ ở phía tây Trung-quốc gọi là Phần (chú-thích của nguyên-bản).

[569] Phiên-thiết, phương pháp hài-âm của một chữ, dùng âm của hai chữ thiết thành âm của chữ muốn đọc. Lấy thanh của chữ trước, như M (của chữ MA) ghép với vận của chữ sau, như AI (của chữ SAI) thành ra âm của chữ muốn tìm là MAI.

MA + SAI = MAI.

Chữ trước dùng để định thanh trọc của chữ muốn tìm. Chữ sau dùng để định bình trắc của âm chữ muốn tìm.

[570] Huấn cổ, nói dạng mạo của sự vật cho người ta biết là huấn. Giải-thích lời nói khác nhau của xưa và nay là cổ.

[571] Ngạc là nướu răng.

[572] Khang-Tiết, tức Thiệu Khang-Tiết. Thiệu-Ung đời nhà Tống, tên thụy là Khang-Tiết, người ở đất Phạm-dương, tự là Nghiêu-phu, học đồ thư tiên thiên tượng số với Ông Lý-Chi-Tài ở Bắc-hải, giỏi về Dịch số. Sách của Ông viết có: Quan vật thiên, Ngư tiều vấn đáp, Y xuyên kích nhưỡng tập, Hoàng cực kinh thế.

[573] Bình là thanh phát ra ngang bằng không cao không thấp. Thượng là thanh cao vút mãnh liệt. Khứ là thanh ngân nga đi ra xa. Nhập là thanh ngắn mà cấp bách, tiếng như nhập vào trong miệng.

[574] Khai là mở. Phát là tiến ra. Thu là rút về. Bế là đóng.

[575] 2 Luật lữ, Hoàng-Đế sai Ông Linh-Luân cắt những ống trúc dài ngắn khác nhau để phân biệt âm của nhạc-khí trong đục cao thấp, phân ra 6 tiếng thuộc dương là luật, 6 tiếng thuộc âm là lữ. Gọi chung là thập nhị luật. Dương luật có 6 tiếng là: Hoàng-chung, Đại-thốc, Cổ-tẩy, Nhuy-tân, Di-tắc, Vô-xạ. Âm lữ có 6 tiếng là: Lâm-chung, Nam-lữ, Ứng-chung, Đại-lữ, Giáp-chung, Trung-lữ.

[576]

[577] Khư nghi thuyết, tên sách, có 1 quyển, do Trừ-Vịnh đời Tống soạn. Trừ-Vịnh bình sinh dốc chí học thuật số, theo đuổi đã lâu nên biết rõ đó là trá ngụy, mới viết sách nầy để biện-luận. (Nguyên-văn chép sai tên sách ra Khư nghi thoại).

[578] Xạ phú, phép dùng quẻ Dịch đoán biết vật bị úp giấu. (Nguyên văn chép sai ra Phú xạ).

[579] Lục-triều, sáu triều-đại: Ngô, Đông-Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần (420-581).

[580] Ngũ-đại, năm đời: Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu (907-959).

[581] Lục-đồng tức lục-lữ, sáu tiếng âm do sáu ống bằng đồng quy-định.

[582] Bát-âm, tám thứ tiếng về âm-nhạc: 1) Kim (tiếng chuông). 2) Thạch (tiếng khánh). 3) Thổ (tiếng huyên). 4) Cách (tiếng trống). 5) Ty (tiếng đàn). 6) Mộc (tiếng chúc ngữ). 7) Bảo (tiếng sênh). 8) Trúc (tiếng sáo).

[583] Trung âm, âm thứ ba trong âm-giai, đứng giữa chủ âm và thuộc âm, cho nên gọi là trung âm.

[584] Ngũ thinh: cung, thương, giác, chủy, vũ.

[585] Hoàng-chung, âm đầu tiên của 6 dương-luật: Hoàng-chung, Đại-thốc, Cổ-tẩy, Nhuy-tân, Di-tắc, Vô-xạ.

[586] Độ-khúc, ẩn độ làm thành khúc ca nhạc.

[587] Quân, nhạc khí, dài 7 thước có dây tơ dùng để tiết-chế âm-nhạc.

[588] Thất âm: Cung, thương, giác, chủy, vũ, biến cung, biến chủy.

[589] Tứ thinh: Bình, thượng, khứ, nhập.

[590] Lục khí, sáu nhạc-khí, tức bát âm, trừ cách âmmộc âm, còn lại lục âm của lục khí là: Chuông, huyên, đàn, sênh, sáo.

[591] Ngũ âm: Cung, thương, giác, chủy, vũ.

[592] Tướng, một loại nhạc-khí làm bằng da như cái trống dùng để tiết-chế âm-nhạc.

[593] Tức 9 chữ nhạc của ta: Hồ, xứ, cống, xang, xề, nhi cấu, líu, ú.

[594] Ca, thi văn có thể hát được gọi là ca.

[595] Nhã, có nghĩa là chính-đính, những bài hát ở chốn triều-đình.

[596] Tụng có nghĩa là ngợi khen, những bài hát ca tụng công đức của các vua đời trước hát ở nơi tông-miếu.

[597] Đại-thành, khúc nhạc to. Tập hợp cả những khúc nhạc nhỏ làm thành một khúc nhạc to.

[598] Ngạc, thịt ở chân răng, tức nướu răng.

[599] Sênh chính âm Sanh, một loại nhạc-khí, làm bằng vỏ trái bầu, có gắn 13 ống sáo để thổi.

[600] Tiêu, một loại nhạc-khí, thứ lớn có 23 ống sáo, thứ nhỏ có 16 ống sáo kết lại thành hàng.

[601] Huyên một loại nhạc-khí làm bằng đất to bằng con ngỗng, trên nhọn dưới to, có 6 lỗ để thổi.

[602] Trì, ống sáo bằng trúc, dài 1 thước 4 tấc (thước xưa) tròn 3 phân, có 7 lỗ đều nhau và có 1 lỗ tách lên cao, tất cả có 8 lỗ, để cầm thổi ngang (chớ không được thổi dọc).

[603] Song-quản, nhạc-khí có 2 ống sáo kết lại.

[604] Long-địch, ống địch có làm hình cái đầu rồng ở đầu ống.

[605] Chúc-ngữ, một loại nhạc-khí bằng gỗ có một cái thùng vuông không có nắp, ở giữa đáy có gắn một cây trụ dùng để đánh qua đánh lại vào cái thùng vuông.

[606] Dương-Hùng, người ở Thành-đô đời nhà Hán, tự là Tử-văn, là người giản-dị phóng đãng, miệng cà-lăm, nhưng học rộng nghĩ sâu, lấy văn-chương nổi tiếng trên đời.

[607] Du-hiên, loại xe nhẹ-nhàng của sứ-giả dùng đi nước ngoài.

[608] Kỳ tự, một rong sáu thể chữ trong thời Vương-Mãng nhà Hán, là lối chữ cổ mà khác lạ.

[609] Trình-Tử-Mạc tức Trình-Mạc người ở đất Hạ-đỗ đời Tần, tự là Nguyên-Sầm, đầu tiên làm huyện-lại bị giam ở Vân-dương, 10 năm suy-tư ở trong ngục, sáng-chế ra lối chữ lệ, được Tần Thủy-hoàng đem ra khỏi ngục cho làm Ngự-sử.

[610] Triện, Chữ triện có 2 loại: Đại-triệntiểu-triện.

Đại-triện là lối chữ cổ đời nhà Chu. Tiểu-triện là lối chữ cổ đời nhà Tần do Lý-Tư soạn ra.

[611] Lệ, một lối chữ đời nhà Tần, tuy tương truyền do Trình-Mạc định ra, nhưng có lẽ loại chữ lệ đã có trước đời Tần và được nhà Tần thông-dụng trong các quan nha, vì lẽ loại chữ triện khó viết, người ta mới bày ra loại chữ lệ để viết được rõ-ràng.

[612] Quyên-đốc quốc, nước Ấn-độ xưa dịch ra Quyên-đốc quốc.

[613] Tạng, kinh sách của nhà Phật gọi là tạng vì bao hàm uẩn tích văn nghĩa (tạng là súc tích chất chứa).

[614] Kinh tạng, loại sách của nhà Phật kết tập những lời của Phật nói.

[615] Luật tạng, loại sách về luật cấm của nhà Phật để các sư sãi phải noi theo.

[616] Luận tạng, loại sách của các vị Bồ-tát làm để giảng nghĩa thảo-luận rộng thêm những lời giảng của Phật.

[617] Huyền-Trang (595-664), một nhà sư người Trung-hoa đời Đường Thái-tông, một mình đi qua Ấn-độ học tiếng Ấn-độ và chữ Phạm rồi dịch kinh Tam tạng, trải tất cả 17 năm (2 năm đi và về, 13 năm lưu-trú) đem về Trung-quốc 657 bộ kinh Phật, 6 tượng Phật và 150 xá lợi (tinh cốt của Phật), mất ngày mùng 5 tháng 2 năm Giáp-tý 644) tại chùa Ngọc-hoa ở Trường-an và an-táng ở Bạch-lộc nguyên.

[618] Nhuận-sắc, thêm văn-chương vào cho đẹp đẽ.

[619] Đại-hùng thị, một danh-hiệu của Phật Thích-ca-mâu-ni.

[620] Tứ thập nhị chương kinh, tên bộ kinh Phật đời Đông-Hán do Ca-diếp Ma đằngTrúc-pháp-lan cùng dịch có tất cả 42 chương, cho nên gọi là kinh Tứ thập nhị chương.

[621] Kinh Lăng-nghiêm, Kinh Đại Phật Đinh Như-Lai mật nhân tu chứng liễu nghĩa chư Bồ-tát tạng Vạn-hạnh thủ Lăng-nghiêm gọi tắt là kinh Lăng-nghiêm do Sa-môn Bát-lạt mật đế đời Đường dịch có 10 quyển, giảng rõ bản-thể của tâm tính, là tinh-túy của pháp môn trong một đời.

[622] Nội-điển, sách giảng dạy của nhà Phật.

[623] Trình-Mạc (đã chú ở trước rồi).

[624] Bì-lăng, tên quận, trị-sở nay ở phía đông-nam huyện Trấn-giang, tỉnh Giang-tô.

[625] Kinh-khẩu, tên đất, trị-sở ở Trấn-giang huyện, tỉnh Giang-tô.

[626] Hoài-nam, vùng phía nam sông Hoài.

[627] Chú của nguyên-tác theo phiên-thiết.

[628] Chú của nguyên-tác, âm ổn.

[629] Chú của nguyên-tác, âm niểu.

[630] Chú của nguyên-tác, âm khám.

[631] Chú của nguyên-tác, âm ổn.

[632] Chú của nguyên-tác, âm động.

[633] Chú của nguyên-tác, âm chung.

[634] Chú của nguyên-tác, âm lạp.

[635] Chú của nguyên-tác, âm đại.

[636] Chú của nguyên-tác, âm soan. Chữ này với âm soan là chữ nho, chớ không phải chữ bản thổ, các sách Khang-hy tự-điển, Từ-hảiTừ-nguyên đều có ghi chữ soan này ở bộ 門 môn.

[637] Nguyên văn: Việt trung ngữ là tiếng trong đất Việt, vì không có địa-danh Việt-trung.

[638] Quảng-đông tân ngữ, tên sách, có 28 quyển do Khuất-Đại-Quân đời nhà Thanh soạn ra.

[639] Nguyên tác không ghi âm, có lẽ nên đọc giống chữ lều tranh của ta.

[640] Người Tàu âm tiếng Việt trời ra lôi.

[641] Người Tàu âm tiếng Việt đất ra đắc.

[642] Người Tàu âm tiếng Việt ngày ra ái.

[643] Người Tàu âm tiếng Việt tháng ra đãng.

[644] Sơn-đường tứ khảo, tên sách có 228 quyển, phần bổ-di có 12 quyển, do Bành-Đại-Dực đời nhà Minh soạn ra. Nội-dung chia 45 môn rất có điều lý.

[645] Lữ, lúa tự nhiên mọc lên, không do người nào gieo trồng.

[646] Chữ 穭 lữ đọc theo chứ nôm là lúa.

[647] Bảo, cái thành nhỏ đắp bằng đất, tức cái luỹ.

[648] Xung hỉ, cưới chạy tang, như người chồng chưa cưới đau nặng gần chết thì lo cưới người vị hôn-thê về nhà.

[649] Áp kinh, thấy người vừa qua cơn sợ-hãi, đem rượu trà bánh trái đến yên-ủi người gọi là áp kinh.

[650] Cũng như tục nước ta gọi cha là ông già.

[651] Hồi-hột, dòng dõi của Hung-nô.

[652] Thanh sương tạp ký, tên sách, cả thảy 10 quyển do Ngô-Xử-Hậu đời nhà Tống soạn ra, chép những điều nghe thấy lúc bấy giờ, cũng có nhiều thi-thoại.

[653] Đại-lý, chức quan coi về hình-pháp, tức như chức Thẩm-phán ngày nay.

[654] Cũng như tục người miền Nam gọi: Ba thằng Hai, má con Tư.

[655] Thổ-phồn cũng gọi là Thổ-phiền, nay là nước Tây-tạng.

[656] Đẳng-nhân. Trung-văn đại từ điển giải-thích đẳng-nhân là người đồng bối, bạn đồng liêu.

[657] Dậu dương tạp trở, tên sách có tất cả 20 quyển, tục tập 10 quyển, do Đoàn-Thành-Thức đời Đường soạn, chép nhiều chuyện quỷ quái hoang đường, không chính đáng.

[658] Xướng nặc, chắp tay vái chào.

[659] Lôi tức lôi cổ 雷鼓 là một loại trống có 8 mặt đánh lên khi cúng tế trời.

[660] Chấn phong, gió dữ gió gấp.

[661] Lăng vũ, mưa thình-lình.

[662] Nhàn, lớn-lao.

[663] Tục-ngữ của ta có câu cùng một ý ấy: “Chớ ăn cháo đá bát ” .

[664] Tục-ngữ của ta có câu cùng một ý ấy: “Ăn cây nào, rào cây ấy ” .

[665] Địch-Nhân-Kiệt, người ở đất Thái-nguyên đời Đường, tự là Hoài-anh, thi đỗ khoa Minh-kinh, làm quan ba triều vua Cao-tông, Trung-tông và Duệ-tông, trải qua những chức Tuần-phủ Hà-nam, Thứ-sử Dự-châu, xử những án bị đình-trệ, phá huỷ những miếu thờ bất chính, tiến-cử được nhiều bậc trung-thần.

[666] Trà-kinh, tên sách gồm có 3 quyển, do Lục-Vũ đời Đường soạn ra, nói về chuyện trà, tường thuật cách chế trà, pha trà và uống trà.

[667] Lục-Vũ, người ở đất Cánh-lăng đời Đường, tự là Hồng-Tiệm, ẩn cư ở Điêu-khê, có khi đi một mình trong đồng nội, đọc thơ và quất cây, khóc thảm rồi trở về, thích uống trà, viết sách Trà-kinh.

[668] Bổn-thảo, bộ sách chủ yếu của Y- học Trung-quốc, chép các dược-vị dược-tính.

[669] Khúc, men rượu.

[670] Thúc viên tạp ký, tên sách có tất cả 15 quyển, do Lục-Dung đời Minh soạn, trích lục những sự thật từ triều-đình ra đồng-nội dưới đời nhà Minh, biên chép rất tường tận, phần nhiều có thể đối chiếu với lịch -sử. Có những chỗ khảo-biện ý nghĩa xưa cũng đứng-đắn.

[671]đức chính âm đắc, những gì được ở lòng khi mình tu dưỡng theo đường chính-trực. (Image = 悳 đắc, được. 彳 = 行 hành, hành đạo. Những gì được ở lòng khi người chính-trực hành đạo).

[672] Chữ 天 thiên viết theo cổ văn là Image (hình) hợp với chữ 二 nhị thì thành chữ 酉 dậu (thấy giống giống như thế, chớ sự thật thì không phải).

[673] Chữ 泉 tuyền (là suối) có chữ 白 bạch (là trắng) hợp với chữ 水 thủy (là nước) cho nên mới gọi là Bạch thủy chân nhân.

[674] Tân-ngữ, tên sách, do Lục-Giả đời Hán soạn ra 12 thiên.

[675]ngô, sai lệch lầm lẫn. Image trắc, nghiêng tà không đứng-đắn. 口 khẩu, miệng để nói. Nói điều sai lệch lầm lẫn không đứng-đắn.

[676] Tham đồng khế, sách do Ngụy-Bá-Dương soạn, thường nói về khảm, ly, thủy, hỏa, long, hổ, diên, hống.

[677] Chữ 卐 vạn là chữ linh ở Ấn-độ có sức đưa lại các điều tốt lành vui-vẻ phúc-đức. Sức lành của chữ vạn sâu rộng như biển, cao lớn như mây.

[678] Thuyết-phu, tên sách, có tất cả 100 quyển, do Đào-Tông-Nghi đời Minh soạn, chép những tiểu-thuyết sử-ký từ đời Minh trở về trước, chép tóm tắt phần đại-lược của mỗi quyển, có chép lại những sách xưa đã thất-lạc. Về sau bộ sách nầy mất hết 30 quyển.

[679] Đào-Cửu-Thành, tên là Tống-Nghi, tự là Cửu-Thành, người ở đất Hoàng-nham đầu đời Minh, hiệu là Nam-thôn, chăm về cổ học, nhà nghèo, dạy học để sống, đích thân đi cày, rảnh-rang ngồi dưới bóng cây, bẻ lá cây chép sách, chứa vào trong những cái chậu vỡ, trong 10 năm được 10 chậu, đem ra chép lại được 30 quyển, gọi là bộ Chuyết canh lục. Ông có soạn những sách Thuyết-phu, Thư-sử hội-yếu còn truyền ở đời.

[680] Dung trai tùy bút, tên sách, có tất cả 16 quyển, tục bút có 16 quyển, tam bút có 16 quyển, tứ bút có 16 quyển, ngũ bút có 10 quyển, do Hồng-Mại đời Tống soạn. Sách này tùy lúc hứng biên chép đều là loại khảo biện kinh điển, đính-chính điển-cố, biện-chứng khảo-cứu rất tinh-xác.

[681] Hồng Cảnh-lư, người ở đất Phiên-dương đời Tống, tên là Mại, tự là Cảnh-lư, bác thông kinh sử. Trong thời vua Cao-tông, ông thi đỗ, làm chức Hàn-lâm học-sĩ, đi sứ nước Kim, làm quan đến chức Đoan-Minh-điện học-sĩ có viết những sách: Sử-ký pháp-ngữ, Kinh-tử pháp-ngữ, Nam-triều sử tinh ngữ, Dung trai tùy bút, Di kiên chí.

[682] Tống-Kỳ, người ở đất An-lục đời Tống, cùng với anh thi đỗ Tiến-sĩ, làm chức Long-đồ các học-sĩ, Sử-quán tu-soạn, cùng với Âu-Dương-Tu soạn bộ Đường-thư, lại ra trấn-nhiệm Bạc-châu, sau làm chức Tả-thừa, Công-bộ Thượng-thư, Hàn-lâm học-sĩ thừa-chỉ, viết sách Tống-cảnh văn tập.

[683] Quy điền lục, tên sách, có 2 quyển, do Âu-Dương-Tu đời Tống soạn, chép những việc cũ của triều-đình và những câu chuyện hài-hước của sĩ đại phu. Sách nầy soạn vào lúc đã trí-sĩ về đồng ruộng ở đất Dĩnh.

[684] Hãn giản, đời xưa lấy thẻ tre hơ lửa cho đổ mồ-hôi, rồi viết nháp lên lớp trơn bóng như mổ-hôi ấy gọi là hãn thanh 汗青 để dễ cạo sửa. Sau khi đã sửa bài văn cho chính-đính rồi thì cạo bỏ lớp hãn thanh (vỏ xanh) ấy và chép thẳng lên thẻ tre lên lụa thì không còn sửa-chữa nữa.

Thẻ tre đã hơ lửa cho đổ mồ-hôi gọi là hãn giản. 汗簡

Cạo bỏ lớp hãn thanh trên thẻ tre gọi là sát thanh 殺青 (chuốt bỏ lớp vỏ xanh).

[685] Phủ, vật-dụng bằng gỗ hay bằng đồng hình vuông dùng để đựng xôi nếp mà cúng tế.

[686] Quỷ, vật-dụng bằng gỗ hình tròn dùng để đựng nếp mà cúng tế.

[687] Cửu tân tức cửu nghi 九儀: 1) Công. 2) Hầu. 3) Bá. 4) Tử. 5) Nam. 6) Cô. 7) Khanh. 8) Đại-phu. 9) Sĩ.

[688] Lô truyền (, nhiều người; truyền, đọc to lên truyền lịnh cho mọi người cùng nghe), nhiều người (hàng trăm vệ-sĩ) cùng đọc to lên truyền lịnh cho mọi người nghe.

[689] vì chữ 洗 tẩy có chữ 先 tiên là trước.

[690] Nhuế tạc, mộng vuông mà tra vào lỗ tròn thì không thể tra vào được, ngụ ý việc không đầu hợp với nhau.

[691] Quỷ-Cốc tử, cao-sĩ đời xưa, Quỷ-Cốc tiên-sinh là một chân-tiên đời xưa, họ Vương thị, từ đời Hiên-Viên, trải qua đời Thương, Chu, theo Lão-quân đi về phía tây đến Lưu-sa, cuối đời Chu lại trở về ở núi Quỷ-cốc, học -trò có hơn trăm người, chỉ có Tô-Tần Trương-Nghi không mộ thần-tiên theo học-thuật tung-hoành.

[692] Hoắc-Quang, người ở đất Bình-dương đời Hán, em của Hoắc-khứ-Bịnh, tự là Tử-Mạnh, dưới thời vua Vũ-đế làm Phụng-thường Đô-úy, rất được vua thân-thiết tin cậy. Khi Vũ-đế băng, Hoắc-Quang được di-chiếu cùng Kim-nhật-Đạn phò Chiêu-đế, được trao chức Đại-tư-mã, làm Đại tướng quân, được phong Bác-lục hầu. Vua còn bé, mọi việc chính đều do Hoắc-Quang quyết định. Khi vua Chiêu-đế băng, Hoắc-Quang đón Xương-ấp Vương Hạ lập lên ngôi. Xương-ấp Vương Hạ dâm đãng bị phế xuống. Hoắc-Quang đón Tuyên-đế lên ngôi.

Tính tình của Hoắc-Quang đoan chính, điềm tĩnh, cầm quyền trong 20 năm chưa từng có lỗi lầm gì. Nhưng quyền uy của Hoắc-Quang quá to, bà con thân-tộc đầy triều. Hoắc-Quang làm việc phế lập nhiều lần. Khi Hoắc-Quang mất, bà con thân-tộc cũng bị giết.

[693] Phong-tục thông nghĩa, tên sách, có tất cả 10 quyển, được gọi tắt là Phong-tục thông, có 1 quyển phụ-lục, do Ứng-Thiệu đời Đông-Hán soạn ra. Sách nầy khảo-luận điển-lễ giống như sách Bạch hổ thông nghĩa.

[694] Kiếu là chỗ biên-giới có phòng giữ, chớ không có nghĩa là xa.

[695] Chiết giản, các từ-điển đều giải nghĩa là tờ giấy vụn xé ra (không có giá trị). Đời xưa dùng thẻ tre (giản) để viết chữ. Đời Tần đã chế tạo-ra giấy, cho nên chữ giản là thẻ tre lại có nghĩa là tờ giấy để viết từ sau đời Tần.

[696] Văn-Trung-Tử, tên thụy riêng của Vương-Thông đời Tùy.

[697] Sơn đường tứ khảo, tên sách, có tất cả 128 quyển, bổ-di có 12 quyển, do Bành-Đại-Dực đời Minh soạn, trong sách chia ra 45 môn rất có điều-lý.

[698] Thạch lâm yến ngữ, tên sách, tất cả có 10 quyển, do Diệp-Mộng-Đắc đời Tống soạn, lại có một quyển Khảo-dị do Vũ-Văn-Thiệu-Đột soạn. Trong thời vua Huy-tông Diệp-Mộng-Đắc thường coi giữ chế-cáo của vua thường để tâm cứu xét triều chương quốc điển, cho nên sách nầy chép những điều nghe thấy xưa, phần nhiều có quan-hệ đến chuyện xưa, và rất tường-tận về quan-chế khoa mục.

Còn phần Khảo-dị của Thiệu-Đột thì viện dẫn văn xưa, bàn luận tường xác.

[699] Ngũ hoa phán sự. Theo cố sự đời Đường, tòa Trung-thư có việc về quân-quốc thì các quan Trung-thư xá nhân mỗi vị đều trình-bày ý-kiến mình rồi viết tên mình ở dưới gọi đó là ngũ hoa phán sự.

[700] Nghệ văn loại tụ, tên sách, có tất cả 100 quyển do nhóm Âu-Dương-Tuân vâng sắc chỉ soạn ra. Sách chia ra 48 môn, sự-loại đặt ở trước, thi văn đặt ở sau.

[701] Thiên Kỳ-phủ, kể việc quân-sĩ đi quân-dịch oán quan Tư-mã chỉ-huy.

[702] Bội huề, tên sách có 3 quyển do Quách-Trung-Thứ soạn, quyển thứ nhất luận đầy đủ về lục-thư hình thinh và lý-do đã biến sai; quyển trung và quyển hạ luận về nét chữ dị-đồng.

[703] Quách-Trung-Thứ, người đất Lạc-dương đời Tống, tự là Thứ-tiên, đầu tiên làm quan cho nhà Chu làm Dịch-học bác-sĩ, sau vào nhà Tống được trao chức Quốc-tử-giám chủ bộ, tinh về kinh Dịch lại giỏi viết chữ và vẽ tranh, thông về tự-học từ đời Ngụy đời Tấn trở lại. Ông có viết những sách: Hàn-giản, Bội-huề.

[704] Bạch hổ thông tức Bạch hổ thông nghĩa, tên sách có tất cả 4 quyển, do Ban-Cố đời Hán soạn, trong thời Hậu-Hán, Chương-đế xuống chiếu cho các nhà nho khảo định Ngũ kinh đồng dị ở Bạch-hổ quán chễ Bắc-cung, đặt tên sách là Bạch hổ thông đức luận, về sau vua xuống chiếu cho Ban-Cố soạn mới đặt ra tên sách là Bạch hổ thông nghĩa hay Bạch hổ thông. Sách nầy trưng dẫn Lục kinh truyện ký, phát-triển nhiều về vĩ sấm, phần nhiều lưu-truyền cổ-nghĩa, đến nay được các nhà khảo chứng căn-cứ vào.

[705] Ban Cố, người đất An-lăng đời Đông-Hán, con của Ban-Bưu, tự là Mạnh-Kiên, chín tuổi đã làm văn, lớn lên thì bác thông kinh sử, trong thời Minh-đế, làm chức lang, Điển hiệu bí thư, viết nối sách Hán-thư của cha hơn 20 năm mới thành, được người đời kính trọng, về sau đổi làm Huyền-vũ Tư-mã, soạn sách Bạch hổ thông nghĩa. Khi Đậu-Hiến đi đánh Hung-nô, Ban-Cố làm Trung-hộ quân. Đậu-Hiến bại binh, Ban-Cố bị bắt và chết trong ngục.

[706] Thần-Vũ bi, cũng gọi là Vũ-bi, tương-truyền do vua Hạ-Vũ khắc lúc trị nạn lụt. Bia có 73 chữ, không phải loại chữ triện và cũng không phải loại chữ khoa-đẩu.

[707] Thương-Hiệt, sử thần của Hoàng -đế, ông tổ đã bày ra chữ cổ văn của Trung-hoa.

[708] Sử-Trựu, quan Thái-sử của Chu Tuyên-vương làm ra 15 thiên chữ đại-triện.

[709] Lý-Tư, người ở đất Thượng-thái đời Tần, làm Thừa-tướng cho Tần Thủy-hoàng đã biến đổi chữ Trựu văn làm chữ tiểu triện. Khi Tần Thủy-hoàng băng, Lý-Tư nghe theo kế của Triệu Cao, sửa di chiếu, giết Thái-tử Phù-Tô, lập Tần-Nhị thế. Về sau bị Triệu-Cao vu-cáo, Lý-Tư bị chém ngang lưng ở chợ Hàm-dương.

[710] Tái-ký, bài văn của sử-quan chép mọi việc của liệt-quốc gọi là tái-ký. Thể văn tái-ký do Ban-Cố sáng lập.

[711] Thạch cổ văn, loại chữ khắc trên trống đá.

[712] Liệp-kệ, vua Tuyên-vương nhà Chu đi săn mùa xuân ở Kỳ-dương sai quan hầu đi theo khắc bài văn lên trống đá. Gọi là liệp-kệ (liệp, đi săn, kệ, bia đá tròn).

[713] Kích-môn, ngày xưa ở cửa cung có dựng cây kích. Đời Đường tư-gia của quan tam phẩm trở lên có dựng cây kích.

[714] Thư-đoán, tên sách, tất cả 3 quyển, do Trương-Hoài-Hoan đời Đường soạn, chép những thể chữ xưa và nay cùng tên người viết chữ đẹp.

[715] Trương-Hoài-Hoan, người ở đất Hải-lăng đời Đường, làm chức Tư-mã Ngạc châu, Hàn-lâm-viện cung phụng, có tài viết rất đẹp loại chữ chân, hành, tiểu triện, bát phân, thảo, soạn sách Thư-đoán, Cổ văn đại triện thư tổ, Thư-nghị, Lục thể luận, Dụng bút thập pháp, Bình thư dược thạch luận.

[716] Bút trận đồ, giải-thích phép viết chữ.

[717] Tiêu-Hà, người ở đất Bái đời Hán, kết-giao với Hán Cao-tổ lúc hàn-vi, theo Cao-tổ khởi binh, làm Thừa-tướng cho Hán-vương. Lúc Hán và Sở đánh nhau, Tiêu-Hà giữ Quan-trung, được phong đầu công Tán-hầu. Điển-chế luật-lịnh phần nhiều do Tiêu-Hà quy định.

[718] Tấn Vệ phu-nhân, cháu gái của Vệ-Hằng đời Tấn (một thuyết nói là con gái của Vệ-Quán, em Vệ-Hằng) vợ của Lý-Củ, cũng gọi là Lý phu-nhân, viết rất khéo chữ lệ thư và chính thư (Nguyên bản chép sai ra Tấn Vệ đại phu).

[719] Ngu-Thế-Nam, người ở đất Dư-diêu đời Đường, tự là Bá-thi, học với Cố-Dã vương, tính trầm tĩnh ít ham muốn, nghị-luận đứng đắn, văn-chương đẹp-đẽ dồi-dào, đầu tiên làm quan cho nhà Trần nhà Tùy chức Bí-thư lang, vào nhà Đường làm Ký thất tham quân cho Tần-vương. Ông có viết sách Bắc đường thư sao.

[720] Giải-Tấn, người ở đất Cát-thủy đời Minh, tự là Đại-thân, giỏi viết văn, có con mắt tài-tử, trong niên-hiệu Hồng-vũ đỗ Tiến-sĩ, làm quan đến chức Hàn-lâm học-sĩ, rất được vua Thành-tổ than mến tôn trọng, về sau mắc tội bị hạ ngục mà chết.

[721] Nguyên văn ở chỗ nầy chép thiếu, cho nên câu văn không trọn nghĩa. Chúng tôi không có bản nào khác nữa để bổ-túc mà dịch cho xuôi câu.

[722] Bát phân, lối chữ vuông tám phân do Vương-Thư-Trọng chế ra.

[723] Thảo thư, lỗi chữ viết tháu.

[724] Phi-bạch, lối chữ viết bút thế bay cất lên mà nét chữ thì trống không ở giữa.

[725] Hành thư, lối chữ do Di.xuyên Lưu-Đức-Thăng đời Hậu-Hán tạo ra, là chữ chính thư hơi biến sai.

[726] Chân thư, lối chữ chân tức chinh thư. (Nguyên bản chép thiếu thể chân thư, chúng tôi thêm vào chân thư cho đủ 8 thể)

[727] Vương Hữu-quân, tức Vương-Hy-Chi. (Xem lời chú về Vương-Hy-Chi ở trang sau).

[728] Chữ Khải, lối chữ chân thông hành hiện nay.

[729] Chung, tức Chung-Diêu, người ở đất Dĩnh-xuyên đời Tam-quốc, tự là Nguyên-thường, cuối đời Hán đỗ hiếu-liêm làm chức Thị trung Thượng thư bộc-xạ, vào triều Ngụy làm quan đến chức Thái-phó, viết chữ rất khéo.

[730] Họ Vương ở đây tức là Vương-Hy-Chi và Vương-Hiến-Chi.

Vương Hy-Chi, người ở đất Cối-kê đời Tấn, tự là Dật-thiếu, làm quan đến chức Hữu-quân Tướng-quân, người đời gọi là Vương Hữu-quân, viết chữ rất khéo, học viết chữ ở bên ao, nước ao phải đen vì mực. Viết chữ thảo chữ lệ thì cổ kim không ai sánh bằng.

Vương-Hiến-Chi, người ở đất Cối-kê đời Tấn, con của Vương-Hy-Chi, tự là Tử-kính, lúc trẻ làm châu-thừa, trải qua những chức Ngô-hưng Thái-thú, Trung-thư-lịnh, tính tình cao-siêu phong-lưu, viết chữ rất khéo, tuy không bằng cha. Người đời gọi hai cha con là Nhị Vương.

[731] Trí-Vĩnh, nhà sư ở chùa Vĩnh-hân-tự nước Trần thời Nam Bắc triều, hiệu là Vĩnh thiền-sư, người ở đất Cối-kê, họ Vương, dòng dõi của Vương-Hy-Chi, viết chữ rất khéo, viết lối chữ nào cũng tài, nhất là lối chữ thảo (Nguyên-tác chép sai ra Trí-Cầu).

[732] Ngu-Thế-Nam, đã chú ở trang trước.

[733] Âu-Dương-Tuân, người ở đất Lâm-tương đời Đường, tự là Tin-bổn, làm quan cho nhà Tùy đến chức Thái-thường bác-sĩ, vào nhà Đường làm chức Cấp-sự-trung, Thái-tử suất canh lịnh, Hoằng-văn quán học-sĩ, phong Bột-hải nam, học viết chữ với Vương-Hy-Chi, nhưng nét chữ cứng và hiểm hơn của Vương-Hy-Chi.

[734] Nhan-Chân-Khanh, người ở đất Cao-niên đời Đường, tự là Thanh-thần, học rộng, giỏi về từ-chương, viết loại chữ thảo chữ chính rất khéo, trong niên hiệu Khai-nguyên đỗ Tiến-sĩ, làm chức Thị-ngự-sử, Thái-thú Bình-nguyên, khởi binh dẹp giặc An-Lộc-Sơn. Khi Lý-Hy-Liệt làm phản, Nhan-Châu-Khanh đi hiểu-dụ bị Hy-Liệt ép phải đầu hàng. Ông bất khuất nên bị giết.

[735] Hoàng-đình kinh, tên bộ kinh của đạo Lão. Vân kiếp thất tiêm có ba loại: Hoàng-đình nội cảnh kinh, Hoàng-đình ngoại cảnh kinh, Hoàng-đình tuần giáp duyên thân kinh. Ngoài ra còn có Hoàng-đình dưỡng thần kinh, Hoàng-đình trung cảnh kinh, Hoàng-đình ngũ tạng lục phủ chân nhân ngọc trục kinh. - Hoàng là màu vàng ở trung-ương. Đình là chính giữa bốn phương, chỉ trong não, trong tim, trong tỷ, cho nên gọi là Hoàng-đình. Đó là sách dưỡng sinh của đạo-gia.

[736] Hoàng Sơn-cốc, người ở đất Phân-ninh đời Tống, tự là Lỗ-trực, hiệu là Sơn-cốc đạo-nhân, đỗ Tiến-sĩ, khéo về văn-chương, giỏi về thơ, viết chữ hành chữ thảo rất đẹp.

[737] Song câu, là một phép cầm bút để viết, lấy ngón trỏ và ngón giữa móc giữ lấy cán bút cho nên gọi là song câu.

[738] Hàn-uyển, Hàn-lâm-viện.

[739] Ngô-khê, khe nước ở phía tây-nam huyện Kỳ-dương thuộc tỉnh Hà-nam, chảy về phía bắc đổ vào sông Tương.

[740] Phiết, cách viết đưa nhanh ngọn bút sang bên tả.

[741] Nại, đưa ngọn bút nghiêng xuống bên hữu.

[742] Luân-Biển, tên người đẽo bánh xe.

[743] Trần My-công tức Trần-Kế-Nho, người ở đất Hoa đinh đời Minh, tự là Trọng-thuần, hiệu là My-công, giỏi thơ văn. Sách của ông có My-công bí kiếp.

[744] Ngư chẩm, xương giống 个 cổ văn chữ đinh 丁 ở đầu con cá (trong veo thấu quang).

[745] Minh giác, chất keo làm bằng da hay sừng thú (trong veo thấu quang).

[746] Lương khê mạn chi, tên sách có 10 quyển, do Phi-Cổn đời Tống soạn, 2 quyển đầu chép về điển-cố ở triều-đình, quyển thứ 3 chép việc lặt-vặt, quyển thứ 4 chép việc của Tô-Thức, quyển thứ 5 đến quyển thứ 9 phần nhiều khảo chứng sử truyện, bình-luận thi-văn, quyển chót luận việc thần quái.

[747] Ôn-công, tức Tư-mã-Quang, người ở Tốc-thủy hương thuộc Hạ-huyện ở Thiểm-châu đời Tống, tự là Quân-Thực, người đời gọi là Tốc-thủy tiên-sinh, trong niên-hiệu Bảo-nguyên đỗ Tiến-sĩ, làm quan đến chức Đoan-minh học-sĩ, phản-đối chép Thanh-miêu của Vương-An-Thạch, khi vua Triết-tông lên ngôi, ông vào làm Tể-tướng đổi hết tân-pháp của Vương-An-Thạch, ông mất tại chức, được tặng tước Ôn-quốc-công. Sách ông viết có: Tư trị thông giámĐộc lạc viên tập.

[748] Hồng liệt (hồng, to lớn; liệt, công nghiệp), công-nghiệp lớn-lao.

[749] Tập hy, ánh sáng.

[750] Trung-luận, tên sách, có 6 quyển, do Tử-Cán đời Hán soạn, sách của đạo nho, lời văn và ý nghĩa thanh-nhã đáng lưu-truyền trong đời.

[751] Tử-Cán, người ở Bắc-hải nước Ngụy đời Tam-quốc, tự là Vĩ-trưởng. Ông có viết sách Trung-luận.

[752] Huấn-cổ. Huấn là giảng dạy, nói hình dáng của vật cho người ta hiểu biết. Cổ là giải-thích những lời nói khác nhau của đời xưa và đời nay.

[753] Tiên, nêu rõ ý tứ của cổ-nhân hoặc lấy ý-kiến của mình mà phán-đoán khiến người ta phân-biệt được.

[754] Chú, giải-thích nghĩa lý.

[755] Sớ, dẫn giải cho thông nghĩa lý.

[756] Mao-thi, kinh Thi do Mao-công chú-thích giảng-giải, Mao-công tức Mao Hanh.

[757] Thái-Trầm, người ở đất Kiến-dương đời Tống, tự là Trọng-Mặc, lúc nhỏ giao-du với Chu-Hy, về ẩn cư ở Cửu-phong, được người đời gọi là Cửu-phong tiên-sinh. Sách của ông soạn có: Thư tập truyện, Hồng phạm Hoàng cực nội thiên.

[758] Hồ-An-Quốc, người ở đất Sùng-an đời Tống, tự là Khang-hầu, trong niên-hiệu Thiệu-thánh đỗ Tiến-sĩ, làm Thái-học bác-sĩ, trong thời vua Cao-tông, làm chức Trung-thư xá-nhân kiêm Thị-giảng. Ông có viết Xuân-thu truyện, Tư trị thông giảm cử yếu bổ di, Thượng thái ngữ lục.

[759] Trần-Hạo, người ở đất Đô-xương đời Nguyên, tự là Khả-đại, hiệu là Vân-trang, một hiệu nữa là Bắc-sơn, học rộng, háo cổ, ở ẩn không ra làm quan, có soạn sách Vân trang Lễ ký tập thuyết.

[760] Tam truyện tức Xuân-thu tam truyệnXuân-thu Tả truyện, Xuân-thu Công dương truyệnXuân-thu Cốc-lương truyện.

[761] Tản-quan, quan nhân tản rảnh-rang không có chức-vụ.

[762] Sơ học ký, tên sách, có tất cả 30 quyển, do nhóm Tứ-Kiện đời Đường vâng sắc chỉ của vua soạn ra, chép phần trọng yếu trong văn-chương kinh sử, sắp theo từng loại, chia ra 26 bộ, 315 mục, phần đầu là kể chuyện, phần giữa là sự đối, phần cuối là thi-văn, trích từ những cổ-thư từ đời nhà Tùy trở về trước.

[763] Hành đạo, thực-hành những điều mình đã học.

[764] Làm dân, trị dân.

[765] Sử-Ngư, Sử là tên chức quan. Ngư là tên. Quan Sử-Ngư tự cho mình không tiến-cử được người hiền và đuổi kẻ bất tiếu, khi sắp chết còn dặn con đem cái thây của mình khuyên can vua. (Vua truyền lịnh tẩn-liệm trọng hậu rồi theo lời ông Sử-Ngư, cử ông Cừ-Bá-Ngọc làm tướng mà bãi chức ông Di-Tử-Hạ). Cho nên Khổng-Tử khen là người ngay thẳng.

[766] Thiên Vô tương đại xa, phần Tiểu-nhã trong kinh Thi (nguyên bản chép thiếu 2 chữ...tương đại...).

[767] Thiên Văn-vương, phần Đại-nhã trong kinh Thi.

[768] Câu nầy, ở thiên Trẫm-lộ thuộc phần Đại-nhã trong kinh Thi.

[769] Câu nầy ở thiên Tiểu-mân thuộc phần Tiểu-nhã trong kinh Thi.

[770] Câu nầy ở thiên Văn-vương thuộc phần Đại-nhã trong kinh Thi.

[771] Câu nầy ở thiên Ký-túy thuộc phần Đại-nhã trong kinh Thi.

[772] Câu nầy ở thiên Xảo-ngôn thuộc phần Tiểu-nhã trong kinh Thi.

[773] Câu nầy ở thiên Tang-nhu thuộc phần Đại-nhã trong kinh Thi.

[774] Câu nầy ở thiên Thanh-nhăng thuộc phần Tiểu-nhã trong kinh Thi.

[775] Câu nầy ở thiên Hà-nhân-tư thuộc phần Tiểu-nhã trong Kinh Thi.

[776] Câu nầy ở quẻ Khiêm trong kinh Dịch.

[777] Câu nầy lấy ý quẻ Khiêm trong kinh Dịch.

[778] Câu nầy ở phần Văn-ngôn trong kinh Dịch.

[779] Câu nầy lấy ở phần Hệ-từ trong kinh Dịch.

[780] Câu nầy lấy ở quẻ Đại-súc trong kinh Dịch.

[781] Câu nầy lấy ý quẻ Ly trong kinh Dịch.

[782] Câu nầy lấy ý quẻ Thái kinh Dịch.

[783] Chu quan, tức sách Chu Lễ, cũng gọi là Chu quan kinh.

[784] Phong thinh, phong là phong tục tốt; thinh là tiếng tốt. – Thiên Tất-mệnh trong kinh Thư có câu: Chương thiện đan ác, thụ chi phong thinh. Nghĩa là: Làm sang điều lành, làm hỏng điều ác, dựng phong-tục tốt, nêu lên tiếng tốt.

[785] Lưu-Hâm, người đời Hán, con của Lưu-Hướng, tự là Tử-Tuấn, trong đầu niên-hiệu Kiến-binh, đổi tên là , tự là Dĩnh-Thúc, lúc đầu học Dịch rồi Cốc-lương Tả-truyện. Trong thời vua Thành-đế cùng với Lưu-Hướng lãnh chức Hiệu-bí-thư, sau khi Lưu-Hướng mất, lãnh Trung-lũy hiệu-úy, lúc Ái-đế lên ngôi, được Vươn-Mãng cử làm Thị-trung Thái-trung đại-phu, thành Kỵ-đô-úy, bị đổi ra ngoài làm Hà-nội Thái-thú, khi Vương-Mãng cầm quyền được phục chức Trung-lũy hiệu-úy, được phong Hồng-hưu-hầu, khảo định luật lịch, khi Vương-Mãng soán ngôi, được làm Quốc-sư. Về sau Vương-Mãng giết ba đứa con của Hâm. Lưu-Hâm âm mưu giết Vương-Mãng, việc bị bại lậu, Lưu-Hâm tự sát.

[786] Sư Khoáng, nhạc-sư nước Tấn đời Xuân-thu, tự là Tử-Dã, có thể phân biệt âm thinh mà biết lành dữ. Ông có viết sách Cầm kinh.

[787] Công-Thu, người thợ khéo tên Ban ở nước Lỗ đời Xuân-thu, cũng gọi là Lỗ Ban, tổ-sư nghề thợ-mộc.

[788] Do-Cơ, họ Dưỡng, tên Do-Cơ, tay bắn giỏi, làm quan Đại-phu nước Sở đời Xuân-thu, đứng cách lá cây liễu một trăm bước, bắn trăm phát trúng trăm lần. Nước Tấn nước Sở đánh nhau, Do-Cơ ra tài bắn cung, quân Tấn phải thua.

[789] Vương-Lương, người đánh xe giỏi đời Xuân-thu, làm quan Đại-phu cho nước Tấn.

[790] Trương-Hành, người ở đất Tây-ngạc đời Đông-Hán, tự là Binh-tử, làm văn rất giỏi, lúc ấy thiên-hạ thái-bình, chuộng xa xỉ. Trương-Hành cấu tứ trong 10 năm mới thành bài Nhị kinh phú ngụ ý can ngăn. Ông lại tinh-thông thiên-văn lịch-số.

[791] Đồ vĩ, sách thuật-số nói về những điều cảm-ứng.

[792] Cửu lưu, chín học phái xuất hiện ở Trung-quốc vào thời sau khi Khổng-Tử mất: 1) Nho-gia lưu. 2) Đạo-gia lưu. 3) Âm-dương gia lưu. 4) Pháp-gia lưu. 5) Danh gia lưu. 6) Mặc gia lưu. 7) Tung-hoành gia lưu. 8) Tạp gia lưu. 9) Nông gia lưu.

[793] Sấm lục, chép những lời sấm truyền báo việc ứng nghiệm về sau.

[794] Đồ sấm (Đồ, Hà đồ; sấm, lời ứng nghiệm về sau) lời tiên-tri sẽ ứng-nghiệm về sau.

[795] Vĩ thư, sách mượn kinh nghĩa đề giảng về bùa chú điềm ứng-nghiệm cuối đời Tây-Hán.

[796] Bí-phủ, chỗ chứa cất những đồ thư bí ký trong cung cấm.

[797] Vương-Mãng, người ở Đông-bình-lăng đời Hán, tự là Cự-Quân, vốn là cháu của Hiếu-Nguyên Hoàng-hậu, trong đầu niên-hiệu Vĩnh-thủy, được phong Tân-đô-hầu, người khiêm cung hạ sĩ, về sau làm quan Đại Tư-mã cầm quyền chính, đã đón lập vua Binh-đế, cho con gái làm Hoàng-hậu, một mình nắm hết quyền chính của triều-đình, gọi là An-Hán-Công, được ban cửu tích, về sau thí vua Bình-đế, lập Nhụ-tử-Anh, nhiếp chính, xưng là Giả Hoàng-đế, rồi soán ngôi tự lập làm vua, đổi quốc hiệu là Tân, đời gọi là Tân-Mãng, pháp lịnh phiền-phức hà-khắc, dân sống chẳng yên. Hán Quang-Vũ khởi binh ở Thung-lăng, đánh tan quân của Vương-Mãng ở Côn-dương, quân Hán tràn vào Trường-an. Vương-Mãng bị người lái buôn Đỗ-Ngu giết, làm vua được 15 năm.

[798] Phù-mệnh, điềm báo trước bậc vua chúa nhận mệnh trời lên ngôi trị vì thiên hạ.

[799] Xích phục phù, điềm lành ứng về vua Hán Quang-Vũ thu-phục lại giang sơn nhà Hán để lên ngôi.

[800] Kiền khôn tạc độ, một loại sách Dịch-vĩ, có 2 quyển, phân làm 2 thiên, thượng và hạ, trích những vĩ văn rất khó hiểu.

[801] Thông quái nghiệm, một loại sách Dịch-vĩ, có 2 quyển, quyển trên nói về cái lẽ khảo ứng, quyển dưới nói về ứng-nghiệm của quái khí.

[802] Nạp giáp, lấy thập can (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý) chỉ ra nạp vào bát quái (kiền, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài), như kiền nạp giáp nhâm, khôn nạp giáp quý...

[803] Quái khí, lấy những quẻ Dịch phân-phối vào khí-hậu của 12 tháng. Quái khí xuất phát từ Mạnh-Hy đời Hán, nhưng sách vở không lưu-truyền.

[804] Thế ứng, thuật-ngữ về Dịch-học, nói hào của quẻ tương-ứng.

[805] Ngũ-hành, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

[806] Ngũ-nhạc, năm dãy núi cao lớn nhất của Trung-quốc: Thái-sơn là Đông-nhạc, Hoa-sơn là Tây-nhạc, Hoắc-sơn là Nam-nhạc, Hằng-sơn là Bắc-nhạc, Tung-sơn là Trung-nhạc.

[807] Bát-phong, gió ở tám phương: đông, tây, nam, bắc, đông-nam, tây-nam, đông-bắc, tây-bắc.

[808] Cửu-châu, chín châu của Trung-quốc: Ký, Duyễn, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung.

[809] Cửu-đạo, những con đường giao-thông ở chín châu.

[810] Tứ-duy, bốn góc đông, nam, tây, bắc phối với kiền, khôn, cấn, tốn.

[811] Tứ-độc, bốn con sông to của Trung-quốc đổ ra biển: Trường-giang, Hoàng-hà, sông Hoài, sông Tế.

[812] Phương-trạch (phương, vuông; trạch, cái đầm), cái đầm vuông để tế Đất.

[813] Tứ-du: Lập-xuân tây du, Lập-hạ bắc du, Lập-thu đông du, Lập-đông nam du.

[814] Thương tức Bốc-Thương, thầy Tử-Hạ, học-trò của Khổng-tử.

[815] Sâm tức Tăng-Sâm, thầy Tăng-tử, học trò của Khổng-tử.

[816] Kinh-Phòng, người ở đất Đốn-khâu đời Hán, tự là Quân-minh, giỏi âm-nhạc, chuyên về Dịch-học, về sau thi đỗ Hiếu-liêm làm chức lang, ra làm Ngụy thái-thú, truyền cái học về Dịch cho Ân-Gia, Diêu-Bình và Thừa-Bình, do đó về Dịch có cái học của Kinh-Phòng. Sách của ông soạn có Kinh thị Dịch truyện.

[817] Du-hồn, vật tích tụ cùng cực thì phân-tán, lúc sắp phân-tán, linh-hồn trôi nổi lìa khỏi vật hình mà cải biến, sinh biến là chết, thành biến là hư thối.

[818] Nội quái, một quẻ Dịch (6 hào) do hai quẻ đơn hợp lại, quẻ ở dưới gọi là nội quái (quẻ ở trong), quẻ ở trên gọi là ngoại quái (quẻ ở ngoài). Thí-dụ quẻ Thái Image, quẻ kiền ☰ ở dưới là nội quái, quẻ khôn ☷ ở trên là ngoại quái.

[819] Quy hồn, âm hồn trở về. Chu Dịch có quẻ Quy hồn.

[820] Tiêu-Diên-Thọ, người ở đất Lương đời Hán, tự là Diên-Thọ, trong thời vua Hán Chiêu-đế làm chức Lịnh ở Thiếu-hoàng, có nhiều thành-tích về chính-trị, được đổi đi nơi khác, nhưng nhân-dân cảm mến xin lưu ông ở lại. Kinh-Phòng học Dịch với ông Diên-Thọ, Diên-Thọ học Dịch với ông Mạnh-Hy.

[821] Quản-Tử, tức Quản Di-Ngô, Quản-Trọng người đời Xuân-thu, đã giúp Tề Hoàn-công làm nên nghiệp bá (Xem chú ở trước).

[822] Thương-Ưởng, công-tử dòng thứ của nước Vệ đời Chiến-quốc, họ Công-tôn, thích cái học về pháp-luật, làm tướng cho Tần Hiếu-công định biến pháp-lịnh, lập chính-sách phú-cường, được phong ở đất Thương, hiệu là Thương-quân, làm tướng cho nhà Tần trong 10 năm, ngoài đường không ai nhặt của rơi, nhưng dùng pháp-luật quá nghiêm khiến hàng quý-thích đại-thần nhiều oán-hận, khi Hiếu-công mất ông bị án tử-hình cho xe liệt phanh thây.

[823] Hàn-Phi, đã chú ở trước.

[824] Vương-đạo, lấy đức cảm-hóa người mà thống-nhất cả nước. Bá-đạo là lấy sức ép người mà làm lãnh-tụ chư-hầu.

[825] Quản-Tử, tên sách, có tất cả 24 quyển, sách xưa đề là Chu-Quản-Trọng soạn, nhưng trong sách chép nhiều việc sau đời Quản-Tử vì người đời sau có chép phụ thêm vào, nguyên bổn có 86 thiên, nay mất 10 thiên.

[826] Tăng Củng, người ở đất Nam-phong đời Tống, tự là Tử-Cố, trong niên-hiệu Gia-hựu đỗ Tiến-sĩ, làm chức Trung-thư xá-nhân. Ông có soạn sách Nguyên phong loại cảo.

[827] Lão-Tử, họ Lý, tên Nhĩ, tự là Bá-dương, tên thụy là Đam, làm quan Trụ hạ sử đời nhà Chu, người nước Sở, sống vào khoảng cuối năm 570 và đầu năm 400 trước Tây-lịch. Ông soạn ra sách Đạo-đức kinh còn truyền lại ở thế.

[828] Liệt-Tử, một triết-gia đời Chiến-quốc, theo chủ-nghĩa của Lão-Tử và Trang-Tử, không quản việc đời, thích an-nhàn thảnh-thơi.

[829] Trang-Tử, tên Chu, tự là Tử-hưu, sống đồng thời với Lương Huệ-vương và Tề Tuyên-vương, làm chức lại, lấy chủ-nghĩa yếm-thế dạy đời, có nhiều tư-tưởng cao-siêu phóng-đạt.

[830] Tam-hoàng: 1) Thiên-hoàng, Địa-hoàng và Nhân-hoàng. 2) Toại-nhân, Phục-hy và Thần-nông. 3) Phục-hy, Thần-nông và Chúc-dung. 4) Phục-hy, Thần-nông và Nữ-oa.

[831] Ngũ-đế: 1) Hoàng-đế, Chuyên-Húc, Đế-Cốc, Đường-Nghiêu, Ngu-Thuấn. 2) Thiếu-Hạo, Chuyên-Húc, Cao-Tân, Đường-Nghiêu, Ngu-Thuấn.

[832] Chương Cốc thần bất tử trong sách Lão-Tử, nguyên bổn chép sai ra Quỷ cốc bất tử.

[833] Lão-Tử, tên sách, tức sách Đạo-đức kinh.

[834] Trụ-sử tức Trụ-hạ-sử, chức quan đời nhà Chu cũng như chức Thị-ngự-sử đời nhà Hán, thường đứng hầu ở dưới cột điện. Lão-Tử làm quan Trụ-hạ-sử.

[835] Câu-Tiển, vua nước Việt thời Đông-Chu bị vua nước Ngô là Phù-Sai bắt cả vợ chồng về nhốt trong ngục đá, và bắt đi chăn ngựa, sau giả vờ tận trung với vua Ngô mới được tha về nước. Để nuôi chí phục thù, Câu-Tiển nằm gai nếm mật, mùa đông ôm giá, mùa hạ cầm lửa, lo tu binh mãi mã, chiêu-đãi hào-kiệt, dâng nàng Tây-Thi để mê-hoặc vua Ngô, cuối cùng rửa được quốc-thù, đem binh tràn vào và chiếm lấy nước Ngô.

[836] Thát-Bạt-Khuê, tức Đại Vũ-đế nhà Hậu-Ngụy, ông nội làm Đại-công, khi nước Đại mất, Thát-Bạt-Khuê còn bé, nương theo mẹ và cậu sau được các bộ suy-tôn làm Đại-vương và dựng lên nước Ngụy, đóng đô ở Bình-thành, dẹp yên các bộ-lạc Lưu-Hiển, đánh nước Yên, vây Trung-sơn, phá Mộ-Dung-Bảo, nhiều vũ công.

[837] Doanh Tần, nhà Tần họ Doanh, cho nên gọi là Doanh Tần.

[838] Tùy Dượng-đế, con thứ của Tùy Văn-đế, tên Quảng và tên Anh. Văn-đế phế Thái-tử Dũng, lập Quảng làm Đông-cung Quảng bất nhân vô đạo, Văn-đế muốn truất-phế ngôi Đông-cung của Quảng. Quảng liền giết cha lên ngôi, xây cất xa-xỉ, sưu cao thuế nặng, các vị anh-hùng đều nổi lên chống-đối mà Tùy Dượng-đế vẫn ham mê tửu sắc, về sau bị giết ở Giang-đô.

[839] Sài-Chu tức Sài-Vinh, vua nhà Chu đời Ngũ-đại, thông hiểu sử-sách, có tài cai-trị, nối ngôi vua Thái-tổ lấy đất Tần, đất Lũng, dẹp yên Hoài-hữu lại lo lễ nhạc, định chế-độ, sùng nho-giáo, bài Phật-giáo, dẹp chùa trong nước, phá tượng Phật lấy đồng đúc tiền, ở ngôi được 6 năm thì mất.

[840] Liệt-Tử, tên sách, tất cả có 8 quyển, xưa đề là Liệt-Ngự-Khâu đời Chu soạn ra, được Trương-Thầm đời Tấn chú-giải. Lưu-Hướng nói cái học của Liệt-Tử vốn ở Hoàng-đế và Lão-Tử, lại nói hai thiên Mục-vươngThanh-vấn không phải là lời của người quân-tử. Sách nầy phần nhiều do người đời sau chen thêm vào.

[841] Lệ ngữ, tức biền ngẫu đối nhau, Có từng cặp hai câu đối nhau.

[842] Hạt, áo vải của người nghèo.

[843] Hạc, một loài chồn, da dùng làm áo rất ấm.

[844] Lữ-thị Xuân-thu, tên sách, cũng gọi là Lữ-lãm, có tất cả 26 quyển, xưa đề là Tần Lữ-Bất-Vi soạn, sự thật Lữ-Bất-Vi khiến các môn-khách làm ra, đại để lấy đạo nho làm chủ-yếu, có tham bác đạo gia, nhưng dẫn-chứng có nhiều chỗ sai lầm.

[845] Án-Tử Xuân-thu, tên sách, có tất cả 8 quyển, không thể khảo-xét ai là soạn-giả, xưa đề là Án-Anh soạn, vì trong sách chép những việc về Án-Anh, có lẽ người đời sau góp nhặt thành sách và dựa theo đó biên là Án-Anh soạn. Sách Hán-chí chép là Án-Tử, liệt vào sách Nho-gia, nhưng sách Sử-kýTùy-chí đều gọi là Án-Tử Xuân-thu.

[846] Lý-Tả-Xa, người đời Hán, đầu tiên làm quan nước Triệu được phong Quảng-vũ quân. Khi Hàn-tín và Trương-Nhĩ đánh nước Triệu, vua nước Triệu là Thành-An quân Trần-Dư không dùng kế của Lý-Tả-Xa cho nên bị hại. Hàn-Tín phá được nước Triệu, chiêu-mộ được Lý-Tả-Xa, dùng kế của Lý-Tả-Xa hạ những thành của nước Yên nước Tề.

[847] Cát-thiên thị, hiệu vua đời xưa, không nói mà tự tin, không hóa mà tự hành.

[848] Cao-Dụ, người đời Đông-Hán, làm chức Bộc-dương-lịnh, có soạn sách Hiếu kinh giải và chú-thích sách Chiến-quốc sách, Lữ-thị Xuân-thu, Hoài-Nam-Tử.

[849] Tố-thư, tên sách, có 1 quyển, xưa đề là Hoàng-Thạch-Công soạn, Trương-Thương-Anh đời Tống đã chú thích, đại-ý lấy đạo-đức, nhân, nghĩa, lễ làm nhất thể. Trương-Thương-Anh lấy thuyết của Lão-Tử mà chú-thích. Nhưng bổn văn và chú văn cũng có nhiều chỗ như do một cây bút viết ra, cho nên có người nghi-ngờ rằng Trương-Thương-Anh soạn ra và ngụy-thác cho Hoàng-Thạch-Công.

[850] Âm-phù-kinh, tên sách, có 1 quyển, xưa đề là Hoàng-đế soạn. Theo Kinh tịch chí trong Tùy-thư, loại sách về binh gia có Thái-công âm phủ kiềm lục, 1 quyển, Chu-thư âm phù 9 quyển. Theo Lịch đại sử chí, thì Chu thư âm phù là sách binh-thư, còn sách Âm phù kinh là sách đạo gia. Sách nầy nay được Thái-công, Phạm-Lãi, Quỷ-Cốc-Tử, Trương-Lương, Gia-Cát-Lượng, Lý-Tuyên chú thích.

Sách Thái-công âm phù là sách đạo gia chớ không phải sách binh gia.

Chu-Hy đời Tống có soạn sách Âm phù kinh khảo dị, 1 quyển, nói lúc ấy có những lời nói tinh thâm, nếu không phải là người sâu-sắc thì không thể viết sách ấy nổi.

Hạ-Nguyên-Đinh có soạn sách Âm phù kinh giảng nghĩa 4 quyển với thuyết lấy đan-pháp giải-thích âm phù.

[851] Tam-lược, tên sách, có tất cả 3 quyển, sách xưa đề là Hoàng-Thạch-Công soạn, đó là sách của Hoàng-Thạch-Công trao cho Trương-Lương ở trên cầu để học-tập. Nhưng lời văn trong sách không giống đời Tần đời Hán, có lẽ người đời sau đã ngụy thác ra.

[852] Trương-Lương, người nước Hàn đời Hán, tự là Tử-Phòng, ông tổ 5 đời của Trương-Lương làm Tể-tướng nước Hàn. Khi nhà Tần diệt nước Hàn, Trương-Lương đem hết tiền của ra tìm người báo thù cho nước Hàn, được người lực-sĩ âm-mưu ám-hại Tần Thủy-hoàng ở Bạc-lăng-sa. Việc thất bại, Trương-Lương đổi tên họ trốn tránh ở Hạ-bì, học binh-pháp với Hoàng Thạch-Công, giúp Hán Cao-tổ diệt Hạng-Vũ, định yên thiên-hạ, được phong Lưu-hầu, học thuật tịch cốc của thần-tiên.

[853] Trần-Bình, người ở đất Dương-vũ đời Hán, tự là Nhu-Tử, lúc trẻ nhà nghèo ham thích cái thuật của Hoàng-đế và Lão-tử, giúp Hán Cao-tổ định yên thiên-hạ được phong Khúc-nghịch-hầu. Khi Hiểu-Huệ đế lên ngôi, làm Tả Thừa-tướng. Khi Lữ-hậu mất, Trần-Bình và Chu-Bột lập mưu giết vây cánh của họ Lữ, lập Hiến-Văn đế, làm yên nhà Hán.

[854] Lục-Giả, người nước Sở đời Hán, có tài biện-thuyết, theo Hán Cao-tổ định yên thiên-hạ, đi sứ Nam-Việt chiêu-dụ Triệu-Đà của Nam-Việt, khi trở về được phong Thái-trung đại-phu, phụng mệnh biên soạn duyên cớ nhà Tần thì mất nhà Hán thì hưng thành sách Tân-ngữ có 12 thiên, lúc Lữ-hậu cầm quyền, thác bịnh ở nhà về sau cùng Trần-Bình bày kế diệt trừ vây cánh của họ Lữ. Khi Hiếu Văn-đế lên ngôi, Triệu-Đà xưng đế, Lục-Giả lại đi xứ sang Nam-Việt chiêu dụ Triệu-Đà làm chư-hầu của nhà Hán.

[855] Tân-ngữ, tên sách, do Lục-Giả đời Hán soạn.

[856] Thất-thiên, tức là sách Mạnh-Tử thất-thiên của Mạnh-Kha viết.

[857] Trần-Thắng, người ở đất Dương-thành đời Tần, tự là Thiệp, đã khởi binh chống lại nhà Tần trong thời Tần Nhị-thế, các quận huyện đều theo về. Trần-Thắng tự lập làm Sở-Vương, thế lực rất bành-trướng, về sau bị tướng nhà Tần là Chương-Hàm đánh bại, và bị Trương-Giả giết để đầu hàng quân Tần.

[858] Khổng-Phụ, người đời Tần, cũng gọi là Tử-Phụ, tự là Giáp, là Tử-Ngư, là cháu 9 đời của Khổng-Tử, thông hiểu lục nghệ, làm danh-sĩ ở nước Ngụy. Khi Tần Thủy-hoàng gồm thâu thiên-hạ, Khổng-Phụ được triệu làm Lỗ quốc Văn Thông quân, làm chức Thiếu-phó. Khi Lý-Tư đề nghị đốt sách, Khổng-Phụ giấu cất những sách Luận-ngữ, Thượng-thư, Hiếu-kinh trong vách ở ngôi nhà thờ của tổ-tiên, ẩn trốn ở núi Tung-sơn. Về sau Trần-Thiệp (tức Trần-Thắng) khởi binh rước Khổng-Phụ làm Thái-phó. Khổng-Phụ thác bệnh lui về, mất ở nước Trần, có viết 20 thiên sách, gọi là Khổng-Tùng-Tử.

[859] Khổng-Tùng-Tử, tên sách, có tất cả 3 quyển, xưa đề là Khổng-Phụ soạn, chép những lời nói của Khổng-Tử, Tử-Thượng, Tử-Cao, Tử-Thuận được 20 thiên, lại có những bài phú của Khổng-Tang phụ thêm ở cuối quyển.

Chu-Hy bảo văn khí trong sách Khổng-Tùng-Tử yếu đuối không giống như của thời Tây-Hán.

[860] Sách Hàn thi ngoại truyện có câu: Thiên-tử cư quảng hạ chi hạ, duy trướng chi nội, chiên nhân chi thượng 天子居廣廈之下幃帳之内旃茵之上. Nghĩa là Vua ở dưới nhà lớn, ở trong màn trướng, ở trên thảm nệm.

[861] Hàn chi ngoại truyện, tên sách, có tất cả 10 quyển do Hàn-Anh đời Hán soạn. Hàn-Anh suy ý nghĩa của nhà thơ trong kinh Thi làm Nội-truyệnNgoại-truyện. Nội-truyện đã thất-lạc từ lâu, nay chỉ còn Ngoại-truyện. Sách nầy dẫn những cổ sự cổ ngữ chứng-minh bằng lời lẽ trong kinh Thi.

[862] Danh-ngôn, lời nói hay, lời nói đúng.

[863] Cách-luận, như cách-ngôn, lời nói đứng-đắn có thể làm phép-tắc.

[864] Trọng-Thường-Thống, người ở đất Cao-bình đời Đông-Hán, tự là Công-lý, lúc trẻ ham học, tính ngay thẳng dám nói, người ít nói, người đời cho là cuồng-sinh, có viết sách Xương-ngôn.

[865] Tuân-Duyệt, người ở đất Dĩnh-xuyên đời Đông-Hán, tự là Trọng-Dự, 12 tuổi đã thuộc kinh Xuân-thu, nhớ dai, tính trầm tĩnh, ưa viết sách, trong thời vua Hán Hiến-đế, làm chức Thị-giảng trong cung cấm, rồi đổi làm Bí-thư Giám-thị-trung, lúc ấy quyền chính về tay Tào-Tháo, nhưng chí của Tuân-Duyệt vẫn trung-thành với nhà Hán, cho nên mưu kế không được dùng, bèn làm 5 thiên sách Thân-giám, lại y theo thể Tả-truyện làm 13 thiên sách Hán-kỷ, lời gọn, việc rõ, biện-luận nhiều điều hay đẹp.

[866] Dịch theo lời giải nghĩa chữ ngưỡng mạt trong từ điển Từ-hải.

[867] Kê khẩu ngưu hậu, thà làm mỏ gà chứ không làm đít bò. Mỏ gà tuy bé mà là chỗ nuốt đồ ăn, còn đít bò tuy to mà là chỗ xuất phân.

[868] Chiến-quốc sách, tên sách, gọi tắt là Quốc-sách, cũng gọi là Đoản trường thư, Lưu-Hướng đời Hán sưu-tập những việc mà các nước chép trong thời Chiến-quốc trước lúc nhà Tần đốt sách, chia ra Tây-Chu, Đông-Chu, Tần, Sở, Yên, Tề, Tam Tấn, Tống, Vệ, Trung-sơn, tất cả 12 nước, gọi là Chiến-quốc sách. Tư-Mã-Thiên viết sách Sử-ký chọn lấy lời văn của Chiến-quốc sách rất nhiều.

[869] Luận-ngữ, tên sách, chép lời của Khổng-Tử ứng đáp với các học-trò cùng với người đương thời và những lời của học-trò của Khổng-Tử hỏi đáp lẫn nhau. Khi Khổng-Tử mất rồi, các học-trò sưu-tập lại và biên thành sách gọi là Luận-ngữ hay Lỗ-luận.

[870] Đại Đái lễ, tên sách, cũng gọi là Đại Đái ký, do Đái-Đức nhà Hán biên chép.

[871] Nguyên văn: Bách thảo quyền dư. - Quyền dư là nói cỏ cây bắt đầu mọc mầm đâm tượt.

[872] Thụy trĩ, chim trĩ báo điềm lành.

[873] Tuế-tinh, tức Mộc-tinh, người đời xưa tin rằng sao Tuế một năm đi một thứ, xoay trọn một vòng trời trong 12 năm.

[874] Đến tháng giêng thì chuôi sao Bắc-đẩu chỉ cung dần, suy ngược lên thì tháng chạp chuôi sao Bắc-đẩu chỉ cung sửu.

[875] Ninh-Thích, người nước Vệ, thời Xuân-thu.

[876] Ứng-Thiệu người ở đất Nhữ-Nam đời Đông-Hán, tự là Trọng-Viễn, học rộng, nhiều kiến-văn, trong thời vua Hán Linh-đế làm Thái-thú Thái-sơn. Lúc ấy bắt đầu dời đô về đất Hứa, điển-chương đều thất-lạc, Ứng-Thiệu viết sách Hán quan lễ nghi cổ sự, chế-độ của triều-đình phần nhiều noi theo đó. Ông có soạn sách Phong tục thông, Trung Hán tập tự.

[877] Lạn, tươi sáng.

[878] Cán, xương ống chân từ đầu gối đến bàn chân.

[879] Hạ-Kiệt, vua cuối đời nhà Hạ, tên Quý, bạo ngược hoang dâm vô độ, bị vua Thành-Thang đánh bại ở Minh-điểu và đuổi ra Nam-sào. Nhà Hạ mất.

[880] Thương-Trụ, vua cuối đời nhà Thương, con của Đế-Ất, tên Thụ-Hạnh, tự là Thụ-đức, dũng lực hơn người, mẫn tiệp giỏi biện luận, thích rượu háo sắc, bạo ngược vô đạo bị vua Vũ-vương nhà Chu đánh bại, tự thiêu mà chết. Nhà Thương mất.

[881] Tức Ngô Phù-Sai.

[882] Lữ-lãm, tức sách Lữ-thị Xuân-thu.

[883] Quý-Bố, người thời Sở Hán tranh hùng, làm tướng cho Hạng-Vũ lắm lần làm cho Hán Cao-tổ khốn cùng. Khi Hạng-Vũ mất rồi, Quý-Bố cạo đầu xiềng cổ bán mình ở Lỗ Chu-gia. Lỗ Chu-gia nói với Đằng-công khuyên Hán Cao-tổ tha tội cho Quý-Bố. Hán Cao-tổ triệu Quý-Bố cho làm chức lang.

[884] Phàn-Khoái, người ở đất Bái đời Hán, đầu tiên sống với nghề làm thịt chó, sau theo vua Hán Cao-tổ khởi binh, lắm lần lập chiến-công, được phong Hiền thành quân, Hán Cao-tổ nhập quan, muốn ở trong cung thất nhà Tần, Phàn-Khoái can ngăn mới trở về Bá-thượng. Hạng-Vũ với Hán Cao-tổ gặp nhau ở Hồng-môn, Phạm-Tăng muốn giết Cao-tổ, Phàn-Khoái cầm thuẫn sấn vào chê cười Hạng-Vũ, Hán Cao-tổ thoát nạn. Hán Cao-tổ lên ngôi, phong Phàn-Khoái tước Vũ-dương hầu.

[885] Chi, loại cỏ thần, một thứ nấm mọc trên cây khô, sách Bổn-thảo nói có sáu loại cỏ chi: xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, tía, người xưa cho là loại cỏ báo điềm lành, uống cỏ chi sẽ thành tiên, cho nên gọi là linh chi.

[886] Cam-tuyền cung, cung Cam-tuyền ở trên núi Cam-tuyền sơn huyện Thuần-hóa, tỉnh Thiểm-tây, cũng gọi là cung Vân-dương và cung Lâm-quang, vốn là Ly-cung của nhà Tần, Hán vũ-đế lại xây cất thêm những cung Thông-thiên, Cao-quang, Nghinh-phong, để mỗi năm tránh nắng hạ ở đấy.

[887] Cung đồng, tớ trẻ tuổi ở trong cung.

[888] Hiệu, nguyên bản chép sai ra 効, đúng là 效.

[889] Án điệp, nguyên bản chép sai ra 桉牒, đúng là 案諜.

[890] Huyền khí, không khí, khí trời.

[891] Du, dáng đẹp-đẽ.

[892] Tra sách Từ-hải, mục Tượng tái du, thấy nguyên bản chép thiếu 3 chữ bạch tập tây.

[893] Phân viên, dáng rất nhiều.

[894] Thù ông, lông lạ lùng ở cổ chim.

[895] Cảnh-tinh, sao Cảnh-tinh, hình-trạng vô thường xuất hiện ở nước có đạo-đức.

[896] Tín-tinh tức sao Thổ-tinh hay sao Trấn-tinh.

[897] Mâu, đồng đẳng, ngang bằng nhau.

[898] Khai hạp (dương mở ra thì sáng, âm đóng lại thì tối) tức Kiền-khôn, âm dương, trời đất.

[899] Bổn kỷ, trong lịch-sử phần chép những việc của đế-vương.

[900] Công-tôn-Hoằng, người ở đất Tiết đời Hán, tự là Quý-Tề, lúc trẻ làm ngục-lại, có tội bị miễn chức, nhà nghèo phải đi chăn heo, năm hơn 40 tuổi mới học Xuân-thu tạp-thuyết, lúc đầu đời vua Hán Vũ-đế, làm bác-sĩ. Vua xuống chiếu trưng dụng người có văn-học, Công-tôn-Hoằng vào đối sách, được tuyển đệ-nhất, đổi làm chức Thừa-tướng, được phong làm Bình-tân-hầu, bổng lộc đều đem ra đãi tân khách, còn mình thì ăn gạo lứt. Bề ngoài thì lành, trong lòng thì hiểm, Công-tôn-Hoằng đã giết Chủ-Phụ-Yển và đổi Đổng-trọng-Thư vào Giao-tây.

[901] Át kỳ kinh, tên sách, có 1 quyển, cũng gọi là Át cơ kinh, bản xưa đề là Phong Hậu soạn, được Công-tôn-Hoằng đời Hán chú-giải, những sách Hán-chí, Tùy-chí, Đường-chí đều không chép, Tống chí mới chép và tường khảo, là quyển sách đầu tiên nói về việc binh.

[902] Xa kỵ, danh hiệu của tướng-quân đời Hán.

[903] Tài quan, chức Vũ-biền.

[904] Hổ-phù, binh phù làm thành hình con cọp.

[905] Vệ-Thanh, người ở Bình-dương đời Hán, tự là Trọng-Khanh được làm Đại-trung đại-phu, đổi làm Xa kỵ tướng quân, bảy lần đánh Hung-nô, uy danh chấn động tận cõi xa, được phong Đại-tướng-quân Trường-binh-hầu, cưới Bình-dương công-chúa.

[906] Hoắc-Khứ-Bịnh, người ở đất Bình-dương đời Hán, giỏi cỡi ngựa bắn cung, trong thời vua Hán Vũ-đế làm Phiêu-diêu hiệu-úy, trước sau, có 6 lần đánh Hung-nô đại thắng, được trao chức Phiêu kỵ tướng quân, phong Quán-quân-hầu.

[907] Thái-thường, một trong cửu khanh đời Hán coi giữ lễ-nghi trong tông-miếu.

[908] Tinh, thứ cờ có gắn đuôi bò ở đầu gù.

[909] Câu nầy, nguyên văn chép thiếu một vài chữ, chúng tôi phải lấy ý mà dịch cho câu văn có đủ nghĩa.

[910] Dật Chu-thư, tức sách Chu-thư, là sử nhà Chu.

[911] Kim-mã Bích-kê, trong thời Hán Tuyên-đế, ở Ích-châu có thần Kim-mã Bích-kê, vua mới sai quan Giám-thị đại-phu Vương-Bao làm sứ-giả cầm cờ tiết đến cầu. Nay ở tỉnh Vân-nam, phía đông huyện Côn-minh có núi Kim-mã, phía tây-nam có núi Bích-kê, hai ngọn núi đối nhau, tương truyền là nơi thờ thần Kim-mã và thần Bích-kê. Thần Kim-mã giống hình con ngựa, thần Bích-kê giống hình con gà.

[912] Vương-Bao, người ở đất Thục đời Hán, tự là Tử-uyên, trong thời vua Hán Tuyên-đế bị triệu vào triều ứng chiếu làm bài Thánh chúa đắc hiền thần tụng, lại được trao chức Gián-nghị đại-phu, sau phụng sứ đến Ích-châu cúng tế thần Kim-mã Bích-kê. Ông có làm những bài phú Cam-tuyền, Động-tiêu còn truyền ở đời.

[913] Phiêu diễu, dáng cao xa, dáng mơ-hồ không rõ-ràng, có có không không.

[914] Nam hoang, miền Nam xa-xôi.

[915] Trần-Phiền, người ở Binh-dư đời Đông-hán, tự là Trọng-cử, người ngay thẳng nghiêm-nghị, tiết-tháo cao-khiết, trong thời Hán Hoàn-đế làm Thái-thú ở Lạc-an ở Dư-chương, làm đến chức Thái-úy. Khi vua Linh-đế lên ngôi, Đậu Thái-hậu lâm triều, ông được làm chức Thái-phó, được phong Cao dương-hầu, cùng với cha của Đậu-hậu là Đậu-Vũ lo việc triều-chính, trưng dụng danh hiền, kẻ-sĩ đều theo về. Về sau cùng Đậu-Vũ mưu giết bọn hoạn quan Tào-Tiết Vương-Phủ, bị họ sửa chiếu giết chết.

[916] Bàng-Thống, người ở đất Tương-dương nước Thục đời Tam-quốc, tự là Sĩ-nguyên, Tư-Mã-Huy khen ngợi gọi là Phụng-sồ (chim phụng con), được Thục Tiên-Chủ cho giữ Lôi-dương, về sau đánh Lạc-huyện bị trúng tên mà chết.

[917] Câu của Tuân-tử trong thiên Nghị-binh có chữ diên mà nguyên bản chép thiếu.

[918] Đại phương (đại, to, phương, vuông), đất (Theo quan-niệm người xưa, trời tròn đất vuông).

[919] Tôn-Hạo, vua mất nước của Đông-Ngô thời Tam-quốc, cháu nội của Tôn-Quyền, dâm đãng bạo ngược không trau giồi đức chính. Quân Tấn đánh xuống phương nam, hãm kinh-đô Kiến nghiệp, Tôn-Hạo ra đầu hàng. Nhà Tấn phế Tôn-Hạo xuống làm Quy-mệnh hầu. Nước Ngô mất.

[920] Từ-Lăng, người thời Nam-triều, tự là Hiếu-mục, lúc bé thông-minh viết được văn, đầu tiên làm quan cho nhà Lương, làm Thông trực tán kỵ thị lang, vào nước Trần làm quan Ngự-sử trung-thừa, lúc ấy An-thành-vương cầm quyền, hoành-hành, Từ-Lăng liền đàn hặc, danh tiếng rạng-rỡ từ đấy. Sách của Ông có: Từ Hiếu-mục tập, Ngọc đài tân vịnh.

[921] Thôi-Ân, người ở đất An-bình đời Đông-Hán, tự là Đình-bá, học rộng có tài, làm văn rất giỏi, lúc trẻ càng nổi danh với Ban-Cổ và Phó-Nghị, viết nhiều thơ phú minh tụng

[922] Bình trật, trật-tự công việc làm đã đồng đều.

[923] Tây thành, mùa thu vị ở tây, lúc ấy vạn vật đều thành thục.

[924] Ô! Tiếng than khen.

[925] Hoàng, lớn-lao.

[926] Liệt, công-nghiệp.

Câu Ô! Hoàng duy liệt bắt chước theo câu Ô! Hoàng Vũ-vương, Vô cạnh duy liệt (nghĩa là: Ôi!Vũ-vương lớn-lao thay! Công-nghiệp của ngài không có gì sánh bằng) trong thiên phần Chu-tụng trong kinh Thi.

[927] Doãn-địch, thành thật noi theo.

[928] Thái-bộc, chức quan coi giữ xe ngựa của vua trong thời nhà Tần nhà Hán.

[929] Trưu, quan nuôi ngựa, kỵ sĩ, quan đánh xe của vua.

[930] Hồ cấu, người già cả.

[931] Nguyên lão, cựu thần có danh vọng.

[932] Hưu chưng (hưu, đẹp; chưng, đẹp), đẹp-đẽ.

[933] Tráng vân, đám mây to.

[934] Phổ huệ, ân huệ rộng khắp.

[935] Thục vũ, mưa lành.

[936] Ung dung, ôn hòa thong-thả.

[937] Mật, thanh tĩnh yên lặng.

[938] Hâm, nói thần linh hưởng lấy mùi vị lễ vật dâng cúng.

[939] Thưởng, nếm.

[940] Phú, cấp cho.

[941] Thiên Từ vô quỷ trong sách Trang-Tử.

[942] Tôn-Thúc-Ngao, người nước Sở thời Xuân-thu, tính cung kính cần-kiệm, thay Ngu-Khâu làm Tể-tướng nước Sở, thi-hành chính-giáo, dẫn-dắt nhân-dân, chỉ trong ba tháng mà nước Sở được đại trị.

[943] Bỉnh vũ, cầm cây lông chim. Người múa hát thường cầm cây lông kết bằng lông chim trĩ để che mình.

[944] Hậu đình tức hậu cung.

[945] Uyên ngõa tức uyên-ương ngõa là thứ ngói có đôi, miếng ngửa miếng úp.

[946] Phùng-Diên-Kỷ, người ở Quảng-lăng đời Nam-Đường, một tên nữa là Diên-Tự, tự là Chính-trung, đầu tiên thờ Liệt-tổ, làm Bí-thư lang, lúc vua Nguyên-tông lên ngôi, rất được quý chuộng trọng dụng, làm quan đến chức Tả-bộc-xạ Đồng-bình chương-sự, khi cầm quyền thì lập đảng lo việc riêng tư, kỷ-cương đổ nát, cho nên khi nhà Chu đem đại quân tiến vào, phải mất trọn cả vùng Giang-bắc.

[947]) Nguyên văn: Trưng cầu thảo mãng. Thiên Vạn-chương trong sách Mạnh-Tử có câu: Tại đã viết thảo mãng chi thần, nghĩa là: Sống ở đồng nội gọi là kẻ bề-tôi nơi thảo mãng.

[948] Cát sĩ, thiện sĩ, hiền sĩ.

[949] Nguyên văn: Cao sơn ngưỡng chỉ, nghĩa là: Núi cao thì để người ta ngưỡng trông. Câu nầy xuất xứ ở thiên Xa-hạt thuộc phần Tiều-nhã trong kinh Thi.

[950] Nguyên văn là Quan cái là áo mão xe lọng của quan chức cao cấp. Quan to.

[951] Đan quế, loại cây quế có vỏ đỏ, ngụ ý nhân tài.

[952] Đoạn này lấy ý ở thiên Bạch-câu thuộc phần Tiểu-nhã trong kinh Thi: Hạo hạo bạch câu, Thực ngã trường miêu... (Ngựa tơ lông trắng đẹp thay! Hễ ăn lúa mạ vườn nầy của ta...). Đại ý của thiên Bạch-câu là ân-hận không lưu giữ được người hiền cưỡi ngựa bạch câu.

[953] Đoạn nầy lấy ý ở thiên Phạt-mộc thuộc phần Tiểu-nhã trong kinh Thi: Thiên vu kiều mộc, Oanh kỳ minh hĩ, Cầu kỳ hữu thanh... (Thẳng lên cây vòi vọi vút cao, Oanh oanh cất tiếng thanh tao, Kêu lên tìm bạn hợp nhau vui hòa...) Đại ý của thiên Phạt mộc là nhóm bạn ăn uống vui chơi cho thỏa tình giao hảo.

[954] Trắc tịch, ngồi nghiêng để chờ đợi bậc hiền tài.

[955] Mạc-phủ, phòng do màn căng lên trong quân lữ, phủ của tướng quân.

[956] Phòng-Huyền-Linh, người ở đất Lâm-tri đời Đường, tên Kiều, tự là Huyền-linh, rộng thông sử sách, lúc Đường Thái-tông làm Tần-vương, làm Hành-quân ký thất tham quân, được phong Lâm-tri hầu, khi Thái-tông lên ngôi, làm đến chức Tả-bộc-xạ, ở ngôi Tể-tướng được 15 năm.

[957] Hoằng ích, làm lớn-lao và tăng ích.

[958] Suất thổ, toàn bộ cảnh vực.

[959] Cấp phục, miễn làm xâu.

[960] Thạch, 4 đấu là 1 thạch.

[961] Văn quán do Đường Thái-tông lập ra được người đương thời ngưỡng-mộ gọi là Doanh-châu (cõi tiên).

[962] Lục-Đức-Minh, người ở Ngô-huyện đời Đường, tên là Nguyên-Lãng, tự là Đức-Minh, trong thời Đường Cao-tổ, làm bác-sĩ ở Quốc-tử-giám.

[963] Kinh thuật tức là kinh học là nghiên-cứu kinh truyện, phân-tích nghĩa lý.

[964] Huyền phong, đức giáo của thiên-tử.

[965] Thông nho, nhà nho có kiến-thức sâu rộng.

[966] Sở học ký, tên sách, có tất cả 30 quyển do nhóm Tử-Kiên đời Đường phụng sắc soạn ra, chọn chép những phần thiết yếu trong kinh sử văn-chương, xếp theo từng loại, chia ra 26 bộ, 313 mục, phần đầu kể sự, phần giữa là sự đối, phần cuối là thi văn, những bài chọn trích đều là sách cổ từ đời Tùy trở về trước.

[967] Ngụy-Trưng, người ở đất Khúc thành đời Đường, tự là Huyền-thành, ham đọc sách, đầu tiên theo Lý-Mật về với nhà Đường, dưới thời vua Thái-tông làm Gián-thị đại-phu, làm quan đến chức Quan-lộc đại-phu, được phong Trịnh-quốc-công, người có chí đảm, dám can vua, vua Thái-tông phải kính nể, có góp phần trong việc soạn Chu-sử, Tùy-sử, soạn sách Loại-lễ 20 quyển.

[968] Cảnh-tinh, sao nầy xuất-hiện ở nước có đạo-đức.

[969] Cátcát lễ, việc cúng tế trời đất thánh thần. Hunghung lễ, việc tang ma. Quânquân lễ, việc cúng tế trong quân đội khi hành quân. Tântân lễ, việc đón tiếp tân khách. Giagia lễ, việc cưới hỏi.

[970] Trương-Tề-Hiền, người đời Tống, tự là Sư-lượng, bề-tôi được yêu chuộng của Tống Thái-tông, trong thời vua Chân-tông, làm Binh-bộ Thượng-thư, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, sau làm Tư-không tên thụy là Văn Định, có viết sách Lạc-dương tấn thân cựu văn ký.

[971] Phong kiến, Thiên-tử lấy tước-vị và đất-đai phong cho chư-hầu và khiến chư-hầu kiến quốc ở đất được phong ấy.

[972] Vương-Khuê, người ở đất Hoa-dương đời Tống, tự là Vũ-ngọc, đỗ tiến-sĩ cập-đệ, văn-chương tao-nhã đẹp-đẽ, điển-sách của triều-đình đều do tay ông viết ra, làm quan đến chức Thượng-thư Tả-bộc-xạ. Sách của ông viết có Hoa dương tập.

[973] Trai-cung, cung dành cho thiên-tử trai-giới.

[974] Sam, chiếc xe thắng ba ngựa.

[975] Y-xuyên tiên-sinh, tức Trình-Di đời Tống.

[976] Nguyên văn: Đam các 耽擱 là trì trệ.

[977] Xích-lỗ, đất mặn có thể làm muối chớ không thể trồng-trọt.

[978] Cối, cây cối thuộc loại cây tùng, thân giống cây tùng, lá giống lá cây bách, gỗ dùng về kiến-trúc.

[979] Thanh-tiền, đồng tiền ngày xưa đúc bằng đồng và kẽm có màu xanh, cho nên gọi là thanh tiền.

[980] Tuần, măng tre.

[981] Quyết, một thứ rau để ăn.

[982] Thiều, tên khúc nhạc do vua Thuấn sáng-tác.

[983] Sách Luận-ngữ có câu:Tử tại Tề văn Thiều tam nguyệt, bất tri nhục vị (nghĩa là: Khổng-Tử ở nước Tề, được nghe khúc nhạc Thiều luôn ba tháng ăn không biết mùi thịt).

[984] Giới-phủ tức Vương-An-Thạch, người ở đất Lâm-xuyên đời Tống, tự là Giới-phủ, hiệu là Bán-sơn, tính hiểm độc và tự tin, nghị-luận cao kỳ, văn-chương hiểm-hốc, đỗ tiến-sĩ làm Tể-tướng triều Tống Thần-tông, được phong Kinh-quốc-công, định ý cải cách chính-trị, lập ra tân pháp Nông điền thủy lợi, Quân thâu, Thanh miêu, Bảo giáp, Mộ dịch, Bảo mã, Phương điền quân thuế đem ra thi-hành mà mong thành-công quá gấp, dùng người không xứng đáng, công hiệu chưa thấy mà tệ loạn sinh ra, bèn tự xin ra bỏ ở ngoài mà mất.

[985] Kinh để, nhà trọ ở kinh-đô.

[986] Tính-lý đại toàn, tên sách, có tất cả 17 quyển do nhóm Hồ-Quảng đời Minh Phụng sắc soạn ra, chọn lấy những thuyết của các nhà nho đời Tống, tất cả có 120 nhà.

[987] Chu-Biện, người ở đất Vụ-nguyên đời Tống, tự là Thiếu-Chương, hiệu là Quan như cư sĩ, mới 20 tuổi đã vào trường Thái-học, tự xin đi sứ sang nước Kim, thủ tiết không chịu khuất, khi hòa nghị thành, được trở về. Ông có viết những sách Sinh du tập, Thư-giải, Khúc vĩ cựu văn, Phong nguyệt đường thi thoại.

[988] Ổi, lạm.

[989] Tiết mao, vật cảu vua ban cho sứ-giả cầm để làm tin, có lông đuôi con ly-ngưu gắn ở đầu gù.

[990] Trên cây tiết-mao, lông đà rụng hết, ý nói thời gian trải qua đã lâu.

[991] Ở trong miệng, lưỡi hãy vẫn còn, ý nói Chu-Biện đi sứ sang nước Kim bị giữ lại, thủ tiết mà không chịu khuất.

[992] Ngựa mọc sừng tức Mã sinh giác, việc không bao giờ có. - Yên-Đan đi sứ sang nước Tần bị giữ lại. Yên-Đan xin về, Vua Tần bảo: “Chừng nào con quạ bạc đầu, con ngựa mọc sừng thì ta cho ngươi về” - Ý nói không hy-vọng có ngày trở về.

[993] Rầu rồng tức Long nhiêm, theo sách Sử-ký, Hoàng-Đế lấy đồng ở núi Thú-sơn đúc cái đỉnh ở dưới núi Kinh-sơn, khi cái đỉnh đúc thành có con rồng thòng cái râu xuống rước Hoàng-Đế. Hoàng-Đế lên cỡi, quần thần và hậu cung theo lên hơn 70 người, rồng mới bay lên đi. Còn những thiểu thần không được theo lên mới nắm râu rồng, râu rồng rụng rớt xuống làm rơi cây cung của Hoàng-Đế. Trăm họ ngưỡng mộ Hoàng-Đế đã lên trời mới ôm cây cung và vin râu rồng mà kêu khóc.

[994] Ngụy-Giáng, làm quan đại-phu nước Tấn đời Xuân-thu, dưới thời vua Biện-công. Sơn-nhung Vô-Chung-Tử xin giảng hòa. Ngụy-Giáng nói giảng hòa với Sơn-nhung có 5 điều lợi, bên minh ước với rợ Nhung.

[995] Hầu-Sinh tức Hầu-công, người đầu đời Hán, Hán-vương sai Hầu-công đi thương-thuyết với Hạng-Vũ. Hạng-Vũ và Hán-vương định hòa ước chia đôi thiên-hạ, Hầu-công đánh xe rước cha mẹ vợ con của Hán-vương, được Hán-vương phong Hầu-công làm Bình-quốc-quân.

[996] Nguyên-hựu Hoàng-hậu, Hoàng-hậu của vua Tống Triết-tông.

[997] Mông trần (phủ bụi), nói vua chạy ra ngoài tránh nạn.

[998] Banh, lễ tế ở cửa tông-miếu.

[999] Tam linh, Trời, Đất và người - Mặt trời, mặt trăng và tinh-tú.

[1000] Chữ từ ở đây phải hiểu theo động-từ, để đối với chữ tế ở dưới.

[1001] Diễn duy, suy nghĩ xa-xôi.

[1002] Quyến mệnh, đoái thương mà sai khiến.

[1003] Tả đản, Chu-Bột đời Hán toan giết họ Lữ để khôi phục họ Lưu, nhưng sợ lòng quân không theo, bèn ra lệnh rằng: “Ai theo về họ Lưu thì vén ống tay áo bên tả lên (tả đản). Quân-sĩ đều một lòng bênh-vực nhà Hán, cùng vén ống tay áo bên tả. Vì thế mà Chu-Bột trừ được họ Lữ, khôi-phụ nhà Hán. Tả đản là bênh-vực.

[1004] Thần khí, ngôi vua.

[1005] Quang-Vũ, Hán Quang-Vũ đế, cháu 9 đời của Hán Cao-tổ, tên Tú, lúc bé lo việc cấy gặt, lớn lên hiểu đại nghĩa kinh Thư, cuối đời Vương-Mãng, cử binh ở Thung-lăng, đánh bại quân của Vương-Mãng ở Côn-dương, rồi tiến quân khắc-phục Trường-an, Vương-Mãng tự thiêu mà chết, Hán Quang-Vũ đế lên ngôi, định đô ở Lạc-dương lập triều đại Đông-Hán, trung-hưng được nhà Hán, ở ngôi được 33 năm, tên thụy là Quang-Vũ.

[1006] Trùng-Nhĩ, con thứ của vua Tấn Hiển-công đời Xuân-thu, em của Thái-tử Thân-sinh, tên là Trùng-Nhĩ. Nàng ái thiếp Linh-Cơ của Hiền-công giết Thái-tử Thân-sinh, Trùng-Nhĩ phải chạy sang nước Địch. Hiển-công mất, ngôi truyền cho Hoài-công. Tần Mục-công ghét Hoài-công mới tìm Trùng-Nhĩ cấp cho quân-đội đưa về làm Tấn-hầu, tức là Tấn Văn-công, làm minh-chủ chư-hầu.

[1007] Nhan-Kỳ, người đời Tống, tự là Di-Trọng, trong niên-hiệu Kiến-viêm làm quan đến chức Môn-hạ thị-lang.

[1008] Trương-Bang-Xương, người ở đất Đông-quang đời Tống, tự là Tử-năng, trong niên-hiệu Tĩnh-khang đỗ tiến-sĩ, làm quan đến chức Thiếu-tể. Khi quân Kim hãm Biện-kinh, bắt hai vua nhà Tống đi về bắc, Trương-bang-Xương nhận sách phong của quân Kim làm Sở đế, chiếm cả nội đình hơn 40 ngày, sao đến Đông-kinh xin Khang-vương lên ngôi được phong Đông-an quận-vương, bị Lý-Cương hạch tội, dời đi ở Đàm châu, được lịnh phải tự sát.

[1009] Phật-Hất, làm chức Trung mâu tề cho quan đại-phu họ Triệu nước Tấn thời Xuân-thu. Phật-Hất vời, Không-Tử muốn đi (Luận-ngữ).

[1010]) Kỷ-Tín, tướng-quân của Hán-vương. Hạng-Vũ vây Hán-vương ở Huỳnh-dương rất ngặt, Kỷ-Tín xin đi xe của Hán-vương với mui vàng, cờ tả-đạo ra đầu hàng để gạt Hạng-Vũ, Hạng-Vũ thiêu chết Kỷ-Tín. Nhờ đó Hán-vương được thoát thân.

[1011] Nhạc Vũ-mục tức Nhạc-Phi, người ở đất Thang-âm đời Tống, tự là Bằng-cử, thờ mẹ rất có hiếu, nhà nghèo cố học-hành, trong niên hiệu Tuyên-hòa ra ứng mộ đi đánh quân Kim, lắm lần phá được quân Kim được vua Cao-tông tự tay viết 4 chữ Tinh trung Nhạc-Phi và chế cờ ban cho, phá quân Lý-Thành, dẹp yên Lưu-Dự, chém Dương-Yêu, làm quan đến chức Thái-úy, cả phá quân Kim ở Chu-tiên trấn, muốn độ quân qua sông đánh quân Kim, lúc ấy Tần-Cối cố sức nghị hòa, giáng kim bài triệu Nhạc-Phi về và vu-cáo bắt Nhạc-Phi hạ ngục mà giết. Vua Hiến-tông truy phong tước quan và ban tên thụy cho Nhạc-Phi là Vũ-mục. Vua Minh-tông truy phong Nhạc-Phi tước Ngạc-vương và đổi tên thụy là Trung-vũ.

[1012] Thương ư, tên đất ngày xưa, vì có Thương-thành ở đất Ư-trung, cho nên được gọi là Thương-ư.

[1013] Nam-Tống, đối với Bắc-Tống mà nói, nhà Tống từ vua Cao- tông dời về phương Nam giữ vùng phía Nam sông Hoài sông Hán, được sử gọi Nam-Tống, có 7 đời vua, được 149 năm, khởi từ năm 1128 đến năm 1276 thì dứt, mất nước về nhà Nguyên.

[1014] Hàn-Thế-Trung, người ở đất Diên-an đời Tống, tự là Lương-thần, dũng mãnh thiện-chiến, tùng quân từ thuở nhỏ, đã đánh bại Tây-Hạ. bắt Phương-Lạp, nhiều chiến-công, làm quan đến chức Gia-châu phòng ngự sứ. Khi vua Cao-tông dời về phương Nam đến Tiền-đường, bọn Miêu-Truyền, Lưu-Chính-Ngạn làm phản cướp vua. Hàn-Thế-Trung đánh phá Hàng-châu đuổi bắt được bọn Miêu-Truyền, Lưu-Chính-Ngạn ở Ngư-lương mà giết cả. Ngột-Thuật nước Kim đem binh 10 vạn xâm-phạm phương Nam, Hàn-Thế-Trung đem 8 ngàn quân đóng đồn ở Trấn-giang cả phá quân Kim ở Hoàng-thiên-đãng. Quân Kim và Lưu-Dự hợp binh chia đường đến đánh phá bị Hàn-Thế-Trung phục kích hơn 20 chỗ, cả phá được bọn giặc. Tần-Cối cầm quyền chủ hòa nghị, Hàn-Thế-Trung chỉ-trích, bị Tần-Cối thu binh quyền, từ đó ở ẩn nơi Tây-hồ, không bàn luận việc binh, thường mang rượu cỡi lừa tiêu-dao, ngày về già ưa đạo Phật, đạo Lão tự gọi mình là Thanh-lương cư-sĩ.

[1015] La-Quán-Trung, các từ điển đều chép là người cuối đời Nguyên người đất Hàng-châu tên Bổn, tự là Quán-Trung, có soạn nhiều bộ tiểu-thuyết, như Tam-quốc chí thông tục diễn nghĩa, Thuyết Đường, Phấn-trang lâu, Thủy-hử truyện từ hồi 70 trở về sau, Kim-Thánh-Thán cũng đoán là do La-Quán-Trung viết nối theo.

[1016] Các từ-điển đều chép ở đất Hàng-châu.

[1017] Các từ-điển đều chép người ở cuối đời Nguyên.

[1018] Trần-Thọ, người ở đất An-hán đời Tấn, tự là Thừa-Tộ, đầu tiên làm quan cho Thục, với chức Quan các lịnh sứ lắm lần bị khiển truất, vào nhà Tấn làm chức Trứ-tác lang: ông có soạn sách Tam-quốc chí.

[1019] Ngụy-triều, triều-giặc, triều không chính-đáng, nhưng có lẽ là triều nhà Ngụy, chữ Ngụy 魏 (là nhà Ngụy) viết lầm ra chữ Ngụy 僞 (là giặc).

[1020]Truyện, lời giải rõ ý-nghĩa của kinh sử.

[1021]Lập ngôn, viết sách nói ra được điều trọng yếu mà lý lẽ vững chắc đáng truyền-tụng, bản thân đã mất mà lời nói vẫn mãi mãi lưu-truyền.

[1022]Tư-khấu, chức quan coi giữ việc hình án thưa kiện, như chức Thẩm-phán ngày nay.

[1023] Nguyên văn: Vương sự nhược tập. Sách chú chữ tập là trước sau cứ nối nhau.

[1024]Nhiếp chính, cầm quyền chính thay vua còn bé.

[1025]Tử-Sản, tức Công-tôn-Kiều làm quan đại-phu nước Trịnh đời Xuân-thu, tự là Tử-Sản, học rộng nghe nhiều.

[1026]Phù ngôn, lời không thật.

[1027] Đoạn nầy lấy ở thiên Tạp-ký trong kinh Lễ, xin dịch ra như sau: Căng dây cung lên mãi mà không mở dây cung ra, vua Văn vua Vũ nhà Chu không làm. Mở dây cung ra mãi mà không căng dây cung lên, vua Văn vua Vũ nhà Chu cũng không làm. Một lần căng dây cung lên thì một lần mở dây cung ra, ấy là cái đạo trị dân của vua Văn vua Vũ.- Ý nói trị dân có gấp có hoãn, có làm có nghỉ.

[1028]Trá, lễ cúng tế vạn vật vào tháng chạp.

[1029] Ở thiên Ly-lâu thượng, trong sách Mạnh-tử, trọn lời nói của Mạnh-tử như sau: “Vi chính bất nan, bất đắc tội ư cự thất. Cự thất chi sở mộ, nhất quốc mộ chi. Nhất quốc chi sở mộ, thiên hạ mộ chi. Cố phái nhiên đức giáo, dật hồ tứ hải, nghĩa là = Làm chính-trị không khó, đừng gây oán hận với những đại gia-tộc (những gia tộc lớn-lao đời đời làm quan). Những đại gia-tộc mà mến phục thì cả nước mến phục theo. Cả nước mến phục thì cả thiên-hạ mến phục theo. Cho nên đức giáo thi-hành rất rộng lớn, tràn đầy cả bốn biển.

[1030]Canh trương, sửa đổi. Tiếng đàn không điều hòa thì căng dây đàn mà sửa đổi lại.

[1031]Giả-tá, khoan-dung.

[1032]Tử-Cao, người nước Tề đời Xuân-thu, hoặc nói là người nước Vệ, họ Cao, tên Sài, tự là Tử-Cao hay Quý-Cao, học-trò của Khổng-Tử, tính người nhân hiếu.

[1033]Hữu-Tử, tức Hữu-Nhược, học-trò của Khổng-Tử- Nhiệm-Cầu, học-trò của Khổng-Tử cũng xưng là Hữu-Tử.

[1034]Đài-gián, quan ngự-sử chuyên việc can-gián vua và phê-bình các quan.

[1035] Nguyên bổn chỉ chép có 4 câu, chúng tôi xin chép thêm 2 câu cuối cho trọn một chương.

[1036]Tư-Mã-Chiêu, người đời Tam-quốc, con thứ của Tư-Mã-Ý, tự là Tử-thượng, lúc Tào-Mao ở ngôi, đã nối theo anh là Tư-Mã-Sư làm Đại-tướng quân chuyên quốc chính, tự làm tướng quốc, được phong Tấn-công, được ban cửu tích mà giả vờ không nhận. Về sau thí vua Ngụy Tào-Mao, lập Nguyên-đế Hoán và con của Nguyên-đế là Viêm, soán ngôi nhà Ngụy Tào, tự tôn làm Văn-đế.

[1037]Vương-Ẩn, người đời Tấn, tự là Xử-thức, học rộng nghe nhiều, đầu niên-hiệu Thái-hưng được triệu làm Trứ-tác-lang, soạn sách Tấn-sử. Về sau bị gièm pha mà mất chức.

[1038]Tự-Tông tức là Nguyễn-Tịch đời Tam-quốc, tự là Tự-Tông, là một trong Trúc-lâm thất hiền (đã chú ở trước).

[1039]Khuất-Bình tức là Khuất-Nguyên, đã chú ở trước.

[1040] Nguyên câu trong phần Hệ-từ thượng trong kinh Dịch là: Tử viết: “Loạn chi sở sinh dã tắc ngôn ngữ dĩ vi giai. Quân bất mật tắc thất thần. Thần bất mật tắc thất thân. Cơ sự bất mật tắc hại thành. Thị dĩ quân tử thận mật nhi bất xuất dã” = Khổng-Tử nói: “Loạn sở dĩ sinh ra chỉ do lời nói đưa đến. Vua mà không cẩn-mật thì mất bề tôi. Bề tôi không cẩn-mật thì mất tấm thân. Cơ sự không cẩn-mật thì thành tai hại. Cho nên người quân-tử thận-trọng cẩn-mật mà không để lậu ra ngoài” .

[1041]Ban-Siêu, người ở đất An-lăng đời Đông-Hán, con của Ban-Bưu, lúc trẻ viết thuê nuôi mẹ, rồi ném bút theo đuổi việc quân, trong thời vua Minh-đế, đánh phá Tây-vực khiến hơn 50 nước ở Tây-vực đều nạp cống nội-thuộc, được làm Tây-vực đô-hộ, phong Định-viễn-hầu, ở Tây-vực 31 năm, lúc tuổi già mới trở về mà mất.

[1042]Thủy thanh vô ngư, nước trong thì không có cá, vì cá không thể dung thân. Người trên xem xét quá nghiêm-khắc thì không dung được kẻ dưới.

[1043]Bính-Cát, người ở nước Lỗ đời Hán, tự là Thiếu-Khanh, làm chức giữ ngục ở nước Lỗ rồi thăng đến chức đinh-úy, khi vua Tuyên-đế lên ngôi, được ban tước Quan nội hầu, thay Ngụy-Tướng làm Thừa-tướng, được phong Bác dương hầu, có tính che giấu điều lỗi của người và nêu điều hay của người, được người đời gọi là quan Tể-tướng hiền tài.

[1044]Ngụy-Tướng, người ở đất Định-đào đời Hán, tự là Nhược-ông, lúc trẻ học Dịch, đầu tiên ra làm chức lịnh ở Mậu-lăng được khen là đại trị, được đổi làm Thái-thú ở Hà-nam, về sau được làm Thừa-tướng, cùng phụ-chính với Bính-Cát, được người đời khen ngợi.

[1045]Tàng khí ư thân. Phần Hệ-từ hạ truyện trong kinh Dịch có câu: Tử viết: “Chuẩn giả cầm dã, cung thỉ giả khí dã, xạ chi giả nhân dã. Quân tử tàng khí ư thân, đãi thì nhi động, hà bất lợi chi hữu? ” Nghĩa là = Khổng-Tử nói: Diều-hâu là loài chim, cung tên là đồ dùng, kẻ bắn diều-hâu là người ta. Người quân-tử giấu cất đồ dùng ở trong mình, đợi thời mà hoạt-động thì sao lại có việc bất lợi được?

[1046]Quản-Ninh, người ở Chu-khư nước Ngụy đời Tam-quốc, tự là Ấu-an, dốc chí học tập. Cuối đời Hán, giặc Hoàng-cân làm loạn, Quản-Ninh ẩn tránh ở Liêu-đông, người đi theo rất nhiều, trong mười ngày lập thành ấp, Quản-Ninh giảng giải kinh Thi kinh Thư, giặc yên, trở về kinh-đô, được triều-đình lắm lần triệu ra làm quan, nhưng ông từ chối.

[1047]Bính-Nguyên, người ở Chu-khư đời Đông-Hán, tự là Căn-củ, lúc trẻ có tiết-tháo, tránh loạn Hoàng-cân, cư-ngụ ở Liêu-đông, giặc yên trở về quê, về sau thờ Tào-Tháo.

[1048]Khước-Chí, người nước Tấn đời Xuân-thu, trong thời Cảnh-công, làm Ôn đại-phu. Trong thời Lê-công, nước Tấn nước Sở đánh nhau ở Yên-lăng, Khước-Chí bày mưu đánh bại được quân Sở. Về sau ông bị giết.

[1049]Gia-cát-Khác, người nước Ngô đời Tam-quốc, con của Gia-cát-Cẩn, tự là Nguyên-tốn, trong đầu niên-hiệu Kiến-hưng được phong Dương-đô hầu, bị Tôn-Tuấn giết.

[1050]Tiêu-Vọng-Chí, người ở đất Lan-lăng đời Hán, dời về ở Đỗ-lăng, ham học nghe nhiều, trong thời vua Tuyên-đế, làm quan đến chức Thái-tử Thái-phó, khi vua bịnh nguy kịch, nhận di chiếu phò ấu chúa (Nguyên-đế), về sau bị bọn Thạch-Hiền hãm hại, phải uống thuốc độc mà chết.

[1051] Trì-trọng, giữ lấy đạo nghĩa không dời đổi khí tiết.

[1052] Tiếp lý 燮理, điều hòa âm dương.

[1053]Phạm-Vũ-Tử, quan đại-phu nước Tấn ở đời Xuân-thu.

[1054]Triệu-Văn-Tử, tức Triệu-Mạnh, tên thụy là Văn-Tử, làm quan đại-phu nước Tấn đời Xuân-thu, trong thời vua Bình-công, làm quan chính khanh, tiến dụng hiền thần, người nước Tấn khen ông là biết người.

[1055] Ở chỗ này nguyên văn chép không rõ, chúng tôi đọc không ra, tra tự-điển không thấy, chúng tôi hiểu đại ý câu chuyện mà dịch như thế này cho hợp lý.

[1056]Viên-An, người ở đất Nhữ-dương đời Đông-Hán, tự là Thiệu-công, là người nghiêm-nghị thận-trọng có uy-tín, lúc chưa làm quan, ở Lạc-dương xuống tuyết to, người ta phần nhiều đi xin ăn, chỉ có một mình Viên-An nằm mãi không đi cam chịu đói. Quan lịnh ở Lạc-dương thấy thế cho là người hiền, bèn tiến cử làm hiếu-liêm. Trong niên-hiệu Vĩnh-binh, Viên-An được trao chức Sở-quận Thái-thú. Lúc ấy gặp Sở-vương Anh mưu phản, liên lụy đến hàng ngàn người bị bắt. Viên-An đến quận tra xét việc hình án, trả tự do cho hơn 400 nhà. Ông được thăng những chức Thái-bộc, Tư-đồ. Trong thời vua Hòa-đế, họ Đậu chuyên quyền, Viên-An không a-dua, đàn hặc hài tội không sợ uy-quyền, vua và các đại-thần đều nhờ dựa vào ông.

[1057]Hàn-Ức, người ở Ung-khâu đời Tống, tự là Tông-ngụy, đỗ tiến-sĩ làm quan có tiếng về thành-tích cai-trị, trong thời vua Nhân-tông, làm đến chức Thượng-thư Tả-thừa, làm chức Thái-tử Thiếu-phó thì về hưu. Tính của ông đứng-đắng trang-trọng, gìn-giữ gia-đình rất nghiêm, thường cứu giúp kẻ nghèo khó. Ông có 8 người con đều quý hiển.

[1058]Công-phụ, tức là chức tam-côngtứ-phụ. Tam-công là những chức Thái-sư, Thái-phó và Thái- bảo. Tứ-phụ là những chức Tiền-nghi, Hậu-thừa, Tả-phụ và Hữu-bật.

[1059]Lưu-Đàm, người đời Tấn, tự là Chân-trường, trong thời vua Giản-văn đế, làm chức lịnh ở Đan-dương.

[1060]Vương-Mông, người ở Tấn-dương đời Tấn, tự là Trọng-tổ, cha của Ai-tĩnh Hoàng-hậu, lúc trẻ phóng túng, lúc già sống khắc-khổ, làm quan đến chức Tư-đồ, Tả trưởng sử.

[1061]Phạm-Tổ-Vũ, người đời nhà Tống, tự là Thuần-phu, đỗ tiến-sĩ, theo Tư-mã-Quang soạn sách Tư trị thông giám. Khi sách nầy viết xong dâng lên, ông được trao chức Bí-thư chính tự, khi vua Tiết-tông lên ngôi, được thăng chức Cấp-sự trung. Bình sinh ông không kể lỗi của người. Ông có viết sách Thái-sử tập.

[1062]Lưu-Đại-Hạ, người đời nhà Minh, con của Lưu-Nhân-Trạch, tự là Thì-ung, trong niên-hiệu Thiên-thuận đỗ tiến-sĩ làm quan chức Phương-lang trung, thông hiểu việc binh, vì bịnh mà trở về, dựng ngôi nhà lá ở dưới núi Đông-sơn để đọc sách, người đời gọi là Đông-sơn tiên-sinh, về sau triều-đình tiến-cử làm Binh-bộ Thượng-thư được vua Hiếu-tông tín nhiệm, khi vua Vũ-tông lên ngôi, xin về hưu.

[1063]Sách phủ, chỗ chứa sách.

[1064]Trương-Sư-Đức, người đời Tống, con của Trương-Khứ-Hoa, tự là Thượng-hiền, đỗ tiến-sĩ, làm quan Tả gián nghị đại phu, có viết Văn-tập.

[1065]Vương-Đán, người đời Tống, con của Vương-Hựu, tự là Tử-minh, trong niên-hiệu Thái-bình hưng-quốc đỗ tiến-sĩ, trong thời vua Chân-tông, được cất nhắc làm Tri khu mật viện, thăng Thái bảo, tiến dẫn triều sĩ mà không cho ai biết. Ông rất tiếc cho Trương-Sư-Đức, người có sĩ hạnh, con nhà danh gia, vì bôn cạnh đã hai lần đến nhà ông mà không được tiến-cử. Khi mất, ông được phong Ngụy-quốc-công.

[1066]Chu-công, họ Cơ, tên Đán, em của Chu Vũ-vương, chú của Chu Thành-vương. Khi Vũ-vương băng, Thành-vương còn bé, Chu-công nhiếp chính. Bị ba người em nghi-kỵ, bày lời đồn-đãi không hay, Chu-công lánh ở phía đông làm bài Si-hiêu tặng cho Thành-vương. Thành-vương tỉnh ngộ rước Chu-công trở về triều. Ba người em sợ hãi xúi Vũ-Canh, dòng-dõi nhà Ân làm phản. Thành-vương sai Chu-công đem binh đánh dẹp, giết Vũ-Canh và ba người em. Về sau Chu-công dựng Lạc-ấp làm Đông-đô.

[1067]Nhả cơm nắm tóc, chữ là thổ bộ ác phát. Sách Hàn thi ngoại truyện chép lời của Chu-công nói với Bá-Cầm (con của Chu-công được phong ở nước Lỗ):… “Ta một lần đi tắm thì ba lần cầm tóc, một lần ăn cơm thì ba lần nhả ra để gấp ra tiếp-kiến hiền-sĩ, thế mà còn sợ mất hiền-sĩ trong thiên-hạ” .

[1068]Vương-Tăng, người ở đất Ích-đô đời Tống, tự là Hiếu-tiên, trong niên-hiệu Hàm-bình, ở bậc Hương-cống ứng đình thí, đỗ hạng nhất, trong thời vua Nhân-tông, làm quan Trung-thư thị lang, Đồng trung thư môn hạ bình-chương sự, được phong Nghi quốc công, làm phán quan ở Vận-châu.

[1069]Chuyển-vận sứ, chức quan do nhà Đường đặt ra, rồi nhà Tống noi theo, lúc đầu coi giữ việc chuyển-vận quân-nhu lương-hướng theo đường thủy đường bộ, chẳng qua là trách-nhiệm của tào-thần, cho nên cũng gọi là tào-ty, về sau giữ luôn việc biên phòng, trộm cướp, thưa kiện, tiền gạo.

[1070]Chuyển-tào, chuyển-vận quân-nhu lương-hướng theo đường thủy đường bộ.

[1071] Khổng-Tử nói: “Vua không cẩn-mật thì mất kẻ bề tôi. Bề tôi không cẩn-mật thì mất thân mình” .

[1072]Sư-Đan, người ở đất Đông-vũ đời nhà Hán, tự là Trọng-công, chuyên kinh Thi, thi đỗ Hiếu-liêm làm chức lang, làm quan đến chức Đại-tư-không, được phong Cao-lạc-hầu, vì can-gián nghịch với vua Ai-đế mà bị miễn chức, khi vua Binh-đế lên ngôi, được khen là trung-thành, được phong Nghĩa-dương-hầu.

[1073]Trương-Thương-Anh, người đời Tống, em của Trương-Đường-Anh, tự là Thiên-giác, hiệu là Vô-tận cư-sĩ, trong niên-hiệu Đại-quan, làm chức Thượng-thư Hữu bộc-xạ.

[1074]Kinh-phòng, người ở Đốn-khâu đời Hán, tự là Quân-minh, vốn họ Lý, suy luật tự định họ Kinh, biết âm-nhạc, chuyên kinh Dịch, thuyết của ông giỏi về tai-biến, học với Tiêu-Diên-Thọ, về sau đỗ hiếu-liêm làm chức lang, ra làm Ngụy-thái-thú, bị Thạch-Hiển gièm pha mà bị giết. Ông có viết sách Kinh thị Dịch truyện.

[1075]Thạch-Hiển, người ở đất Tế-nam đời Hán, tự là Quân-phòng, mắc tội bị cung-hình, làm chức Trung hoàng môn, trong thời vua Nguyên-đế, thay Hoằng-Cung làm Trung-thư lịnh. Vua đau, bao nhiêu việc chính lớn nhỏ đều do Thạch-Hiển quyết định, khi vua Thành-đế lên ngôi, ông đổi làm Trường-tín trung thái bộc, mất quyền bị các quan tố-cáo những tội ác xưa, bị mất chức trở về quê, không ăn uống, dọc đường bị bịnh mà mất.

[1076]Tề-Hoãn, người ở đất Nghĩa-phong đời Đường, tự là Tẫy-tâm, có tài giúp vua, đỗ tiến-sĩ, làm ngự-sử, trong niên-hiệu Khai-nguyên thăng chức Trung-thư xá-nhân, những việc lớn-lao ở triều-đình đều phải hỏi ông, cho nên ông được gọi là Giải-sự xá-nhân, ông mất ở chức Bình-dương Thái-thú.

[1077]Vương-Mao-Trọng, người Cao-ly đời Đường, thờ vua Huyền-tông lúc ở Đông-cung, có công được phong Phụ-quốc đại-tướng quân, đã đắc chí, lại xin làm Binh-bộ Thượng-thư, vua không cho, về sau vua xuống chiếu bảo phải thắt cổ tự sát.

[1078]Lý-Thiếu-Lương, người đời Đường, làm quan đến chức Điện trung Thị-ngự-sử, giận Nguyên-Tải làm điều phi-pháp, dâng sớ luận tội Nguyên-Tải, nhưng bị Nguyên-Tải mưu hại.

[1079]Nguyên-Tải, người ở đất Kỳ-sơn đời Đường, tự là Công-phụ, hiểu rõ văn của Trang-Tử, Lão-Tử và Liệt-Tử, đầu niên-hiệu Thiên-bảo làm chức Đồng trung thư môn hạ Bình-chương sự, khi vua Đại-tông lên ngôi, làm Trung-thư thị-lang, chuyên quyền, cho các con ăn hối-lộ, bài xích kẻ trung-lương, vua đã giới răn mà không hối-cải, vua ra lịnh phải tự sát.

[1080]Khấu-Chuẩn, người đời Tống, tự là Bình-Trọng, lúc trẻ thông-minh hơn người, học thông Xuân-thu tam truyện, trong thời vua Thái-tông đỗ tiến-sĩ, làm chức Khu-mật viện Trực-học-sĩ, thường tâu việc ở trong điện, lời nói không hợp ý vua, vua giận đứng lên, ông liền níu áo vua xin vua ngồi lại, giải-quyết xong công việc mới lui ra, trong thời vua Chân-tông, làm đến chức Đồng bình chương sự, Khi rợ Khiết-đan vào cướp, ông rước vua thân chinh, vua nghe theo, xa giá thân chinh đi đến Thiền-châu, bao nhiêu việc binh đều giao cho Khấu-Chuẩn. Khấu-Chuẩn hiệu-lịnh nghiêm-minh, quân-sĩ ưa thích hăng-hái, quân địch không dám tiến phạm, ông cùng quân địch thề ước giảng hòa rồi bãi binh trở về. Khấu-Chuẩn tự khoe công-trạng, về sau bị Vương-Khâm-Nhược gièm pha mà bị bãi chức Tể-tướng. Trong niên-hiệu Thiên-hy, ông được phục chức Tể-tướng, được phong Lại-quốc-công, lại bị Đinh-Vị gièm siễm phải biếm ra Nhai-châu làm Tư-hộ Tham-quân.

[1081]Đinh-Vị, người ở đất Trường-châu đời Tống, tự là Công-ngôn, giảo hoạt hiểm độc hơn người, khéo nói đùa cho vui cười, thích làm thơ; hội họa, âm luật, cờ bạc đều thông hiểu, trong niên-hiệu Thuần-hóa đỗ tiến-sĩ, dưới triều vua Chân-tông, Khấu-Chuẩn làm Tể-tướng, Đinh-Vị làm Tham-chính, được phong Tấn quốc công, thường mưu hại Khấu-Chuẩn, khiến Khấu-Chuẩn bị bãi chức. Khi vua Nhân-tông lên ngôi, Đinh-Vị bị biếm ra Nhai-châu và dời qua Đạo-châu.

[1082]Tiền-Duy-Diễn, người ở đất Lâm-an đời Tống, tự là Hy-thánh, bác học, văn-chương thanh tao đẹp-đẽ, theo cha là Ngô-Việt vương Xúc về với nhà Tống, mới đầu làm Hữu thần vũ tướng quân, dưới triều vua Chân-tông làm Hàn-lâm học-sĩ, thăng Công-bộ Thượng-thư, dưới triều vua Nhân-tông làm Khu-mật sứ, mới đầu phụ theo Đinh-Vị để hại Khấu-Chuẩn cho bị bãi chức, khi Đinh-Vị sắp bị tội thì bỏ Đinh-Vị để tự giải cứu, mất ở chức Sùng-tín quân Tiết-độ sứ.

[1083]Tào-Cát-Tường, người đời Minh, cùng Thạch-Hanh đem quân rước vua Anh-tông trở lại ngôi báu, làm quan đến chức Tư-lễ Thái-Giám, quyền thế ngang hành với Thạch-Hanh, về sau mưu phản bị giết.

[1084]Thạch-Hanh, người đời Minh, giỏi nghề cỡi ngựa bắn cung, nối chức của cha làm Khoan hà vệ chỉ huy thiêm-sự, trong niên-hiệu Chính-thống, được thăng Đô-đốc thiêm-sự. Khi vua Anh-tông đi tuần thú miền bắc, ông lập được nhiều kỳ công, đánh ở đâu thì không ai địch nổi, làm quan đến chức Trấn sóc đại tướng quân, phong Vũ-thanh hầu, khi vua Cảnh-đế lâm bịnh, cùng với Tào-Cát-Tường mưu rước vua Anh-tông trở lại ngôi báu, được ban tước Trung quốc-công.

[1085]Nhạc-Chính, người đời Minh, tự là Quý-phương, tự hiệu là Mông-tuyền, thi đỗ tiến-sĩ trong niên-hiệu Chính-thống, làm quan tới chức Biên-tu, vì nghịch với Thạch-Hanh và Tào-Cát-Tường, bị khiển-trách đưa ra Khâm-châu làm chức đồng-tri, trong đầu niên-hiệu Thành-hóa, được phục chức làm quan Tu soạn. Ông có viết nhiều sách như: Thâm y chú sớ, Loại bác tạp ngôn, Loại bác cảo.

[1086]Dương-Vinh, người ở đất Kiến-an đời Minh, tự là Miễn-nhân, đỗ tiến-sĩ trong niên-hiệu Kiến-văn, được vua Minh Thành-tổ cho vào Văn-minh các, làm quan đến chức Cẩn thân điện đại học sĩ. Công-bộ Thượng-thư, trong niên-hiệu Chính-thống xin về hưu. Ông là người có tài trí, làm quan trải bốn triều vua.

[1087]Dương-Sĩ-Kỳ, người ở đất Thái-hòa đời Minh, tên Ngụ, tự là Sĩ-Kỳ, trong đầu niên-hiệu Kiến-văn, được tiến-cử vào Hàn-lâm-viện nhờ tài sử học của ông, trong niên-hiệu Vĩnh-lạc, làm quan đến chức Tả-xuân phường đại-học-sĩ, trong niên-hiệu Chính-thống cùng với Dương-phu, Dương-Vinh đồng phụ chính, làm quan có năng-lực và liêm-chính, về sau vì con tên Tắc bị hạ ngục, buồn lo mà chết.

[1088]Lý-Khánh, người ở đất Thuận-nghĩa đời Minh, tính cứng-cỏi quả-quyết, có phẩm cách khí-lượng, làm quan đến chức Công-bộ Thượng-thư, Binh-bộ Thượng-thư, cùng với Liễu-Thăng đi đánh Lê-Lợi.

[1089]Lữ-Chấn, người đời Minh, tự là Khắc-thính, làm quan đến chức Thái-tử Thái-bảo.

[1090] Nguyên văn: Thủ tiến chỉ = nhận lấy thánh chỉ.- Từ đời Đường trở về sau, người ta nói phụng thánh chỉ (vâng chiếu chỉ của vua) ra phụng tiến chỉ.

[1091]Khoa danh, khoa-cử công-danh.

[1092]Trương-Khứ-Hoa, người đời Tống, tự là Tín-thần, lúc bé gắng học, trong niên-hiệu Kiến-long đỗ tiến-sĩ giáp khoa, làm quan đến Công-bộ thị-lang, khéo đàm luận, chuộng khí-tiết.

[1093]Đậu-Nghi, người ở đất Nghi-dương đời Tống, tự là Khả-tượng, 15 tuổi đã viết được văn, học-vấn rộng-rãi, vào nhà Tống làm Công-bộ Thượng-thư, vâng chiếu định lại 30 quyển sách Hình-thống, làm Học-sĩ ở viện Hàn-lâm. Bốn người em của Đậu-Nghi nối nhau thi đỗ, được người đời gọi là Đậu thị ngũ long.

[1094]Trương-Đạm, người ở đất Nam-dương đời Tống, tự là Thành-văn, ham học, có tài văn-chương, đỗ tiến-sĩ, phong nghi đẹp-đẽ, đàm-luận khéo-léo.

[1095]Tào-Lợi-Dụng, người ở đất Ninh-tấn đời Tống, tự là Dụng-Chi. Vua Chân-tông đến Thiền-châu, nước Liêu sai sứ nghị hòa, Tào-Lợi-Dụng được vua sai đến quân Liêu định xong hòa-ước, làm quan đến chức Khu-mật-sứ đồng bình chương sự, thêm chức Tả-bộc-xạ kiêm Thị-trung. Về sau bị bọn nội thị bày mưu hãm hại, phải thắt cổ mà chết.

[1096]Hùng-Bổn, người ở đất Phiên-dương đời Tống, tự là Bá-thông, trong niên-hiệu Khánh-lịch đỗ tiến-sĩ, vua Thần-tông khen văn của ông có hình-thức chế cáo, cho nên cho ông trông giữ chế cáo. Có để lại sách Văn-tập, Tấu-nghị.

[1097]Lưỡng-chế, đời nhà Tống cho Hàn-lâm học-sĩ giữ nội-chế, cho người chế cáo giữ ngoại-chế, cho nên gọi là Nội ngoại lưỡng-chế.

[1098]Thọ-tinh tức là Lão-nhân, cũng gọi là Nam-cực Lão-nhân, chủ về tuổi thọ.

[1099]Tài tư, tài-khí và tư-tưởng, nói về viết văn.

[1100]Lục yêu, khúc đàn tỳ-bà.

[1101]Quý du tử đệ, con em của các vương công.

[1102]Thẫm-Khởi, người đời Tống, tự là Hưng-tông, đỗ tiến-sĩ, có chính-trị nhân-huệ, thăng Giám sát ngự-sử, sau được làm Thiên Chương các đãi chế. Khi Vương-An-Thạch cầm quyền muốn lập công-trạng ở biên-giới, Thẫm-Khởi nói nước Giao-chỉ có thể lấy được, bèn quyết chí đánh lấy. Người Giao-chỉ nghi-ngờ, bèn công hãm bốn châu Liêm, Bạch, Khâm, Ung, khiến số tử-thương lên đến mấy mươi vạn. Thẫm-Khởi bị biếm và an-trí ở Tú-châu mà chết.

[1103]Nhung 狨, một loại vượn leo cây rất nhanh-nhẹn, có lông vàng mềm-mại êm-ái như tơ, có đuôi dài rất quý, người ta đi săn trong rừng sâu để bắt về làm thuốc và lấy đuôi làm nệm làm yên.

[1104]Vương-An-Lễ, người đời Tống, em của Vương-An-Thạch, tự là Hòa-phủ, làm quan đến chức Hàn-lâm học-sĩ, sau ra trấn-nhiệm ở phủ Thái-nguyên.

[1105] Nguyên văn là thượng khí 尚氣. Vương-An-Lễ muốn vào Khu-mật-viện mà không được, uất hận trong mấy tháng mà chết.

[1106]Khu-phủ tức Khu-mật-viện. Vua Đại-tông nhà Đường trong đầu niên-hiệu Vĩnh-lạc bắt đầu đặt ra Khu-mật-sứ với chức-vụ coi giữ các biểu tấu ở trong và ngoài, quyền hành càng ngày càng trọng bằng với chức Tể-tướng.

[1107]Thư-sinh, người đọc sách, học-sinh.

[1108]Vương-An-Thạch được phong Kinh Quốc-công, cho nên gọi là Vương Kinh-công.

[1109]Biện-Vọng-Chi, tức Biện-Khổn, người đời Tấn, con của Biện-Toái, tự là Vọng-Chi, lúc trẻ có danh-dự, trong niên-hiệu Vĩnh-gia làm trứ-tác-lang, trong thời vua Minh-đế làm Thượng-thư, cần-mẫn về việc quan-lại, lúc vua Thành-đế lên ngôi, Thái-hậu lâm triều, cùng với Du-Lượng phụ-chính. Khi Tô-Tuấn làm phản, ông chống cự, ra sức chiến-đấu đến chết, hai đứa con của ông cùng bị hại.

[1110]Dương-Tố, người đời Tùy, tự là Xử-đạo, lúc trẻ lêu-lỏng không kiểm-chế, có chí lớn, giỏi viết văn, lúc đầu thờ vua Chu Vũ-đế làm chức Xa-kỵ đại tướng quân, về sau theo Văn-đế định thiên hạ, vì có công được phong Việt quốc-công, nắm giữ triều-chính, lấy mưu trí dối trá tự lập, sang cả không ai bằng.

[1111]Quách-Sùng-Thao, người ở đất Nhạn-môn đời Hậu-Đường, làm Binh-bộ Thượng-thư, Khu-mật-sứ, khuyên Trang-tông đánh úp Biện-châu, trong 8 ngày diệt nước Lương, công đứng đầu vì mưu nghị, được vua ban thiết khoán, làm chức thị-trung, chức Thành-đức-quân tiết-độ-sứ. Quách-Sùng-Thao tận trung với nước nhà, gặp việc thì tha-thiết can gián. Các hoạn quan và kép hát trong cung thấy bất tiện mới gièm pha ông. Về sau ông làm Chiêu-thảo-sứ theo Ngụy-vương đi đánh Thục, bị Lưu Hoàng-hậu sai hoạn quan Mã Ngạn-Khuê sửa chiếu giết chết.

[1112]Thạch-Hiển (đã chú ở trước).

[1113]Trịnh-Ung, người ở Tương-ấp đời Tống, tự là Công-túc, đỗ tiến-sĩ, trong niên-hiệu Nguyên-hựu làm Thượng-thư Tả-thừa, trong niên-hiệu Thiệu-thánh, làm Trung-thư xá-nhân, mất vào đầu niên-hiệu Nguyên-phù.

[1114]Chương-Đôn, người ở đất Phố-thành đời Tống, tự là Tử-hậu, dời đi ở Tô-châu, tính hào tuấn, bác-học, đỗ tiến-sĩ trong niên-hiệu Gia-hựu, được Vương-An-Thạch chuộng tài, trong thời vua Triết-tông làm việc ở Khu-mật-viện, sau bị truất ra làm việc ở Nhữ-châu. Khi Cao Thái-hậu băng, ông được phục chức làm Thượng-thư bộc-xạ kiêm môn-hạ thị-lang, cùng bè đảng thi-hành Tân-pháp của Vương-An-Thạch. Đầu đời vua Huy-tông, ông bị biếm ra Mục-châu và chết.

[1115]Nguyên cát (nguyên, lớn- cát, phúc), phúc lớn.

[1116]Bá-Thường-Khiên, (nguyên văn chép sai chữ Khiên 騫 raImage), người đời Xuân-Thu.

[1117]Thời-trung, đạo trung-dung cư-xử cho hợp thời-nghi không thái quá và không bất cập.

[1118]Tam thự, đời Tần đặt ra, đời Hán noi theo, có Ngũ quan thự, Tả-thự và Hữu-thự, ở mỗi thự có đặt một quan Trung-lang tướng quản lãnh.

[1119]Lục-Tốn, người nước Ngô đời Tam-quốc, tự là Bá-ngôn, có tài cai-trị, giỏi về quân-lược, thờ Tôn-Quyền, làm Đô-đốc, định-kế khắc-phục Kinh-châu, đánh bại Lưu-Bị ở Di-lăng, phá Tào-Hưu ở đất Hoạn, trong niên-hiệu Xích-ô làm Thừa-tướng. Về sau Tôn-Quyền muốn phế Thái-tử, Lục-Tốn ra sức can ngăn mà không nghe, phẫn uất mà chết.

[1120]Nguyệt đán, Theo truyện Hứa-Thiệu trong sách Hậu Hán-thư, Hứa-Thiệu và Hứa-Tịnh đều có cao danh, ưa cùng nhau hạch luận các nhân-vật trong hương đảng mỗi kỳ đầu tháng.

[1121]Thôi-Hạo, người ở đất Thanh-hà đời Bắc-Ngụy, tự là Bá-Uyên, tiểu-danh là Đào-Giản, lúc trẻ ham học kinh sử, làm chức trứ-tác-lang, dưới triều vua Thái-tông, làm Bác-sĩ Tế-tửu, dưới thời vua Thế-tổ, được phong tước Đông Quận-công, sau khi đi đánh giặc trở về được làm chức Thị-trung và Phủ quân Đại-tướng quân. Thôi-Hạo là người nhiều mưu trí. Các việc quân quốc, triều đình đều hỏi ý-kiến của Thôi-Hạo.

[1122]Lư-Huyền, người đời Hậu-Ngụy, tự là Tử-Châu, làm chức Trung-thư Bác-sĩ, sau được ban tước Cố-an-tử và chức vị Tán kỵ thường thị.

[1123]Vĩ-Giả, người nước Sở đời Xuân-thu, tự là Bá-doanh, làm đại-phu.

[1124]Phó-Hà, người đời Xuân-thu, làm quan đại-phu nước Trịnh.

[1125]Thân-Đồ-Gia, người nước Lương đời Hán, lúc đầu theo Cao-tổ khởi binh, làm chức Đô-úy, trong thời vua Văn-đế, làm quan Ngự-sử Đại-phu, rồi làm Thừa-tướng, được phong Cố-an-hầu, là người cương-nghị chính-trực, không chịu cho ai yết-kiến riêng.

Bề tôi được vua yêu quý là Đặng-Thông giỡn trên điện, Thân-Đồ-Gia muốn bắt ra chém, may mà có tờ xá tội của vua ra. Thân-Đồ-Gia mới tha chết cho Đặng-Thông.

Triều-Thố đục tường ở tông-miếu, Thân-Đồ-Gia dâng tờ tấu xin giết đi. Triều-Thố sợ đã trước vào yết-kiến vua. Vua bênh-vực Triều-Thố, bào Thân-Đồ-Gia: Chính Trẫm khiến hắn làm như thế” .

Thân-Đồ-Gia phẫn-uất hộc máu mà chết.

[1126]Đặng-Thông, người An-nam đời Hán, lúc đầu chèo thuyền làm chức Hoàng-đầu lang, gặp vua Hán Văn-đế thu dụng và được yêu quý, cho làm Thượng đại-phu. Nhà tướng số bảo Đặng-Thông phải số nghèo và chết đói, cho nên vua muốn Đặng-Thông được giàu có, cho Đồng sơn ở Thục nghiêm đạo để đúc tiền, do đó Đặng-Thông giàu to. Vua Cảnh-đế lên ngôi thấy thế giận ghét, lột chức Đặng-Thông. Có người tố cáo Đặng-Thông trộm tiền, vua cho tịch-thâu tiền bạc của Đặng-Thông. Đặng-Thông rốt cuộc phải nghèo và chết đói.

[1127]Triều-Thố, người ở đất Dĩnh-xuyên đời Hán, trong thời vua Văn-đế làm chức Thái-thường chưởng cố, thăng chức Thái-tử Gia-lịnh, trong thời vua Cảnh-đế, thăng chức Ngự-sử đại-phu, xướng nghị xén bớt đất đai của chư-hầu, khiến bảy nước làm phản với danh nghĩa trừ Triều-Thố. Vua nghe lời Viên-Ảng cho chém đầu Triệu-Thố ở Đông thị.

[1128]Triệu-Quảng-Hán, người ở đất Lễ-Ngô đời Hán, tự là Tử-đô, trong thời vua Chiêu-đế đỗ Mậu-tài, làm chức Dương dịch lịnh, có hạnh-kiểm về cai trị, thăng chức Kinh-triệu doãn, khi Chiêu-đế băng giúp Hoắc-Quang thi hành việc phế lập, được ban tước Quan-nội hầu, có tài hỏi vòng vo mà hiểu được sự-tình, trộm cướp đều yên, danh tiếng nghe đến Hung-nô, cuối cùng xâm-phạm đến những nhà quyền quý, mắc tội mà chết.

[1129]Giang-Sung, người ở Hàm-đan đời Hán, vốn tên là Tề, vì mắc tội với Triệu Thái-tử, chạy sang miền tây, đổi tên Sung. Vua Hán Vũ-đế thấy trạng-mạo của Giang-Sung khôi-ngô hùng-vĩ, cho làm Trực chỉ tú y sứ giả, có mối hiềm-khích với Thái-tử Cử. Gặp lúc ấy vua đau, Giang-Sung vu cáo Thái-tử dùng bùa phép của đồng bóng ếm vua, dựng nên vụ án đồng bóng ếm hại người. Thái-tử sửa chiếu của vua và giết Giang-Sung.

[1130]Tiêu Vũ, người đời Đường, tự là Thi-văn, được phong Tống quốc-công, làm quan Ngự-sử đại-phu, tham-dự việc triều-chính, sau được ban Đồng-trung thư môn hạ tam phẩm.

[1131] Theo kinh Dịch, hào dương chỉ có một nét liền-,còn hào âm có hai nét rời - - .

[1132] Kinh Dịch có câu: Quân-tử dĩ át ác dương thiện = Người quân-tử có lượng bao-dung, hay giấu che điều ác và nêu lên điều tốt của người.

[1133] Câu này ở thiên Tất-mệnh trong kinh Thư.

[1134]Phú-Bật, người ở đất Hà-nam đời Tống, tự là Ngạn-quốc, dốc lòng học-tập, có độ-lượng rất rộng-rãi, dưới triều vua Nhân-tông thi đỗ Mậu-tài, trong đầu niên-hiệu Khánh-lịch, coi giữ chế cáo. Khi rợ Khiết-đan đồn binh ở biên-cảnh, sai sứ sang giành đất, Phú-Bật đi sứ, cự tuyệt việc cắt đất và trần bày việc lợi hại về hòa và chiến. Rợ Khiết-đan dẫn quân về. Phú-Bật được phong Khu-mật phó sứ. Có tang mẹ, ông xin trở về. Khi vua Anh-tông lên ngôi, ông được triệu vào làm Khu-mật-sứ, và được phong Trịnh Quốc-công. Khi Vương-An-Thạch cầm quyền, ông ra Tiết-độ-sứ ở Vũ-ninh, cương quyết không thi-hành Tân-pháp Thanh miêu. Vương-An-Thạch muốn bắt tội, ông xin cáo lão. Ông được trao chức Tư-không và tiến phong Hàn quốc-công rồi trí sĩ.

[1135] Nguyên văn: Quỹ vật là pháp-độ.

[1136] Nguyên văn: Nghi biểu là phép-tắc.

[1137] Nguyên văn: Kiểu kích là thanh-cao khác tục.

[1138]Gia-Cát-Lượng, người ở đất Lang-da nước Thục-Hán đời Tam-quốc, tự là Khổng-minh, đi cày ở Tương-dương, Lưu-Bị đến nhà ba lần mới được gặp. Ông ra giúp Lưu-Bị, đánh bại Tào-Tháo, lấy Kinh-châu và đất Hán-trung, đương đầu với nước Ngụy, nước Ngô, làm thành thế chân vạc. Lưu-Bị lên ngôi Hoàng-đế, phong ông làm Thừa-tướng. Lưu-Bị mất, ông phò Hậu chủ, được phong Vũ hương hầu, lãnh chức Ích-châu mục, phía đông hòa với Tôn-Quyền, phía nam dẹp yên Mạnh-Hoạch, lắm lần đem quân ra đánh nước Ngụy, chỉ muốn khôi-phục cõi Trung-nguyên, trùng hưng nhà Hán, sau mất ở trong quân, thọ được 54 tuổi.

[1139]Diêu-Do, người nước Thục đời Tam-quốc, tự là Tử-tự, trong niên-hiệu Kiến-trung làm Quảng-Hán Thái-Thú. Khi đóng quân ở Hán-trung Gia-Cát-Lượng có vời ông ra làm thuộc quan.

[1140]Bão-Thúc-Nha, làm quan đại-phu nước Tề đời Xuân-thu, lúc trẻ giao-hảo với Quản-Trọng, cùng buôn bán ở Nam-dương, biết Quản-Trọng là người hiền năng mà nghèo khó, chia tiền lời phần hơn cho Quản-Trọng. Về sau Bão-Thúc-Nha thờ Tề Hoàn-công, Quản-Trọng thờ Công-tử Củ. Công tử Củ chết, Quản-Trọng bị tù. Bão-Thúc-Nha mới tiến cử Quản-Trọng lên Tề-Hoàn-Công. Quản-Trọng giúp Tề Hoàn-Công thành nghiệp bá.

[1141]Phạm-Phang, người đất Chinh-Khương đời Đông Hán, tự là Mạnh-Bác, lúc trẻ tiết-tháo trong sạch, thi đỗ Hiếu-liêm, trong thời vua Hoàn-đế, đất Ký-châu nổi giặc cướp, Phạm-Phang được cử làm Thanh chiếu sử đi án-sát vụ này. Ông ngồi xe cầm cương có chí thanh-trừng thiên-hạ; về sau bị bọn hoạn quan oán ghét vu cáo cho ông kết đảng. Ông bị tội và giam vào ngục, rồi được thả trở về. Trong thời vua Linh-đế, có chiếu bắt ông. Ông tự đến nhà ngục và bị giết.

[1142]Thân-Đồ-Bàng, người đất Ngoại-hoàng đời Đông-Hán, tự là Tử-long, chín tuổi mồ-côi cha, nhà nghèo phải đi làm thợ sơn, được Quách-Thái và Thái-Ung kính trọng, về sau ở ẩn, học tập rất tinh, thông suốt ngũ kinh, lại biết đồ vĩ, lắm lần được vời mà không ra, ở ẩn tránh đời mà thoát được hoạn nạn.

[1143]Trinh-quán chính-yếu, tên sách, có tất cả 10 quyển, do Ngô-Căng đời Đường soạn, ngoài sách Thái-tông thực lục, còn chép những lời vấn-đáp của vua Đường Thái-tông với bầy tôi, phân ra 40 môn, có Qua-Trực đời Nguyên chú, có trích những luận-thuyết của 22 nhà từ Đường Liễu-Phương trở xuống cho phụ vào, gọi là Tập luận.

[1144] Nguyên văn: “…bất giải ái tài, chữ giải ở đây phải có nghĩa là hiểu biết mới thông ý câu văn.

[1145] Đây là lời của Nhuế Lương-Phu trách Lệ-Vương nhà Chu tin dùng Vinh Di-công mà Vương-thất nhà Chu sắp suy tàn. Vinh Di-công là người tham-lam giành mọi mối lợi về mình khiến quốc-gia cùng kiệt, nhân-dân đồ-thán.

[1146]Ngưu-Tăng-Nhụ, người ở đất Thuần-cô đời Đường, tự là Tư-ảm, trong thời vua Hiến-tông làm quan đến chức Ngự-sử Trung-thừa, trong thời vua Mục-tông làm Tể-tướng, kết bè đảng với Lý-Tông-Mẫn, bài xích những ai khác với mình, uy-quyền chấn-động thiên-hạ.

[1147]Ôn-Công tức Tư-mã-Quang.

[1148]Vương-Thu, người ở đất Tống-thành đời Tống, tự là Nguyên-thúc, đỗ Tiến-sĩ, làm quan đến chức Thị-giảng học-sĩ, coi rộng nhớ nhiều, thấu suốt cả đồ sấm toán số âm luật huấn cổ triện lệ, viết sách Dịch truyện.

[1149]Khí-thức là khí cục (tài-năng độ-lượng) và kiến-thức.

[1150]Lục-Tiếp, người đời Minh, con của Lục-Thâm, tự là Tư-dự, nhà sách của ông gọi là Kiêm-gia-đường, có viết sách Kiêm-gia đường cảo, Cổ kim thuyết hải có 142 quyển.

[1151]Triều chương, điển-chương (pháp-độ) của triều-đình.

[1152]Hư tâm, lòng không tự mãn, để lòng trống mà dung nạp.

[1153]Hạ-khí, tịnh khí, giữ khí yên lặng.

[1154]Diêu-Sùng, người đời Đường, tự là Nguyên-chi, ham học, tài chất hùng tuấn, chuộng khí tiết, được trao chức Tể-tướng, phong Lương quốc-công, chỉnh kỷ-cương, sửa chế-độ làm thành cuộc an trị trong niên-hiệu Khai-nguyên.

[1155]Trọng-Thư, Lý-Thư đời Đường tự là Trọng-Thư, trong thời vua Đức-tông, làm Lại-bộ Thị-lang, phụng chiếu làm sách Hưng-nguyên kỷ công thuậtGiao miếu nhạc chương, bình-luận và soạn sách rất nhiều.

[1156]Tề-Hoãn, người ở đất Nghĩa-phong đời Đường, tự là Tẩy-tâm, lúc trẻ minh-mẫn, được khen là có tài giúp vua, trong niên-hiệu Thánh-lịch đỗ Tiến-sĩ, trong đầu niên-hiệu Cảnh-vân, được Diêu-Sùng tiến dẫn làm Ngự-sử, trong niên-hiệu Khai-nguyên thăng chức Trung-thư xá-nhân, việc chính lớn-lao đều hỏi ý-kiến ông, về sau làm chức Giang-nam Thái phỏng sứ.

[1157] Nguyên văn: Bất cầu quy ích tai? (bất, chẳng - cầu, tìm- quy, bắt chước- ích, hữu ích- tai, sao?).

[1158]Tự-dụng, cậy vào tài trí của mình, hành-động theo ý riêng của mình.

[1159]Đỗ-Hoàng-Thường, người ở đất Đỗ-lăng đời Đường, tự là Tốn-tố, đỗ Tiến-sĩ, làm chức Thái-thường khanh, thường xin vua Đức-tông san bằng phiên trấn, được vua nghe theo, chấn-hưng được kỷ-cương, trong thời vua Hiến-tông, làm quan đến chức Đồng bình chương sự, về sau làm chức Tiết-độ-sứ, được phong Bàn quốc-công.

[1160]Hàn-Kỳ, người ở đất An-dương đời Tống, tự là Trĩ-khuê, đỗ Tiến-sĩ, làm việc trong ba triều vua Nhân-tông, Anh-tông và Thần-tông, làm chức Hữu Bộc-xạ, gia Thị-trung, phong Ngụy quốc-công, thiên-tư trung-thành chất-phác, dám nói dám làm, đáng là bậc Tể-tướng hiền-năng.

[1161]Hành đạo, thực hành điều mình đã học.

[1162]Chung, đồ để đong lường đựng 6 hộc 4 đấu.

[1163] Nói ông Y-Doãn giúp nhà Thương.- Ông Y-Doãn là Tể-tướng hiền-năng của nhà Thương, tên là Chí, đi cày ở cánh đồng của họ Hữu-Sằn, vua Thành-Thang ba lần đem lễ-vật đến vời, ông mới ra giúp vua Thành-Thang đánh vua Kiệt, diệt nhà Hạ. Ông Y-Doãn có công nhiều nhất được vua Thành-Thang tôn làm A-Hành. Vua Thành-Thang băng, cháu nội là Thái-Giáp vô đạo, ông Y-Doãn đưa ra ở đất Đồng. Sau ba năm Thái-Giáp cải hối, ông Y-Doãn đưa về đất Bạc lên làm vua. Ông Y-Doãn thọ được 100 tuổi thì mất, được vua Ốc-Đinh chôn cất theo nghi-lễ của thiên-tử.

[1164]Khoảnh, là 100 mẫu

[1165] Nói ông Gia-Cát-Lượng đã phò Hán tiên chủ Lưu-Bị (đã chú ở trước).

[1166] Nguyên văn: Bình cư, là lui về ở ẩn

[1167] Nói ông Tạ-An, người ở đất Dương-hạ đời Tấn, tự là An-thạch, phong độ thanh tú, thần thức trầm lặng minh mẫn, lúc trẻ đã nổi danh, ở ẩn vùng Đông-sơn ở Cối-kê, sau nhận lời Hoàn-Ôn ra làm quan Tư-mã. Hoàn-Ôn uy-quyền chấn động cả trong ngoài, âm-thầm có chí soán ngôi. Tạ-An và Vương-Thản-Chi tận trung giúp vua, cuối cùng được an hòa. Khi Hoàn-Ôn mất, ông làm Thượng-thư Bộc-xạ, lãnh chức Trung-thư-lịnh. Bồ-Kiên đem binh trăm vạn đồn ở Hoài-Phi, kinh-đô nhà Tấn chấn động. Ông làm Chinh-bảo Đại Đô-đốc, chỉ-huy tướng súy, cả phá quân giặc, sau thăng chức Thái-bảo, ra trấn ở Quảng-lăng, bịnh nặng trở về triều thì mất.

[1168] Nói ông Tư-mã Quang, người đời Tống, tự là Quân-thực, trong niên-hiệu Bảo-nguyên đỗ Tiến-sĩ, làm đến chức Đoan-minh học-sĩ, trong thời vua Thần-tông, đã cực-lực phản-đối tân-pháp Thanh-miêu trợ dịch của Vương-An-Thạch là bất tiện, nghịch ý với Vương-An-Thạch. Ông ra làm Tây-kinh Ngự-sử rồi lui về Lạc-dương. Khi vua Triết-tông lên ngôi, ông vào triều làm Tể-tướng, bãi bỏ hết Tân-pháp của Vương-An-Thạch, mất lúc tại chức, được tặng Ôn quốc-công.

[1169]Đài-phụ, tức Tể-phụ là Tể-tướng.

[1170]Lý-Bí, người ở đất Kinh-triệu đời Đường, tự là Trường-nguyên, 7 tuổi đã viết văn, được người ta khen là kỳ-đồng, lớn lên bác thông kinh sử, nghiên cứu Dịch tượng, giỏi thơ, thích thuyết thần tiên, trong niên-hiệu Thiên-bảo học đạo ở núi Tung-sơn, nhưng lại dâng thư luận thế sự, được đưa vào Hàn-lâm, thờ Túc-tông lúc còn làm Thái-tử, bị Dương-Quốc-Trung không ưa, trở về ẩn ở núi sâu. Khi An-Lộc-Sơn làm loạn, Túc-tông lên ngôi ở Linh-vũ, ông được vua thân-mật kính trọng, nhưng ông cố từ quan tước mà không được phải nắm giữ khu mật vụ, quyền bính còn hơn Tể-tướng, bị Lý-Phụ-Quốc ganh ghét, ông lại lui về ở ẩn. Vua Đại-tông lên ngôi, vời ông ra làm Bí-thư-giám, ông bị bọn Nguyên-Tái không ưa, phải ra làm Thứ-sử Sở-Châu, rồi Hàng-châu. Trong thời vua Đức-tông, Chu-Thử làm loạn, nhà vua đến Phụng-thiên, vời ông đến Hành-tại trao cho chức Trung-thư Thị-trung đồng bình chương sự. Vua muốn phế Thái tử Tụng, nhờ ông ra sức can gián mới thôi. Ông được phong Nghiệp-hầu.

[1171]Nguyên-Tái, người ở đất Kỳ-sơn đời Đường, tự là Công-phụ, thông hiểu Lão-tử, Trang-tử và Liệt-tử, đầu niên-hiệu Thiên-bảo bị cử vào Cao-đệ, khi Lý-Phụ-Quốc cầm quyền, ông làm Trung-thư môn hạ bình chương sự, khi vua Đại-tông lên ngôi, ông làm Trung-thư Thị-lang,về sau ông chuyên quyền, cho các con ăn hối-lộ, bài xích người trung thần hiền-năng, vua răn trách mà không thôi, vua ra lịnh cho tự-sát.

[1172]Thường Cổn, người ở đất Kinh-triệu đời Đường, trong niên-hiệu Thiên-bảo đỗ tiến-sĩ, trong thời vua Đại-tông làm Môn-hạ thị-lang đồng bình chương sự, tước Hà-nội Quận-công, tính hà khắc nhỏ mọn, khi vua Đức-tông lên ngôi, bị biếm làm Thứ-sử Từ-châu, đầu niên-hiệu Kiến-trung, làm Quan-sát sứ ở Phúc-kiến, mở trường dạy người chưa học, chết tại chức, có văn tập.

[1173]Mạc-liêu, chức thuộc quan trong mạc-phủ của tướng súy.

[1174]Hàn-Ngụy-Công tức Hàn-kỳ, được phong Ngụy Quốc-công.

[1175]Nham-Tẩu tức Vương Nham-Tẩu, người ở đất Thanh-bình đời Tống, tự là Ngạn-lâm, thi tỉnh và thi đình đều đỗ hạng nhất, làm quan đến chức Thị Ngự-sử, có viết sách Hàn Ngụy công biệt lục.

[1176] Tế 濟, là thành công, ích lợi.

[1177]Giảo 較,so sánh.

[1178]Lý-Cố, người đời Hậu Hán, tự là Tử-kiên, lúc trẻ học rộng, trong thời vua Trùng-đế (145 trước Tây-lịch) làm Thái-úy. Trùng-đế băng, Chất-đế bị thí, Lý-Cố và Đỗ-Kiều muốn lập Thanh-hà vương làm vua, Lương-Kỳ lại lập Hoàn-đế lên ngôi, vu cáo cho Lý-Cố. Lý-Cố bị hạ ngục và bị giết.

[1179]Đỗ-Kiều, người đất Lâm-lự đời Hậu Hán, tự là Thúc-vinh, trong thời vua Thuận-đế (125-144) làm chức Đại-tư nông, vì con em của Lương-Ký 5 người và bon Trung thường thị không công lao mà được phong, tha-thiết can gián vua mà bị gièm siễm và chết trong ngục.

[1180]Hồ-Quảng, người đời Hậu Hán, tự là Bá-thủy, trong thời vua An-đế (106-125) thi đỗ Hiếu-liêm. đứng đầu trong thiên-hạ, làm Thượng-thư lang, thiên chức Tư-đồ, có công lập vua Hoàn-đế được phong Dực-dương an lạc hương hầu, lại làm Thái-úy, thiên Thái-phó, thờ tất cả 6 vua: An-đế, Thuận-đế, Trùng-đế, Chất-đế, Hoàn-đế, Linh-đế.

[1181]Triệu-Giới, người đời Hậu Hán, ở Thành-đô, làm Nam-dương Thái-thú, tâu xin miễn chức những tham quan, làm chức Thái-úy, có công lập vua Hoàn-đế, được phong Trù-đinh hầu.

[1182]Hữu-tâm, 1. Lòng phát sinh ý niệm gì. 2. Để lòng sâu-sắc nhỏ-nhặt kín-đáo. 3. Cố ý.

[1183]Thành phủ, chỗ sâu-xa bí-ẩn trong lòng. Tâm địa bằng-phẳng rõ-ràng thì nói là hung vô thành phủ, ngược lại thì nói thành phủ phả thâm.

[1184]Trương-Vịnh, người đời Tống, tự là Phục-chí, hiệu là Quai-nhai, trong niên-hiệu Thái-bình Hưng-quốc (976-983) đỗ Tiến-sĩ, làm quan đến chức Khu-mật trực học-sĩ, sau thiên Lại-bộ Thượng-thư.

[1185]Lý-Điển, người ở đất Hoa-dương đời Tống, nổi tiếng trong làng vì việc học tập, lúc đầu không có ý ra làm quan, được Trương-Vịnh khuyến-khích mới đi thi đỗ, tự gọi là Cốc-tử, có viết sách Ca thi tạp văn, Trương-Vịnh ngữ lục.

[1186]Quỳnh, côi, mồ-côi.

[1187]Xâm ngư, xâm đoạt.

[1188]Đài-sảnh, Đài là tam đài: Thượng-thư là Trung-đài, Ngự-sử là Hiếu-đài, Yết-giả là Ngoại-đài. Sảnh là lục-sảnh: Thượng-thư, Hoàng-môn, Trung-thư, Bí-thư, Điện-trung, Nội-thị.

[1189]Điển lại, các chức viên làm việc ở châu phủ huyện.

[1190]Chướng, là khí độc ở núi rừng dễ làm người ta sinh bịnh. Ở đây nói về những mối tệ hại của quan liêu.

[1191]Thâm văn, dùng pháp-luật thâm khắc.

[1192]Cốc hạ, ở tại kinh-đô.

[1193] Nguyên văn: Đương minh tọa hữu, phải ghi khắc bên chỗ ngồi để tự giới răn.

[1194]Tây-sơn Chân thị (họ Chân ở Tây-Sơn) tức Chân-Đức-Tú, người đất Phố-thành đời Tống, tự là Cảnh-Nguyên, sau đổi là Cảnh-hy, trong niên-hiệu Khánh-nguyên đỗ Tiến-sĩ, làm quan đến chức Tham-tri chính sự, đứng ở trong triều 10 năm, tấu sớ có đến mấy mươi vạn chữ, đều là những việc thiết yếu. Cái học của ông là theo phái Chu-Hy,học-giả gọi ông là Tây-sơn tiên-sinh. Sách của ông đã viết có: Đại học diễn nghĩa, Độc Thư ký, Văn chương chánh tông, Tây sơn giáp ất cảo, Tây-sơn văn tập.

[1195]Vương-Mại, người ở đất Tiên-du đời Tống, tự là Quán-chi, hiệu là Cù-hiên, một hiệu nữa là Sắc-tử cuồng sinh, trong niên-hiệu Gia-định đỗ tiến-sĩ, lập-thân bằng học vấn từ chương, làm quan đến chức Tri-hiệu vũ quân, có viết sách Cù hiên tập.

[1196] Nguyên văn: Tứ tri là bốn người biết: Theo Truyện Dương-Chấn trong sách Hậu-Hán-thư, Dương-Chấn sợ có bốn người biết. Vương-Mật là chức Lịnh ở Xương-ấp, ban đêm đem mười cân vàng đến tặng cho Dương-Chấn và nói: “Đêm hôm không có ai biết đâu!” - Dương-Chấn đáp: “Trời biết, thần biết, tôi biết, anh biết, sao lại bảo là không ai biết” .

[1197]Lục, nhục.

[1198]Nhất hạc nhất cầm, đi làm quan chỉ mang theo một con chim hạc và một cây đàn- Triệu-Biện, người ở đất Tây-an đời Tống, tự là Duyệt-đạo, đỗ Tiến-sĩ, đầu niên-hiệu Cảnh-hựu (1034-1037) làm quan đến chức Điện-trung Thị ngự-sử, cứng cỏi chính-trực đứng ở triều-đình, hài tội-lỗi các quan không kiêng kỵ, tay quyền quý, người đời khen là Thiết-diện ngự-sử (quan ngự-sử mặt sắt), ra làm quan ở Thành-đô chỉ đem theo một con chim hạc và một cây đàn, chính-trị của ông rất giản-dị. Khi vua Thần-tông lên ngôi, ông được cất nhắc lên làm Tham-tri chính-sự, không hợp với Vương-An-Thạch, ông trí sĩ về hưu. Ông có viết Triệu thanh hiến tập.

[1199]Thục vấn, khéo tra hỏi kẻ tù tội.

[1200]Bỉnh quân, cầm quyền.

[1201]Vũ-hầu, tức Khổng-Minh Gia-Cát Vũ-hầu.

[1202]Vương tá, người có tài giúp vua.

[1203]Cảnh chẩm, Ngô-Việt vương Tiền-Lưu ở trong quân, ban đêm ít ngủ, kê đầu bằng khúc gỗ tròn (dễ lăn) hay trên cái chuông to để thường tỉnh giấc, gọi là cảnh chẩm.

[1204]Thiên lý-lâu trong sách Mạnh-tử có câu: Vũ tư thiên-hạ hữu nịch giả, do kỷ nịch chi dã. Tắc tư thiên-hạ hữu cơ giả, do kỷ cơ chi dã = Vua Vũ lo cho thiên-hạ có người chết chìm là do mình làm cho bị chết chìm. Ông Tắc lo cho thiên-hạ có người đói là do mình làm cho họ phải đói.

[1205]Phạm tức là Phạm-Trọng-Yểm, người ở Ngô-huyện đời Tống, tự là Hy-văn, lúc bé mồ-côi nghèo khó ra sức học tập, trong niên-hiệu Đại-trung tưởng phủ đỗ tiến-sĩ, làm chức Bí-các hiệu lý. Khi Nguyên-Hạo làm phản, ông làm chức Long đồ các trực học-sĩ đi kinh lược đất Thiểm-tây, hiệu-lịnh của ông nghiêm-minh, người Hạ không dám phạm. Về sau ông làm chức Khu-mật Phó sứ, thăng Tham-tri chính-sự, rồi lại ra làm chức Tuyên-phủ Hà Đông, Thiểm-tây, Quý-Châu, Dĩnh-châu. Ông là người tài cao chí cả, thường lấy thiên-hạ làm trách-nhiệm của mình, thích làm việc thiện và bố-thí, lập ra nghĩa-điền để giúp người trong họ.

[1206]Hàn tức Hàn-Kỳ, đã chú ở trước.

[1207]Kiết, tố cáo việc tư riêng bí mật của người.

[1208]Chu-Thầm, người ở đất Cát-thủy đời Minh, tự là Tuân-như, trong niên-hiệu Vĩnh-lạc đỗ Tiến-sĩ, làm quan đến chức Công-bộ Thượng-thư.

[1209]Dương-Nhất-Thanh, người ở đất An-ninh đời Minh, dời sang ở đất Ba-lăng, tự là Ứng-ninh, trong niên-hiệu Thành-hóa đỗ Tiến sĩ, thăng Sơn-tây án-sát thiêm-sự, làm Phó-sứ Đốc-học ở Thiểm-tây, thăng chức Thái-tử Thái-sư, đặc tiến Tả trụ quốc, Hoa-cái điện đại học-sĩ, về sau bị bọn Trương-Thông âm mưu mà mất chức, bị bịnh ung-thư sau lưng mà chết. Ông là người bác học giỏi quyền biến, giỏi về việc biên phòng, tài của ông vô song một thời.

[1210] Nguyên văn: Mô-lăng là phải trái nên chăng không quyết-định dứt-khoát.

[1211] Nguyên văn: Tích hoạch Imagelà xử lý phân tích.

[1212] Câu đúng theo lịch-sử là: Bất si bất lung bất tác cô [gia? ]ông 不癡不聾做不作家翁 = Không ngu không điếc thì không được làm cha vợ mẹ vợ.- Theo sách Thông-giám, niên-hiệu Đại-lịch thứ hai (768), con trai của Quách-Tử-Nghi tên ái cưới công-chúa Thăng-bình, hai vợ chồng cứ gây-gổ nhau luôn, ái có nói xúc phạm đến vua khi gây với Công-chúa. Quách-Tử-Nghi giam con trai lại để chờ chịu tội. Vua bảo: “Không ngu không điếc không được làm cha vợ mẹ vợ, lời con trẻ trong phòng the có đáng nghe chi? ” (Câu này ý nói làm cha mẹ vợ phải giả ngu giả điếc, giả như không nghe những lời con trẻ gây-gổ nhau trong phòng the).

[1213]Lễ, rượu ngọt.

[1214]Quốc thị, quốc sách, quốc kế, quốc sự.

[1215] Nguyên văn: Bất kích 不激 chữ kích nghĩa là chận dòng sông cho nước tung vọt lên. Ở đây nên dịch là không chận lại, cho đối với bất tùy 不隨là không xuôi theo.

[1216] Nguyên văn: Bất tàng thính huề 不藏町畦. = Không chất-chứa vẻ uy-nghi. Thính huề là bờ ruộng, là uy-nghi.

[1217]Thành phủ, giữ lòng sâu kín đối với người.

[1218]Sư tâm (lấy tâm ý của mình làm thầy), chỉ theo ý-kiến của mình mà làm, chớ không nghe lời ai cả.

[1219]Kiềm thủ, dân đen.

[1220]Thân tức Thân-Bất-Hại, người nước Hàn đời Chiến-quốc, làm tướng cho Hàn Chiêu-hầu 15 năm, ở trong thì sửa chính-giáo, ở ngoài thì ứng chư-hầu, suốt đời ông, nước Hàn không bị xâm-lăng. Cái học của ông gốc ở Hoàng-đế và Lão-tử, chủ về hình-pháp trật tự, được nổi danh với Hàn-Phi, người đời gọi chung là Thân, Hàn.

[1221]Hàn tức Hàn-Phi, công-tử nước Hàn đời Chiếu-quốc, cà-lăm nhưng viết sách rất giỏi, cùng với Lý-Tư thờ Tuấn-Khanh, nhân thấy nước Hàn nhỏ bé, đã lắm lần gởi thơ can gián Hàn-vương mà không được dùng, bèn viết sách Cô-phẫn, Ngũ-đài, Nội ngoại trừ thuyết, Thuyết-lâm, Thuyết-nan hơn mười vạn lời nói.

Tần-vương đọc những sách ấy, luyến mộ Hàn-Phi, muốn gặp và giao-du với Hàn-Phi. Quân Tần đánh gấp nước Hàn, nước Hàn sai Hàn-Phi đi sứ sang Tần. Lý-Tư và Diêu-Giả nói xấu Hàn-Phi. Lý-Tư sai người đưa thuốc độc cho Hàn-Phi và bảo hãy tự-sát.

[1222]Thi quy, thi là cỏ thi sống hàng trăm năm được dùng để bói. Quy là con rùa sống hàng trăm ngàn năm được dùng để bói. Cỏ thi và mai rùa là phương cách để người xưa dùng để biết rõ việc cát hung.

[1223]Kỷ giác 掎角, phân binh ra làm hai mặt, giữ thế nương tựa nhau để chống quân địch, như khi bắt con hươu, người thì nắm lấy chân, người thì nắm lấy sừng.

[1224]Quách-Thác-Đà, theo truyện Chủng thụ Quách-Thách-Đà của Liễu-Tông-Nguyên, họ Quách mới đầu không biết là tên gì, bị bịnh rồi đi khum lưng giống như con lạc-đà, cho nên người trong làng gọi Quách-Thác-Đà. Ông ta có tài trồng cây.

[1225]Ngang ngang, dáng cao ngất-ngưởng.

[1226]Tinh trì, chạy mau như sao xẹt.

[1227]Đồng, một giống người Man.

[1228]Diêu thường đọc Dao một giống người Man.

[1229]Âm đức, việc phúc đức âm thầm mà người ta không hay biết, chỉ có quỷ thần thấu rõ mà thôi.

[1230]Mai-Thừa, người ở đất Hoài-âm đời Hán, tự là Thúc, viết văn rất giỏi, trong thời vua Cảnh-đế, làm chức Lang-trung cho Ngô-Vương-Phi. Ngô-Vương-Phi oán hận mưu nghịch, Mai-Thừa can gián không được, bèn bỏ đi làm quan cho Lương Hiếu-Vương, trong thời vua Vũ-đế Mai-Thừa tuổi đã già được triệu vời, đi nửa đường thì mất.

[1231]Hà-Tỷ-Can, người ở đất Bình-lăng đời Hán, tự là Thiếu-khanh, giỏi về pháp-luật, trong thời vua Vũ-đế, làm chức Đan-dương Đô-úy.

[1232]Đặng-Huấn, người đời Hậu-Hán, tự là Bình-Thúc, đầu thời vua Minh-đế, làm chức Lang trung. Ông là người khiêm thứ hạ sĩ được các sĩ-phu đều theo về, thăng chức Ô-hoàn Hiệu-úy, trong niên-hiệu Nguyên-hòa, thăng Trường-dịch Thái-thú, Hộ Khương Hiệu-úy, lấy ân tín đối-đãi người Khương. Ông mất ở chức, được người Khương đến khóc hàng mấy ngàn người.

[1233]Đậu-Vũ-Quân, người đất Ngư-dương, đời Hậu Chu, nổi danh về từ-học, vào nhà Chu làm quan đến chức Thái-thường Thiếu-khanh, Hữu giản nghị đại phu, nghĩa cao hạnh đốc, gia pháp nhà ông làm khuôn mẫu cho một thời, mở trường nghĩa-thục, gom sách hàng vạn quyển, mời các nhà nho nổi tiếng đến dạy con em ở xa gần, những kẻ sĩ nghèo khó đều được ông cấp cho cơm áo. Đến khi ông làm quan, các hiền-sĩ ở bốn phương đều đến nhờ ông tiến-cử rất đông. Năm đứa con của ông đều nối nhau thi đỗ.

[1234]Vương-Hựu, người ở đất Thái-hòa đời Minh, làm chức Quảng-tây Thiêm-sự, Án-sát-sư, đất Quảng-tây được yên trị, về sau làm Tri-châu Trùng-khánh, mắc tội mất chức.

[1235]Lưu-Đại-Hạ, người đời Minh, tự là Thi-ung, trong niên-hiệu Thiên-thuận đỗ Tiến-sĩ, làm chức Phương-lang-trung, thông hiểu việc binh, vì bịnh tật xin trở về, dựng ngôi nhà cỏ ở núi Đông-sơn để đọc sách, về sau đinh-thần tiến-cử làm Binh-bộ Thượng-thư được vua Hiếu-tông tín-nhiệm, khi vua Vũ-tông lên ngôi, ông xin về hưu.

[1236]Ngụy-Khỏa, người đời Xuân-thu.- Ngụy Vũ-tử có người thiếp, người thiếp nầy không có con, Vũ-tử bảo con là Ngụy-Khỏa rằng: “Khi ta chết, con đem gả người thiếp nầy lấy chồng” . Vũ-tử đau lại dặn Ngụy-Khỏa rằng: “Khi ta chết, con đem người thiếp nầy chôn sống theo ta” .

Đến khi Vũ-tử chết, Ngụy-Khỏa đem người thiếp ấy gả lấy chồng vì cho rằng người đau thì trí não rối loạn không nên tuân theo.

Trong trận đánh ở Phụ-thị, Ngụy-Khỏa thấy một ông già kết cỏ làm vướng chân ngựa tướng nhà Tần là Đỗ-Hồi. Đỗ-Hồi ngả xuống ngựa, bị Ngụy-Khỏa bắt sống.

Ban đêm Ngụy-Khỏa nằm chiêm-bao thấy ông già ấy đến bảo rằng: “Tôi là cha của người thiếp được ông gả lấy cho chồng, tôi đã làm như thế để báo đền ơn đức của ông” .

[1237]Hàn-Quyết, người nước Tấn đời Xuân-thu, trong thời vua Cảnh-công nước Tấn đánh với nước Sở, Hàn-Quyết làm quan Tư-mã, trong trận đánh ở đất An, Hàn-Quyết cơ hồ bắt được Tề-hầu. Nước Tấn lập ra sáu quân, Hàn-Quyết làm quan khanh, khi Điệu-công lên ngôi, Hàn-Quyết cầm quyền, cứu nước Tống, đánh nước Trịnh, lại bá chủ chư hầu, về sau cáo lão về hưu, mất với tên thụy là Hiến-tử.

[1238]Tôn-Thúc-Ngao, người nước Sở đời Xuân-thu, lúc bé đi đường thấy con rắn hai đầu, nghe người ra nói: “Hễ ai trông thấy loài rắn nầy thì phải chết” . Biết mình sắp phải chết lại sợ người sau gặp con rắn này thì phải chết nữa, bèn giết con rắn ấy đem chôn. Lúc trưởng-thành Tôn-Thúc-Ngao cung-kính cần-kiệm, thay Ngu-Khâu làm Tể-tướng nước Sở, đem giáo-hóa dắt dân, trong ba tháng mà nước Sở đại trị.

[1239]Dương-Bảo, người đời Hậu-Hán, ở ẩn dạy học. Được Vương-Mãng vời ra làm quan, ông trốn đi. Vua Hán Quang-vũ khen ngợi khí tiết của ông, trong niên-hiệu Kiến-vũ, vời ông ra làm quan. Ông không ra và mất.

Lúc bé mới 9 tuổi, ông đến phía bắc núi Hoa-âm sơn, thấy một con chim sẻ vàng bị con điểu đánh, rơi ở dưới gốc cây. Ông đem chim sẻ vàng về đặt trong rương, lấy hoàng-hoa cho ăn, nuôi dưỡng hơn trăm ngày. Lông vũ đã đầy đủ, chim sẻ vàng bay đi.

Đêm ấy Dương Bảo nằm chiêm-bao thấy một đứa trẻ mặc áo vàng đến vái chào và bảo: “Tôi là sứ-giả của Tây Vương-mẫu, cảm ơn ông đã nhân-ái cứu đỡ, xin lấy bốn chiếc vòng ngọc trắng tạ ơn, khiến con cháu của ông sẽ được thanh-khiết trong trắng, chức-vị đến bậc Tam-đài, giống như những chiếc vòng nầy vậy” .

Con cháu của Dương-Bảo quả thật đều quyền cao chức trọng.

[1240]Tào-Bân, người ở đất Linh-thị đời Tống, tự là Quốc-hoa, tính-tình trong sạch nhân thứ, lúc đầu làm quan cho nhà Chu với chức Hà-trung đồ-giám, sau theo nhà Tống, đi đánh đất Thục, các tướng đều muốn giết sạch nhân-dân trong thành, một mình Tào-Bân ra lịnh ngăn cấm, các tướng đều thu vét ngọc lụa của dân, còn trong túi của Tào-Bân chỉ có sách vở khăn áo mà thôi. Ông được trao chức Nghĩa-thành-quân Tiết-độ-sứ, xuống Giang-nam, không hề giết bậy một người nào, không hề lấy bậy của ai một vật gì, được thăng chức Kiểm-hiệu Thái-sư kiêm Thị-trung, được phong Lỗ quốc-công

[1241]Viên-An, người ở đất Nhữ-dương đời Đông-Hán, tự là Thiệu-công, là người nghiêm-trọng uy-nghi. Lúc chưa hiển-đạt, ở Lạc-dương xuống tuyết to, người ta phần nhiều đi ăn xin, còn Viên-An thì nằm co không dậy. Quan lịnh ở Lạc-dương đi đến cửa nhà ông thấy thế cho là người hiền-năng, bèn tiến-cử làm Hiếu-liêm, trao chức Âm-bình trưởng, Nhiệm-thành lịnh, trong niên-hiệu Vĩnh-bình, làm Sở-quận Thái-thú. Gặp lúc Sở-vương Anh mưu phản làm liên-lụy đến mấy ngàn người, Viên-An đến quận xét án, hơn 400 nhà được trả tự-do. Ông được thăng chức Thái-bộc và cất nhắc lên chức Tư-đồ. Trong thời vua Hòa-đế, họ Bảo chuyên quyền, Viên-An giữ nết đứng-đắn không a-dua, thẳng tay hạch tội không kiêng tránh những quan có quyền trọng được vua yêu, khiến vua và đại-thần đều được nhờ cậy.

[1242]Sơ - học ký, tên sách, có tất cả 30 quyển, do nhóm Tử-Kiên phụng sắc soạn ra, chép những phần trọng yếu trong kinh sử, chia ra từng loại, có 26 bộ, 313 mục, đầu tiên là kể sự, kế tiếp là sự đối, cuối cùng là thi văn, trích chọn trong những cổ-thư của nhà Tùy trở về trước.

[1243]Cổn, cha của vua Vũ nhà Hạ, được vua Nghiêu phong làm Sùng-Bá, trị thủy không thành coong mà bị vua Thuấn giết ở núi Vũ-Sơn.

[1244]Ngô Việt Xuân-Thu, tên sách, tất cả có 10 quyển, do Triệu-Diệp đời Hán soạn, Từ-Thiên-Hựu chú.

[1245]Thùy, bề tôi của vua Thuấn, làm cung tên rất khéo.

[1246]Nghiệt, đời xưa trong cửa có đóng 2 cây nghiệt, khoảng ở trong 2 cây nghiệt gọi là trung-môn, khoảng ở ngoài hai bên cây nghiệt gọi là trành, bậc tôn trưởng ra vào ở giữa, kẻ thấp hèn ra vào hai bên.

[1247]Trành, hai thanh gỗ ở hai bên cửa dùng để ngăn cản xe cộ đụng chạm vào cửa.

[1248]Tam tài đồ hội, tên sách, có 106 quyển, do Vương-Ký đời Minh soạn, sưu-tập những đồ ký và chú giảng của các sách, chia ra làm Thiên-văn, Địa-Lý, Nhân-vật, Thì-lịnh, Cung-thất, Khí-dụng, Thân-thể, Y-phục, Nhân-sự, Nghi-chế, Trân-bảo, Văn-sử, Điểu-thú, Thảo-mộc tất cả 14 món, chọn trích rất rộng-rãi, đủ để tham-khảo.

[1249]Bách-Lý - Hề làm tể tướng nước Tần, trên chính đường đánh nhạc, có người đàn bà thuê đi giặt rửa tự xưng là bạn tri âm, ôm đàn đánh dây mà hát. Đó là người vợ cũ của Bách-Lý-Hề. Vợ chồng cũ lại xum hợp. Bài hát ấy có ba khúc, khúc đầu như sau:

百里奚

五羊皮

憶別時

烹伏雌

炊扊扅

今日富貴忘我為?

Bách-Lý-Hề

Ngũ dương bì

Ức biệt thì

Phanh phục thư

Xuy diễm di

Kim nhật phú quý vong ngã vi?

Dịch nghĩa

Bách-Lý-Hề,

Tự bán mình với giá năm tấm da dê.

Nhớ lúc từ biệt,

Làm thịt con gà mái ấp,

Lấy cây gài cửa làm củi mà nấu,

Ngày nay giàu sang lại quên ta sao?

Dịch thơ

Hỡi này anh Bách-Lý-Hề,

Bán mình năm tấm da dê ngày nào.

Nhớ ngày từ biệt xa nhau,

Nấu gà mái ấp xiết bao nghèo nàn!

Chụm gài cửa làm củi than,

Quên ta sao nỡ, giàu sang ngày nầy?

[1250] Nguyên bản chép sai ra 陛枑.

[1251]Bác vật chí, tên sách, có tất cả 10 quyển, bản xưa đề là Trương-Hoa đời Tấn soạn. Sự thật thì nguyên bản đã tản mác thất lạc, người đời sau mới nhặt lại thêm thắt vào làm thành sách, lại lấy những thuyết khác thêm vào.

[1252]Danh-viên, khu vườn danh tiếng.

[1253]Diên-hựu, (diên, kéo dài; hựu, phúc) kéo dài phúc lành. Ở đây là tên ngôi chùa.

[1254]Phương-trì, (phương, thơm; trì, ao), ao trồng sen tỏa hương thơm.

[1255]Cám điện, (cám, màu xanh ửng đỏ. Đất nước Phật màu xanh ửng đỏ, cho nên thuộc về Phật thì nói cám), điện Phật.

[1256]Bích-trì, (bích, màu xanh biếc; trì, ao) ao nước xanh biếc.

[1257]Phi kiều, (phi, bay, lơ lửng ở trên không; kiều, cây cầu), cây cầu gác cao trên không.

[1258]Nhĩ-nhã, tên sách, có tất cả 19 thiên. Bài Tiến Quảng nhã biểu của Trương-Ấn nói Chu-công có viết một thiên trong Nhĩ-nhã. Sách Kinh điển thích văn nói những thiên khác hoặc do Trọng-Ni hoặc do Thúc-Tôn-Thông viết. Còn Thiệu-Tấn-Hàm đời Thanh thì nói học-trò Khổng-Tử viết sách Nhĩ-nhã.

[1259]Thuyết văn giải tự, tên sách, có tất cả 30 quyển, do Hứa-Thận đời Hán soạn, lấy chữ tiểu triện làm chủ, có tất cả 9353 chữ, chia ra 540 bộ, suy cứu Lục-thư, là quyển sách nghiên-cứu về sự cấu-tạo của chữ nho mà các tự-điển hay từ-điển về sau đều có dẫn đến.

[1260]Hạ, nhà, nhà to.

[1261]Giá, khoảng rộng hẹp giữa 2 cây cột và 2 cây rường gọi là giá.

[1262], nhà chung-quanh ở dưới chính-đường. Nhà to cũng gọi là vũ.

[1263]Đẩu-củng, khúc gỗ vuông trên cây cột có chạm khắc đẹp-đẽ.

[1264] Nguyên văn là chữ 芚囤 độn, tức là cái đụn chứa thóc.

[1265]Quyền dư, tên thiên thơ thuộc Tần-phong trong kinh Thi, đại ý nói nhà vua lúc đầu thì lấy nhà to rộng để tiếp đãi bậc hiền-năng. Về sau lễ ý dần dần suy kém, việc cung-cấp lần lần khinh bạc, đến nỗi bữa ăn cũng không được còn dư.

[1266]Thế-bổn, tên sách xưa, có 15 thiên. Lưu-Hướng nói: “Sử quan ngày xưa hiểu rõ việc đời xưa mà soạn ra, chép những tên thụy từ Hoàng-đế đến các đế vương chư hầu và quan khanh đại phu trở về sau.

[1267]Thập di ký, tên sách, có tất cả 10 quyển do Vương-Gia soạn, trên chép những sự-tích hoang-đường, trên từ đời Tam-hoàng, dưới đến Thạch-Hổ.

[1268], lụa có vân, Văn ỷ là lụa có vân màu rằn-ri.

[1269]Lăng, một thứ lụa có vân.

[1270]Hoàn, loại lụa quyến thứ mịn.

[1271]Nguyên văn: Hồ sàng, ghế của rợ Hồ.

[1272]Thanh di lục, tên sách, có 2 quyển, do Đào-Cốc đời Tấn soạn, trích những lời hay đời Đường đến đời Ngũ-đại, phân làm 37 môn.

[1273]Sưu thần ký, tên sách, có tất cả 20 quyển, bổn cũ đề là Can-Bảo đời Tấn soạn, sử chép Can-Bảo cảm-xúc việc người nữ-tỳ của cha tái sinh, mới sưu-tập những việc thần-linh biến hóa mà làm thành sách nầy.

[1274]Phong tục thông tức Phong tục thông nghĩa, tên sách, có tất cả 10 quyển, do Ứng-Thiệu đời Đông-Hán soạn. Sách nầy khảo luận điển lễ giống như sách Bạch hổ thông nghĩa, cải-chính phong-tục giống như sách Luận-thành.

[1275]Trình-Đại-Xương, người đất Hưu-ninh đời Tống, tự là Thái-chi, trong niên-hiệu Thiệu-hưng đỗ Tiến-sĩ, trong thời vua Hiếu-tông, làm Lại-bộ Thượng-thư, Long-đồ các học-sĩ, bác-học, khảo-cứu mọi việc cổ-kim, có soạn những sách: Vũ công luận, Thi-luận, Dịch-nguyên, Ung-lục, Dịch Lão thông ngôn, Khảo-cổ thiên, Diễn phiền lộ, Bắc biên bị đối.

[1276]Hồ-Tam-Tỉnh, người ở đất Thiên-thai cuối đời Tống, có bản chép là người ở đất Ninh-hải, tự là Thân-chi, trong niên-hiệu Bảo-hựu đỗ Tiến-sĩ, làm quan đến chức Triều-phụng lang, khi nhà Tống mất, ở ẩn không ra, có viết sách Tư trị thông giám chú.

[1277] Nguyên văn: Bị 蓖 là thứ lược dày dùng để chải gầu trên đầu.

[1278]Đào-Cốc, người ở đất Tân-binh đời Tống, tự là Tú-thực, làm quan cho nhà Tấn nhà Hán, đến nhà Chu làm Hàn-lâm học-sĩ, Binh-bộ Thị-lang, vào nhà Tống làm Thượng-thư bộ Lễ, bộ Hình, bộ Hộ. Ông là người nhớ dai ham học, thông đủ kinh sử, góp nhặt những lời nói hay đời Đường và đời Ngũ-đại làm ra sách Thanh dị lục.

[1279]Hoàng-dương (Buxus microphylla), một loại cây lâu lớn, mỗi năm chỉ cao lên độ một tấc mà thôi.

[1280]Cao Lực-sĩ, hoạn quan đời Đường, người ở đất Cao-châu, dưới triều vua Duệ-tông làm Nội cấp sự, nhờ giết được Tiêu-Sầm có công, được làm Hữu giám môn vệ tướng quân, khi vua Huyền-tông lên ngôi, rất được sủng ái, tấu sớ từ bốn phương đều do ông đọc trước rồi mới dâng lên vua sau, kết nạp với các quyền-thần danh-tướng, uy-quyền nghiêng thiên-hạ, làm đến chức Phiêu-kỵ đại-tướng quân, được phong Tề quốc-công. Khi vua Túc-tông lên ngôi, ông bị Lý-Phụ-Quốc hạch tội và bị đày ra Vu-châu. Trong đầu niên-hiệu Bảo-ứng, ông được tha trở về, khi thấy di-chiếu của hai vua Huyền-tông và Túc-tông, ông hộc máu mà chết, thọ được 79 tuổi.

[1281]Nghĩa kỳ, trượng nghĩa mà dựng cờ dấy binh.

[1282]Dạ-quang châu, ngọc châu quý tỏa ánh sáng trong ban đêm.

[1283]Thùy-cức, đời Xuân-thu vùng đất ở nước Tấn sản-xuất ngọc đẹp.

[1284]Sam, một loại cây to, cao chừng mấy trượng, lá nhỏ như cây kim thường xanh, gỗ dùng để xây cất, lá cành dùng làm củi.

[1285]Động thiên thanh lộc tập, tên sách, có 1 quyển, do Triệu-Hy-Hộc đời Tống soạn, có một tên nữa là Động thiên thanh lục, luận về việc xem xét phân biệt đồ xưa và thư họa, chia ra 10 loại, phân tích tinh-thâm, khảo-chứng xác-đáng.

[1286]Bút-sàng, đồ đựng bút.

[1287]Khổng-Dĩnh-Đạt, người ở đất Hành-thủy đời Đường, tự là Trọng-Đạt, lúc bé thông-minh, cuối đời Tùy đỗ khoa Minh-kinh, vào nhà Đường làm Quốc-cử ty nghiệp, thăng chức Tế-tửu, nhận lịnh của vua Thái-tông soạn sách Ngũ kinh chính nghĩa.

[1288]Thiên tự văn, tên sách, do Chu-Hưng-Tự đời Lương soạn. Vua Vũ-đế nhà Lương trong niên-hiệu Đại-đồng hạ sắc cho Chu-Hưng-Tự soạn sách Thiên tự văn.

[1289]Loại-tụ, sách Nghệ-văn loại-tụ của Âu-dương-Tuân có 100 quyển. Lại có sách Sự-văn loại-tụ do Chúc-Mục đời Tống soạn.

[1290]Thái-Luân, người ở Quế-dương đời Đông-Hán tự là Kính-trọng, là hoạn quan, có tài học, trong thời vua Hòa-đế, làm Trung thường thị, được khen là người đôn-hậu cẩn-thận, gia chức Thượng phương lịnh, đầu niên-hiệu Nguyên-sơ, được phong Long-đình hầu bắt đầu sáng-chế phép làm giấy, thiên-hạ dùng rất thuận-tiện, gọi giấy ấy là Thái hầu chỉ. Về sau ông bị nhục, uống thuốc độc mà chết.

[1291]Cốc-chỉ, Đời xưa cây chử 楮 và cây cốc 榖 giống nhau, người ta lấy vỏ hai thứ cây nầy chế-tạo giấy, cho nên thứ giấy nầy gọi là cốc chỉ.

[1292]Tiền-Hán, tức Tây-Hán trước thời Hậu-Hán.

[1293]Hích-đề, thứ giấy mỏng.

[1294]Thục chỉ, thứ giấy đã nấu đã cán và tha sáp.

[1295]Tô-hợp hương, một thứ cây mọc thành bụi, người ta lấy vỏ cây ép lấy dầu. Dầu nầy có tính sát trùng và trị bịnh lác.

[1296]Họa-sử, tên sách, có 1 quyển, do Mễ-Phị đời Tống soạn, nêu lên những danh họa phẩm đề chân ngụy đã thấy đã nghe, kể việc trang-trí thu cất để dành.

[1297]Cốt-pháp, thuật-ngữ của nhà thư họa, chỉ bút lực và bút khí của tác-phẩm.

[1298]Truyền-nhiễm, nét bút siêu phàm được truyền-tụng mà được mọi người nhiễm theo.

[1299]Chiếu đại, một loại túi vuông có nắp, nhân-sĩ đời Ngũ-đại thường dùng.

[1300]Nho cân, khăn của nho-sinh đội.

[1301]Lan sam, áo bằng vải trắng mịn, cổ tròn ống tay to, các tiến-sĩ, quốc-tử-sinh và châu-huyện-sinh thường mặc.

[1302]Chiếp phiến, cây quạt xếp.

[1303]Vi bình phong, bình phong vây tròn.

[1304]Lãnh tửu bàn, cái mâm lãnh rượu.

[1305]Tứ phương đầu cân, khăn bốn góc vuông để đội đầu.

[1306]Võng cân, loại khăn, lấy tơ đan thành lưới để bọc tóc.

[1307]Ban tiếp-dư, cung nhân của vua Hán Thành-đế, có tài-năng, giỏi biện-luận, giỏi thi ca, làm chức tiếp-dư. Về sau Triệu-Phi-Yến được vua sủng-ái, Ban tiếp-dư bị bỏ rơi, lui về hầu-hạ Thái-hậu ở Trường-tín cung, làm những bài phú rất thương tâm.

[1308]Tề hoàn, thứ lụa mịn trắng sản-xuất ở đất Tề.

[1309]Hợp hoan phiến, (hợp hoan, hòa hợp vui chơi; phiến, cái quạt), cái quạt tròn bọc lụa có hai mặt giáp nhau.

[1310]Biển đậu, loại đậu có trái cong như lưỡi liềm, người ta gọi là đậu trắng.

[1311]Quách-Phác, người ở đất Văn-hỉ đời Tấn, tự là Cảnh-thuần, học rộng tài cao, thích cổ văn kỳ tự, về từ phú thì đứng đầu ở Đông-Tấn, tinh nhất về âm dương lịch toán ngũ hành bốc phệ, bói thì có chứng-nghiệm, lại giỏi trừ tai chuyển họa. Trong thời vua Nguyên-đế, ông làm bài Giang-phúNam-giao phú lời văn rất hùng vĩ, vua đọc đến thì khen ngay, liền vời ông vào làm chức Trứ-tác tả lang. Khi vua mất, ông lấy cớ tang mẹ xin từ-chức. Trong thời vua Minh-đế, Vương-Đôn khởi loạn, nhờ ông bói cho. Ông bói ra Đại-hung (rất xấu). Vương-Đôn nổi giận chém ông chết.

Ông có soạn những sách: Động-lâm, Tân-lâm, Bốc-vận, Nhĩ-nhã chú, Sơn hải kinh chú, Mục thiên-tử truyện chú, Sở từ chú, Tử hư thượng lâm phú chú.

[1312]Thuyết-linh, tên sách, có 2 thứ: 1) Do Ngô-Chấn-Phương đời Thanh soạn, chép những tiểu-thuyết bút ký đầu đời Thanh, có 47 loại phân làm 2 tập. 2) Do Uông-Uyển đời Thanh soạn, có 1 quyển, chép những dật sự của danh-nhân đương thời.

[1313]Bão-Phác-Tử, Cát-Hồng đời Tấn tự hiệu là Bão-Phác-Tử, người ở đất Câu-dung, tự là Trĩ-xuyên, người đời gọi là Tiểu Cát-tiên ông, lúc trẻ ham học, lại thích phép đạo dưỡng của thần tiên, học-thuật luyện đơn của Trịnh-Ẩn, đệ-tử của Huyền, nghe đất Giao-chỉ sản-xuất đơn sa, bèn dắt con cháu đến núi La-phù luyện đơn. Đơn luyện thành, ông bỏ xác thành tiên.

[1314]Độc, cái bàn để mâm cỗ. Độc thực là dọn nguyên bàn mâm cỗ mà ăn. Vua Chân-tông một hôm hỏi: “Độc thực được bày ra vào đời nào? ” - Đỗ-Đích tâu: “Vua Hán Văn-đế rất thương mến con là Thái-tử Khải (Hán Cảnh-đế), mỗi bữa ăn, sai Thái-giám khiêng một bàn mâm cỗ cho Thái-tử dùng” .

[1315]Kinh Sở tuế thời ký, tên sách, có 1 quyển, do Tông-Lẫm đời Lương soạn. Tông-Lẫm là người nước Sở, cho nên sách nầy chép phong-tục nước Sở gồm có 36 việc.

[1316]Kê lặc biên, tên sách, do Trang-Quý-Dụ đời Tống soạn thường chép những việc tản-mác đã nghe được. Tên sách là Kê lặc (xương sườn gà), có nghĩ là vô vị như miếng xương sườn gà, ăn thì không có mùi vị gì ngon mà bỏ thì tiếc.

[1317]Thoái-Chi tức Hàn Thoái-Chi là Hàn-Dũ, người đời Đường, tự là Thoái-Chi, người đời gọi là Hàn-Cương-lê, lúc bé mồ-côi, khắc-khổ học nho, đến trưởng-thành thì hạnh-tháo vững-vàng đoan-chính, trong thời vua Đức-tông, đỗ Tiến-sĩ, trải những chức Tứ-môn bác-sĩ, chuyển làm Giám-sát Ngự-sử, dâng sớ can gián những mối tệ ở chợ-búa trong cung, bị biếm ra làm Dương-sơn lịnh, trong thời vua Hiến-tông được triệu vào làm Quốc-tử bác-sĩ, cải sang làm Sử-quán tu-soạn, chuyển sang chức Khảo công lang trung, được trao chức Trung-thư xá-nhân, mắc tội bị đổi làm Thái-tử Hữu thứ-tử, vì việc can ngăn rước tượng Phật bị biếm làm Thứ-sử Triều-châu, đổi làm Thứ-sử Viên-châu, đi đến đâu ông đều thi-hành chính-trị tốt đẹp, rồi được triệu về làm Quốc-tử Tế-tửu, rồi thăng Lại bộ Thị-lang.

Hàn-Dũ bác thông kinh sử, hiểu rõ Bách-gia, sinh bình bài xích dị-đoan và đạo Phật đạo Lão.

Văn-chương của ông siêu-việt tự thành một phái, được người đời gọi là Hàn-văn. Ông có soạn sách Hàn Xương-lê toàn tập.

[1318]Y hãng, cái giá phơi áo.

[1319]Lý-Gia-Hựu, người đất Triệu-châu đời Đường, tự là Tùng-nhất, trong niên-hiệu Thiên-bảo làm Bí-thư Chính-tự, mắc tội, bị biếm làm Bà-giang lịnh, đổi sang Giang-âm, về sau làm Trung-đài lịnh, giao du thân mật với Nghiêm-Duy, Lưu-Trường-Khanh, Lãnh-Triêu-Dương. Thơ của ông có phong cách nước Tề nước Lương.

[1320]Hàn-Tín, người ở đất Hoài-âm đời Hán, lúc đầu rất nghèo, thường câu ở dưới thành, ăn nhờ ở bà giặt áo, lại mang cái nhục lòn trôn gã thiếu-nhi ở Hoài-âm, rồi theo Hạng-Lương khởi binh, sau lại theo nhà Hán được trao chức Đại-tướng quân, cầm binh dẹp yên thiên-hạ, được phong Tề-vương, lại đem binh hội ở Cai-hạ, diệt Hạng-Vũ, được làm Sở-vương, cùng với Trương-Lương, Tiêu-Hà gọi là Hán hưng tam kiệt (ba vị hùng kiệt đã hưng thịnh nhà Hán). Về sau bị cáo mưu phản, Hán Cao-tổ giả đi chơi ở Vân-mộng, bắt ông đến Lạc-dương, tha cho làm Hoài-âm hầu. Khi Trần-Hỷ làm phản, Hán Cao-tổ thân chinh đi đánh, Hàn-Tín thác bịnh không đi theo. Lữ-hậu dùng mưu của Tiêu-Hà, bắt Hàn-Tín đến Trường-lạc cung mà chém, tru di cả ba họ.

[1321]Quảng-đông tân ngữ, tên sách, có 28 quyển, do Khuất-Đại-Quân đời Thanh soạn, lấy sách Quảng-đông thông chí lược bớt cái cũ, giảng rõ cái mới, chép các sự vật theo từng loại, có phụ thêm phần khảo-chứng.

[1322]Ky, vật bằng tre, dùng để xúc rác đem đổ.

[1323]Lữ-lãm, tên sách, tức Lữ-thị Xuân-thu, có tất cả 26 quyển, xưa đề là Tần Lữ-Bất-Vi soạn, sự thật là Lữ-Bất-Vi khiến các tân khách trong nhà soạn ra. Sách chia ra làm Bát-lãm, Lục-luận, Thập-nhị kỷ, đại để lấy nho làm chủ, có tham chước Đạo-gia, Mặc-gia.

[1324]Hồ-Tào, người đời Thượng-cổ, bề tôi của vua Hoàng-đế, đã sáng-chế ra áo.

[1325]Hậu-Nghệ, vua của Hạ-Hữu-cùng quốc, cũng gọi là Hậu-Di, cậy mình bắn giỏi, không lo việc của dân, bỏ hiền-thần, dùng kẻ sàm nịnh là Hàn-Trạc làm tướng. Hàn-Trạc ở trong thì siễm mỵ, ở ngoài thì ăn hối-lộ, làm mọi điều gian trá tàn ác để giựt nước. Hậu-Nghệ đi săn sắp về thì bị Hàn-Trạc giết.

[1326]Chúc Dung, thần lửa, chức hỏa quan đời Thượng-cổ- Tên một ông vua đời Thượng-cổ.

[1327]Nghi-Địch, người chế ra rượu trong thời vua Vũ nhà Hạ. Ngày xưa con gái của vua sai Nghi-Địch làm rượu, khen rượu ấy ngon bèn dâng lên vua Vũ. Vua Vũ uống rượu ấy thấy ngon bèn xa lần Nghi-Địch và không uống rượu nữa, bảo rằng: “Đời sau ắt có kẻ vì uống rượu mà mất nước” .

[1328]Cao-Nguyên, người đời Hạ, đầu tiên làm ra nhà cửa.

[1329]Ngu-Hú, người đời Thượng-cổ, bắt đầu chế ra thuyền.

[1330]Bá-Ích, bề tôi của vua Thuấn, đã giúp vua Thuấn điều thuần chim thú, được ban họ là Doanh, có công giúp vua Vũ trị nạn lụt. Vua Vũ đem thiên hạ trao cho Bá-Ích. Bá-Ích không nhận đi ẩn ở phía nam núi Ky-sơn.

[1331]Xích-Ký, bề tôi của vua Thần-Nông đã chế ra cái cối.

[1332]Hàn-Ai, người đánh xe ngựa rất giỏi đời xưa.

[1333]Vương-Băng, tên một ông vua đời Ân đã chế ra cách thắng xe bò.

[1334]Sử-Hoàng, bề tôi của vua Hoàng-đế, bắt đầu chế ra chữ và đồ họa.

[1335]Vu Bành, người chế ra phép trị bịnh, làm thầy thuốc.

[1336]Vu-Hàm, người đời Hoàng-đế chế ra phép xem bói, làm thầy bói.

[1337]Giáp, áo bằng da để đánh giặc.

[1338]Xi-Vưu, người đời Thượng-cổ. Xi-Vưu làm loạn, Hoàng đế lấy binh ở chư-hầu đánh với Xi-Vưu ở cánh đồng Trác-lộc, bắt giết được Xi-Vưu.

[1339]Khải, áo giáp bằng sắt để đánh giặc.

[1340]Hạt, một loài chim giống như chim trĩ mà to hơn, sắc lông đỏ, đầu có lông mào, tính hung tợn, hay đá nhau đến chết mới thôi. Vì thế mũ của quan võ đời xưa có cắm lông chim hạt, ngụ ý có chí chiến-đấu đến chết mới thôi.

[1341]Động-minh ký, tức sách Hán Vũ động minh ký, tên sách, xưa đề là Quách-Hiến đời Hán soạn, chép toàn những lời hoang đãng không thể kê cứu, có tất cả 4 quyển.

[1342]Di-Mâu, người thời Hoàng-đế bắt đầu chế ra tên, có người nói tức là ông Phù-Du.

[1343]Đồng cung, cung sơn của thiên-tử ban cho chư-hầu có công to.

[1344]Hoàng-đế, hiệu vua đời Thượng-cổ, con của Thiếu Điển thị, họ Công tôn, lớn lên ở Cơ-thủy, lại lấy họ Cơ, sinh ra ở gò Hiên-viên, cho nên gọi là Hiên-viên thị, nước ở Hữu-hùng, cho nên gọi là Hữu-hùng thị, lấy thổ đức làm vua, vì đất màu vàng (hoàng) cho nên gọi là Hoàng-đế. Đầu tiên họ Thần-Nông làm vua truyền đến đời thứ 8 là Du-võng bạo ngược vô đạo bị vua Hoàng-đế đánh bại ở Bản-quyền. Xi-Vưu làm loạn bị vua Hoàng-đế giết ở Trác-lộc. Được chư-hầu tôn lên làm vua, Hoàng-đế lên ngôi, sai Ông Đại-Náo làm Giáp-Tý, sai ông Thương-Hiệt làm Lục-thư, sai ông Linh-Luân định luật-lữ (về âm-thinh), sai ông Lệ-Thủ định toán số, sai ông Kỳ-Bá làm Nội-kinh, sáng-chế phương-thuật y-dược. Người phi của vua Hoàng-đế là Luy-tổ nuôi tằm kéo tơ, may quần áo, dựng cung thất, sáng-chế các thứ đồ dùng đều đầy-đủ vào thời ấy. Hoàng-đế ở ngôi được 100 năm.

[1345]Đại-triện, lỗi chữ đời nhà Chu. Chu Tuyên-vương sai Thái-sử Trựu định ra loại chữ đại-triện, cho nên loại chữ nầy cũng được gọi là Trựu-văn.

[1346]Tiểu-triện, là lối chữ đời nhà Tần. Sau khi gồm thâu sáu nước thống-nhất thiên-hạ, Tần Thủy-hoàng sai Lý-Tư sửa đổi chữ đại-triện của nhà Chu thành loại chữ tiểu-triện với những nét đơn-giản hơn.

[1347]Chữ-lệ, là loại chữ đời Tần, tuy tương truyền do Trình-Mạc định ra, nhưng có lẽ chữ lệ đã có từ trước đời Tần và được nhà Tần thông-dụng trong các quan nha, vì lẽ chữ lệ rõ-ràng dễ viết như chữ triện.

[1348]Chữ khải (khải là pháp thức khuôn mẫu) tức chữ chân thư, loại chữ viết rõ-ràng chân-chính đang thông-dụng hiện tại. Theo nhiều người bảo, Vương-Thứ-Trọng căn-cứ vào chữ lệ định ra chữ khải trong niên-hiệu Kiến-sơ nhà Hán.

[1349]Tiêu cũng là một thứ cây ngải thơm.

[1350]Đậu, một loại dĩa có nắp và có chân cao.

[1351], chén uống rượu và có góc cạnh.

[1352]Giác, cái cóc để uổng rượu đựng bốn thăng.

[1353]Di, cái chén đựng rượu.

[1354]Anh, cái hũ cái vò, bụng to miệng nhỏ.

[1355]Kiên (húy tên Tôn-Kiên, các nhà nho ở Giang-tả đọc ra chân), một loại vò hũ.

[1356]Lôi, cái vò đựng rượu có vẽ hình mây và sấm.

[1357]Hồ, đồ đựng rượu, đựng nước.

[1358]Kim-lôi, cái vò đựng rượu có vẽ hình mây và sấm và có trang-sức bằng vàng.

[1359]Phủ, cái hũ bằng đất hầm để đựng rượu và nước.

[1360]Chung, đồ đựng rượu.

[1361]Bình, đồ để đựng, miệng nhỏ, cổ dài, bụng to.

[1362]Thược, cái muỗng, cái gáo để múc rượu.

[1363]Linh, cái lồng. Sao, cái rổ.

[1364]Ngũ tạp trở, tên sách, do Tạ-Tại-Hàng đời Minh soạn, chia ra năm bộ: Thiên, địa, nhân, vật và sự.

[1365]Thối là trui, đốt đỏ lưỡi sắt rồi nhúng gấp vào trong nước cho sắt thêm cứng.

[1366]Bác vật chí, tên sách, có 10 quyển, bổn cũ đề là Trương-Hoa đời Tấn soạn. Sự thật thì nguyên bổn đã tản mác, người đời sau gom góp lại mà thành, lại có phụ thêm những thuyết khác.

[1367]Thất bảo, theo Pháp hoa kinh là: Kim, ngân, lưu-ly, xà-cừ, mã-não, trân-châu, mai-khôi, theo Vô lượng thọ kinh là: kim, ngân, lưu-ly, pha-lê, san-hô, mã-não, xà-cừ, theo Đại trí độ luận trong A-di đà phật kinh là: kim, ngân, lưu-ly, pha-lê, xà-cừ, xích-châu, mã-não, theo Bát nhã kinh là: kim, ngân, lưu-ly, xà-cừ, mã-não, hổ-phách, san-hô.

[1368]Tống hội yếu, tên sách, do Tử-Tùng đời Thanh sưu-tập. Nhà Tống làm Bổn triều hội yếu bắt đầu từ đời vua Nhân-tông do Chương-Đắc-Tượng tâu dâng lên sách Khánh lịch quốc triều hội yếu, rồi từ vua Thần-tông trở về sau đều có liên tiếp nhưng đều bị tản mác cả. Từ-Tùng trong niên-hiệu Gia-khánh gom các thứ hội-yếu của đời Tống làm thành sách Tống hội yếu, nhưng chưa kịp chỉnh-lý thì mất. Trong thời Quang-tự nhà Thanh, Trương-Chi-Đồng được bản cảo và có nhiều người hiệu-đính, năm Dân-quốc thứ 24, sách nầy mới được ấn-hành.

[1369]Mạch, số tiền. Đời Ngũ-đại, 80 đồng là một mạch, tức một tiền.

[1370]Cao-Sĩ-Kỳ, người ở đất Tiền-đường đời Thanh, hiệu là Giang-thôn, trong thời vua Thánh-Tổ, cung phụng ở nội đình, làm quan đến chức Lễ bộ Thị-lang, có viết những sách: Thanh ngâm đường toàn tập, Thiên lộc chí dư, Hộ tùng nhật lục.

[1371]Kiên hồ tập (nguyên bổn chép sai ra Kiên biều tập), tên sách, có tất cả 66 quyển do Chử-Giá-Hiên đời Thanh soạn, chép tông tích của nhân-vật cổ kim, lời khôi-hài trong xóm làng, không có những thuyết quái đảng, lời văn cũng thanh nhã.

[1372]Thanh-việt, tiếng trong-trẻo nghe ra xa.

[1373]Xuất trần, thoát ra cõi trần tục.

[1374]Lĩnh biểu lục dị, tên sách, có 3 quyển, do Lưu-Tuân đời Đường soạn, chép sản-vật và phong-thổ ở Việt-đông.

[1375]Bi là bia đá vuông, kệ là bia đá tròn.

[1376]Kim thạch, kim là loài kim, chuông vạc bằng đồng, thạch là đá bia kệ bằng đá, đều là những vật người ta dùng để ghi khắc tên họ công lao.

[1377]Ích, một loài chim nước không sợ sóng gió, cho nên người ta vẽ hình con chim ích ở mũi thuyền.

[1378]Gia-cát-Khác, người nước Ngô đời Tam-quốc, con của Gia-Cát-Cẩn, tự là Nguyên-tốn, đầu niên-hiệu Kiến-hưng được phong Dương-độ hầu, thăng chức Kinh-châu mục, coi việc quân trong ngoài, bị Tôn-Tuấn giết.

[1379]Chu-Xán, người ở đất Lâm-đồng đời Thanh, tự là Tinh-công, trong niên-hiệu Thuận-trị đỗ Tiến-sĩ, làm quan chức Nam-khang Tri phủ, thường đi sứ sang nước An-nam. Nước An-nam xưa có cửa ải Quỷ-môn-quan (cửa ma quỷ), Chu-Xán đổi gọi là Úy-thiên quan (cửa sợ trời). Nhà sách của ông, ông gọi là Nguyện học đường. Ông có viết sách Nguyện học đường tập.

[1380]Đồng-long, trời gần sáng.

[1381]Sang, chiếc thuyền.

[1382]Lãm, dây kéo thuyền.

[1383]Giang, cầu đá.

[1384] Hàn-Tín làm Tả Thừa-tướng đánh nước Ngụy. Ngụy-vương đóng quân ở Đồ-bản, lấp ngã Lâm-tấn. Hàn-Tín làm nghi binh như muốn đem quân qua Lâm-tấn, đem phục binh từ Hạ-dương dùng hũ gỗ sang sông đánh úp An-ấp.

[1385] Sách Vũ bị chi chép: 2 thạch.

[1386]Sảo, 稍, lương thực.

[1387]Thương quân thư, cũng gọi là Thương tử, có tất cả 5 quyển, do Thương-Ưởng đời Tần soạn. Hán-chí nói sách Thương quân có 29 thiên, nay còn 26 thiên. Trong sách có phụ thêm những việc sau đời Thương-Ưởng.

[1388]Lý-Bạch, người đời Đường, ở làng Thanh-liên, huyện Xương-minh đất Thục, tự là Thái-bạch, hiệu là Thanh-liên cư-sĩ, có thiên tài về thơ, được người đời gọi là Trích tiên (thần tiên bị đày xuống cõi trần). Một hôm hầu yến, say rượu, bảo Hoạn quan Cao-Lực-Sĩ cởi giày của mình ra. Cao-Lực-Sĩ hổ thẹn mới trích những câu trong bài Thanh-bình điệu nói khích Dương Quí-phi. Vì thế mà vua Đường Huyền-tông lắm lần muốn trao chức quan cho Lý-Bạch đều bị Quý-phi ngăn trở. Về sau mắc tội, Lý-Bạch bị đày dài hạn ở Dạ-lang, rồi được ân xá trở về. Vua Đại-tông lên ngôi có triệu ông, nhưng ông đã mất.

[1389]Mã-Long, người ở đất Bình-lục đời Tấn, tự là Hiếu-hưng, trẻ tuổi mà trí dũng. Rợ Khương-nhung ở Lương-châu làm phản, Mã-Long tự xin mộ ba ngàn dũng-sĩ, dùng kỳ mưu phá được, lại phá được giặc Nam-lỗ, được phong Cao huyện hầu, được trao chức Hộ-Khương hiệu-úy, hơn 10 năm uy-tín chấn động Lũng-hữu, và mất lúc tại chức.

[1390]Bạch, thứ lụa dày.

[1391]Lăng, thứ lụa có vân.

[1392]Tăng, tên thông-dụng gọi các thứ lụa.

[1393]Quyến, thứ lụa sống.

[1394]Thi, thứ lụa thô giống như vải.

[1395] Người xưa đội mão mà không có khăn bọc tóc, đến đời Tần, đội mão được thêm cái giáng phạ, rồi lần lần trở thành cái nhan-đề (khăn hộ trán).

[1396]Hoàng kim đương ( đương, đồ trang-sức trên mão), đồ trang-sức bằng vàng trên mão.

[1397]Điêu, một loài thú giống như con chồn, loài ăn thịt, lông vàng đen lộn tía, mỏ nhọn, râu đen, vành tai ngắn và tròn, hai chân trước ngắn hai chân sau dài, đuôi dài có nhiều lông, sinh-sản ở Liêu-đông và Cao-ly, ở trong rừng rậm, ngày ẩn, đêm ra, bắt chuột bắt chim mà ăn, da lông rất quý. Người xưa hay lấy đuôi con điêu giắt lên mão.

[1398]Thiền, con ve. Người xưa làm con ve gắn trên mão, lấy ý con ve thanh cao uống sương lộ mà sống chớ không ăn.

[1399]Nguyên văn: Phúc 幅 là tấm vải tấm lụa rộng.

[1400]Chu Văn-công, Chu-Hy.

[1401]Bùi Tấn-công, Bùi-Độ.

[1402]Vương-Biện, người đời Tống, mới đầu làm viên tiểu lại ở Quốc-tín sở, trong niên-hiệu Càn-đạo làm quan đến chức Tri-cáp môn-sự, được vua thân-cận tín-nhiệm, cậy ơn vua mà phóng tứ, ra làm Quan-sát sứ ở Phúc-châu.

[1403]Họa-sử, tên sách, có một quyển, do Mễ-Phất đời Tống soạn, kể những điều nghe thấy về những danh họa, nói đến việc trang-trí và thu cất, có khảo-đính những lời sai lầm.

[1404]Vũ dư lương, 1) Tên một thứ thuốc thuộc loài đá. Đó là một thứ phấn mịn như bột mì trong đá. 2) Tên một loại cây dùng làm thuốc, cũng gọi là Mạch môn đông. 3) Tên một loài cỏ có hột như gạo, ăn được, cũng gọi tự nhiên cốc (lúa tự nhiên). Vũ dư lương ở đây là củ nâu.

[1405]Hoa-dương quốc chí, tên sách có tất cả 12 quyển, có 1 quyển phụ-lục, do Thường-Cứ đời Tấn soạn, chép việc ở Ba-Thục, phân làm 13 chí.

[1406]Quế hải ngu hành chí, tên sách, có 1 quyển, do Phạm-Thành-Đại đời Tống soạn, trên đường từ Quảng-hữu vào đất Thục, tác-giả nhớ nghĩ việc đã qua mà viết chép những núi sông phong vật vùng Lĩnh-nam, cộng được 13 thiên.

[1407]Thái, một thứ lụa.

[1408]Nhạc dương phong thổ ký, tên sách, có 1 quyển, do Phạm-Trí-Minh đời Tống soạn, không phân môn loại, tùy sự mà chép, khảo-chứng rất rõ-ràng về sự đổi thay của quận huyện của núi sông và cổ-tích.

[1409]Mã-Viện, người ở đất Mậu-lăng đời Đông-Hán, tự là Văn-uyên, thờ vua Hán Quang-vũ, giúp vua phá Ngôi-Hiêu, nhận mệnh lệnh đi đánh Tiên-linh khương, dẹp yên vùng Lũng-hữu, binh-định nước Giao-chỉ, dựng cột đồng phô trương công lao mà trở về, được phong Phục ba tướng quân, Tân tức hầu. Ông thường nói: “Bậc đại trượng phu lập chí, cùng quẫn phải càng bền vững, già cả càng phải tráng-kiện” . Ông lại nói: “Làm trai phải chết ở đồng nội biên-cương, lấy da ngựa bọc thây đem về mai táng, sao lại có thể nằm trên giường trong tay đàn bà trẻ con được? ” . Về sau người Man ở Ngũ-khê làm phản, ông tuổi đã 62 tự xin đem binh đi đánh dẹp. Vua thương ông già yếu, chưa cho. Ông liền mặc giáp lên ngựa, nắm yên ngoảnh trông lại ra dáng còn dùng được. Vua bảo: “Quắc thước thay là ông đấy!” . Vua cho ông cầm binh đi đánh. Ông bị nhiễm bịnh dịch mà chết trong quân.

[1410]Nhan-Sư-Cổ, người ở đất Vạn-niên đời Đường, tự là Trựu, đọc nhiều viết hay, tinh về huấn cổ học, trong thời vua Cao-tổ làm chức Triều-tán đại-phu, thăng Trung-thư xá-nhân, chuyên giữ Cơ-mật. Vua Thái-tông lên ngôi, ông làm chức Trung-thư Thị-lang, được phong Lang-nha huyện nam tước, nhận chiếu khảo định Ngũ-kinh văn-tự, chú sách Hán-thư của Ban-Cố.

[1411]Lục yếm, một loại cờ có hai người đánh, bên nầy có 6 con trắng, bên kia có 6 con đen.

[1412]Ý tiền, quỹ ức, xạ ý, xạ số, than tiền (đúng là than tiền 攤錢, nguyên văn chép sai ra ủng tiền thì không nghĩa), một cách đánh bạc, người làm cái hốt một số tiền không biết là bao nhiêu giấu vào trong hộp, lúc mở ra xem kết-quả định ăn thua, người ta cứ đùa bỏ ra mỗi lần 4 đồng dần dần đến hết, số còn lại có thể là 1 đồng, 2 đồng, 3 đồng, 4 đồng. Ai đánh trúng thì ăn gấp đôi gấp ba. Cách đánh bạc nầy ở miền Nam nước Việt ta gọi là chơi đánh me.

[1413]Tân thoái lục, tên sách, 1) Có 10 quyển, do Triệu-Dữ-Thi đời Tống soạn. Triệu-Dữ-Thi học với Dương-Giản không giỏi về văn-nghệ, cho nên trong sách nầy, phần luận thơ có nhiều sai lầm, nhưng phần khảo đính kinh sử, biện phân điển cố có nhiều chính-xác. 2) Có 4 quyển, do Triệu-Thiện-Chính đời Minh soạn, chép những phong-tục trong làng xóm thôn quê, và những việc lạ-lùng từ trước (nghe tân khách kể cho biết, đợi khi tân khách lui về mới chép).

[1414]Lão-Đỗ, tức Đỗ-Phủ, để phân-biệt với Đỗ-Mục, người ta gọi Đỗ-Phủ là Lão-Đỗ, người ở đất Tương-dương đời Đường, tự là Tử-mỹ, trú ở Đỗ-lăng, tự xưng là Đỗ lăng bố y (người áo vải ở Đỗ-lăng), lại tự xưng là Thiếu-lăng dã lão (ông già nơi thôn dã ở Thiếu-lăng) lúc trẻ nhà nghèo, thi Tiến-sĩ không đỗ, khi vua Túc-tông lên ngôi, làm chức Hữu thập-di, ra làm Hoa-châu tư công tham-quân, rồi bỏ chức quan đi theo Nghiêm-Vũ. Nghiêm-Vũ dâng biểu xin cho ông làm Kiểm-hiệu Công bộ viên ngoại lang.

Trong niên-hiệu Đại-lịch đi chơi ở Lôi-dương, uống rượu quá say mà chết.

Đỗ-Phủ làm thi ca rất tài, hùng-hồn phóng dật, nổi danh ngang hàng với Lý-Bạch, ông thường tức sự ưu thời mà làm thơ, người đời gọi là thi sử. Sách Đỗ công bộ tập là tập thơ của ông.

[1415]Trưởng niên, người cầm lái thuyền.

[1416]Thấy trong bài Nhập Thục ký của Đỗ-Mục đúng là câu thơ trên, nhưng nguyên văn trong sách Vân Đài loại ngữ đã chép sai ra:

長年三老長歌裡

Trưởng niên tam lão trường ca lý

[1417]Thuyết linh, tên sách, 1) do Ngô Chấn Phương đời Thanh biên soạn, chép những tiểu-thuyết bút-ký đầu đời Thanh, có 47 loại, phân làm 2 tập. 2) do Uông Uyển đời Thanh soạn, chép những dật sự của danh-nhân đời Đường.

[1418]Lục xích biên kim 六赤編金 (nguyên văn chép sai ra 六尺編金 con lúc lắc bằng xương có 6 mặt sơn đỏ kẻ chữ vàng dùng để đánh bạc. Tay cái bỏ con lúc-lắc vào trong hộp, lúc lắc xong rồi để yên, cho các tay con đặt tiền. Khi mở ra, người nào đặt tiền đúng mặt trên của con lúc-lắc thì trúng.

[1419]Tuy khấu-ký lược, tên sách, có 12 quyển, do Ngô-Vĩ-Nghiệp đời Thanh soạn, ghi chép những giặc cướp cuối đời Minh, phân ra 12 thiên, sau mỗi thiên có thêm phần bình-luận quyết-đoán, ghi chép rất gần đúng với sự thật. Thiên chót là Ngu-Uyên-Trầm, chia làm Thượng, Trung, Hạ, đều chép những việc tai-biến cuối đời Minh.

[1420] Phải là niên hiệu Thuận-trị thứ 17 mới đúng.

[1421]Về việc này có câu ca-dao còn lưu-truyền nhắc nhở:

Nhớ ai như nhớ thuốc lào

Đã chôn điếu xuống còn đào điếu lên

[1422]Trầm-hương (aquilaria agallocha), một loại cây sản xuất ở các nước Hải-Nam, Giao-châu, Quảng-châu, Nhai-châu, gỗ chắc màu đen, bỏ vào nước thì chìm, cũng gọi là trầm thủy hương, mật hương, thân cây là sạn hương, rễ cây là hoàng thục hương.

[1423]Tốc-hương, cây trầm hương, phần nào chìm xuống nước gọi là trầm hương, phần nào nổi lên mặt nước gọi là tốc hương.

[1424]Đàn hương (santalum album), một loài cây mà gỗ có mùi thơm nhẹ, dùng làm hương-liệu, hay làm đồ khí-dụng, và làm thuốc. Cây đàn-hương, thứ vỏ chắc màu vàng gọi là hoàng (huỳnh) đàn, thứ vỏ sạch màu trắng gọi là bạch-đàn, thứ vỏ bở mầu tía gọi là tử-đàn.

[1425]Long-não (camphor), chất hóa-học lấy ở cây long-não.

[1426]Giáng-chân-hương, gọi tắt là giáng chân, nói đốt thứ hương nầy thì có thể làm cho thần tiên giáng xuống, cũng gọi là kê-cốt-hương, tử-đằng-hương.

[1427]Kỳ-nam-hương, cây dung 榕 lâu năm thành cây kỳ-nam-hương.

[1428]Uất-kim (tulipa gesneriana), một loài cỏ, sản-xuất ở Đại Tần-quốc.

[1429]Phạm-Thành-Đại, người đất Ngô-huyện đời Tống, tự là Tri-năng, hiệu là Thạch-hồ cư-sĩ, giỏi về thi-văn, cùng nổi danh với Lục-Du, Dương-Vạn-Lý, trong niên hiệu Thiệu-Hưng đỗ tiến-sĩ, làm quan đến chức Lại-bộ-lang, trong niên hiệu Long-hưng đi sứ sang nước Kim, thăng chức Tham-tri chính-sự, có viết những sách Thạch-hồ-tập, Lãm bí lục, Quế hải ngu hành chí, Ngô quận chí, Ngô thuyền lục.

[1430]Thẩm-Tác-Triết, người ở Hồ-châu đời Tống, tự là Minh-viễn, hiệu là Ngu-sơn, trong niên-hiệu Thiệu-hưng đỗ tiến-sĩ, trong niên-hiệu Thuần-Hy làm chức Giang-tây tào ty cán quan. Sách của ông viết có Ngụ lâm tập.

[1431]Quế hải ngu hành chí, tên sách, có 1 quyển, do Phạm-Thành-Đại đời Tống soạn. Phạm-Thành-Đại đi dọc đường từ Quảng-hữu vào đất Thục truy ức những việc đã qua mà viết lại, phàm những núi sông phong vật vùng Lĩnh-nam mà các sách địa-dư chưa chép đều gom lại thành một quyển, cộng được 13 thiên. Những điều ghi chép về kim thạch thảo mộc có thể đính-chính những sai lầm trong sách Bổn-thảo.

[1432]Xạ-hương, con xạ, một loài nai, dưới bụng có hương tuyến, xông ra một mùi hương nồng.

[1433] Nguyên văn: Hương phương, trong các sách từ-điển và tự-điển đều không có danh từ Hương phương này. Nhưng nghiệm xét câu chuyện ở đoạn này, chúng tôi tạm dịch chữ hương phương là cây nhang, có lẽ cũng không sai.

[1434]Hoàng-liên (coptis japonica), một loài cỏ, rễ dùng làm thuốc.

[1435]Tô-hợp hương (liquidambar orientalis), một thứ cây, người ta lột vỏ ép dầu, gọi là dầu tô-hợp dùng đề trị bịnh lác

[1436] Nguyên văn: Thất tiếu, là bật cười mà không thể nín được.

[1437]Trà-kinh, tên sách, có 3 quyển, do Lục-Vũ đời Đường soạn, nói về trà, từ khí-cụ chế trà đến cách nấu trà uống trà.

[1438]Đào-Hoằng-Cảnh, người ở Mạt lăng đời Nam-Bắc triều, tự là Thông-minh, đọc sách hàng vạn quyển, giỏi về loại chữ thảo chữ lệ, đánh đàn đánh cờ rất hay, thích đạo-thuật, biết âm-dương, ngũ-hành, địa-lý, y-dược, trong thời Tề-Cao-đế, làm Tả-đệ điện trung tướng quân, vào nước Lương ẩn ở núi Câu-khúc, gọi là Hoa-dương Châu-nhân, trong thời vua Vũ-đế được lấy lễ vời mà không ra, những việc lớn-lao của triều-đình đều phải hỏi ý-kiến ông, được người ta gọi là Sơn-trung Tể-tướng (quan Tể-tướng ở ẩn trong núi).

[1439]Lý-Thì-Trân, người đất Sam-châu đời Minh, tự là Đông-bích, ưa đọc sách, thích nhất là sách về y-học, có viết sách Bổn-thảo Cương-mục, Kỳ kinh bát mạch khảo, Tần hồ mạch học.

[1440]Vọng mai giải khát, trông rừng mai ở xa mà giải khát. Tào-Tháo đem quân đi đánh giặc, quân-sĩ đều khát mà không có nước. Tào-Tháo bảo: “Phía trước có rừng mai to, nhiều trái ngọt ngọt chua chua, có thể giải khát” . Quân sĩ nghe nói đều nhểu nước miếng.

[1441]Nghi Địch, Bà phi của vua Vũ là Nghi-Địch làm rượu dâng lên. Vua Vũ uống khen ngon bèn xa dần bà Nghi-Địch, không uống rượu ngon nữa và bảo: “Đời sau tất có người vì rượu mà mất nước” .

[1442]Đỗ-Khang, người đời Chu, làm rượu rất giỏi.

[1443]Khúc, men rượu.

[1444]Dịch dịch, dáng có màu sắc rạng-rỡ.

[1445]Nễ-nễ, dồi-dào.

[1446]Sưu, cái lồng để lược rượu.

[1447]Hựu, khuyên mời.

[1448]Thể, sách Từ-hải giải thích là rượu trong.

[1449]Sa đường (sa, cát), đường cát màu ngà ngà.

[1450]Sương đường (sương, có bột mịn màu trắng như bột sương), đường cát trắng.

[1451]Băng đường (băng, nước đá, có khối cứng trong veo), đường phèn.

[1452]Cách-nhiệt (cách, miếng da mỏng ngăn cách ngực và bụng), chứng bịnh phát nhiệt ở miếng da mỏng nằm ngang khoảng giữa ngực và bụng.

[1453] Nguyên văn:Image, tra các tự-điển đều không có chữ nầy; nghiệm việc kể ở đây, chúng tôi tạm dịch là lò nấu đường, có lẽ cũng không sai.

[1454]Lư-Tuần, người đời Tấn, tự là Vu-Tiên, lúc trẻ tên là Nguyên-Long, viết chữ thảo chữ lệ rất khéo, đánh cờ rất tài, cưới em gái của Tôn-Ân. Khi Tôn-Ân làm loạn, Lư-Tuần ở trong ban tham-mưu. Sau khi Tôn-Ân chết, bè đảng tôn Lư-Tuần làm chúa. Trong niên-hiệu Nghĩa-hy. Lưu-Dụ đánh Mộ-Dung-Siêu, Lưu-Tuần thừa hư tiến ra, bức hãm Kiến-Khang, về sau bị Lưu-Dụ đánh lui phải trầm mình mà chết.

[1455]Lưu-Dụ người ở Bành-Thành thời Tống Vũ-Đế Nam-triều tự là Đức-hưng, lúc đầu làm quan cho nhà Tấn, làm Hạ-bì Thái-thú, thăng Bành-thành Nội-sử. Khi Hoàn-Huyền soán ngôi nhà Tấn, Lưu-Dụ khởi binh dẹp yên, rước An-đế trở về phục-hưng nhà Tấn, được phong Tống-công, lại dẹp các nước Nam-Yên, Hậu-Yên, Thục và Hậu-Tần. Trong niên-hiệu Nghĩa-hy thứ 14, Lưu-Dụ thí vua An-đế, lập Cung-đế, được phong Tấn-vương, được ban cửu tích, được nhường ngôi lên làm vua, lấy quốc-hiệu là Tống, phế Cung-đế làm Linh-lăng-vương, năm sau lại thí vua Cung-đế, ở ngôi được ba năm, tên thụy là Vũ, miếu-hiệu là Cao-tổ.

[1456]Tản tử, bánh vòng làm bằng bột nếp hoà với bột mì, chiên với dầu.

[1457]Chá sương (chá, mía; sương, có từng hột nhỏ màu trắng như hột sương), đường cát trắng làm bằng mía.

[1458]Hà-đồ, khi Phục-Hy làm vua, có con long-mã xuất-hiện ở sông Hoàng-hà, có mang theo bức đồ. Vua Phục-Hy bèn theo đó vẽ ra Bát-quái.

[1459]Lực-Mục, bề tôi của vua Hoàng-đế, vua Hoàng-đế nằm chiêm-bao thấy một người cầm cây nõ nặng ngàn quân (30 cân là 1 quân) lùa đuổi muôn bầy dê. Vua tỉnh vậy nghiệm rằng: “Cầm cây nõ ngàn quân là người có sức mạnh lạ-thường, đuổi muôn bầy dê là người có thể chăn dân” . Vua nhân đó tìm được ông Lực-Mục và cho làm tướng-quân.

[1460]Giảm, chất trơn và mặn ở trong đất dùng để giặt áo (alcali).

[1461] Cơm nấu với nước cây thanh-tinh.

[1462]Vương-Dật, người ở đất Nghi-thành đời Đông-Hán, tự là Thúc-sư, trong thời vua Thuận-đế làm quan Thị-trung, có soạn sách Sở từ chương cú.

[1463]Đào-Hoàng, người đất Mạt-lăng đời Tấn, tự là Thế-Anh, lúc đầu làm quan cho nước Ngô với chức Giao-châu Thứ-sử, có mưu-lược, ưa chu cấp người bần khó, được lòng người, Tôn-Hạo nước Ngô đầu hàng nhà Tấn viết sắc cho Đào-Hoàng bảo hãy quy-thuận nhà Tấn, Đào-Hoàng tuôn nước mắt khóc nước Ngô mấy ngày, rồi sai sứ đem ấn về Lạc-dương. Tấn Vũ-đế xuống chiếu phục nguyên chức cho Đào-Hoàng và phong cho Đào-Hoàng tước Uyển-lăng-hầu. Đào-Hoàng trấn giữ phương Nam 30 năm. Đến khi ông mất, cả Giao-châu đều khóc như khóc tang cha mẹ vậy.

[1464]Quách-Phá c, người đất Văn-Hỉ đời Tấn, học rộng, có tài cao, thích cổ văn ký tự, đứng đầu Đông-Tấn về từ phú, lại giỏi về âm-dương, lịch-toán, ngũ-hành, bốc-phệ, lại giỏi chuyển tai trừ họa. Trong thời vua Nguyên-đế, ông làm bài Giang-Phú và bài Nam-Giao phú, lời văn hùng vĩ, vua đọc phải khen ngợi, triệu ông vào làm chức Trứ-tác tá lang. Vua Nguyên-đế băng, ông lấy cớ có tang mẹ xin từ chức. Trong thời vua Minh-đế, Vương-Đôn khởi loạn, ông làm chức Ký-thất. Vương-Đôn mưu nghịch, đến ông xem bói. Ông bói ra đại hung: Vương-Đôn nổi giận chém ông chết. Ông có soạn những sách: Động-lâm, Tân-lâm, Bốc-vận, Nhĩ nhã chú, Sơn hải kinh chú, Mục-thiên-tử truyện chú, Sở từ chú, Từ-Hử Thượng lâm phú chú.

[1465]Lưu An, cháu nội của vua Hán Cao-đế, được phong Hoài-nam vương, thích đọc sách, đánh đàn, làm văn. Vũ-đế thích văn-nghệ cho nên rất trọng Lưu-An, xuống chiếu cho Lưu An làm Ly-tao phú. Buổi sáng nhận chiếu, buổi chiều dâng lên. Ông thường vời tân khách và phương sĩ làm 21 thiên Nội-kinh, lại có 8 quyển nói về các thuật của thần tiên. Về sau ông mưu nghịch, việc bị phát giác phải tự sát.

[1466]Tề dân yếu thuật, tên sách, có 10 quyển, do Gỉa-Tư-Hiệp đời Hậu-Ngụy soạn, có 92 thiên, khởi đầu nói về việc cày cấy làm ruộng, cuối cùng nói về việc mắm muối.

[1467]Đào-Tiềm, người ở Sài-tang đất Bình-Dương đời Tấn, tự là Uyên-Minh, hoặc nói ông tên là Uyên-Minh, tự là Nguyên-Lượng hoặc nói tên ông là Nguyên-Lượng, tự là Thân-Minh, chí thú cao khiết, không ham danh lợi, thơ của ông đạm-nhã, văn của ông siêu-việt, mới đầu làm chức Châu Tế-tửu, sau làm Bành-trạch lịnh, làm quan được hơn 80 ngày, đến cuối năm, trên quận sai viên Đốc-bưu đến huyện, chức lại xin ông ăn mặc chỉnh-tề ra tiếp-kiến. Ông bảo: “Ta há vì năm đấu gạo mà phải khum gãy lưng đón tiếp thằng con trẻ trong làng? ”

Liền ngày ấy ông trả ấn từ quan, làm bài phú Quy khứ lai từ, để tỏ ý mình, ông an bần lạc đạo, lấy rượu thơ làm vui. Cuối niên-hiệu Nghĩa-hy, được vời ra làm Trứ-tác-lang, ông không ra. Trong đầu niên-hiệu Nguyên-gia, ông mất, người đời gọi ông là Tĩnh tiết tiên sinh. Sách của ông để lại có Đào Uyên Minh tập.

[1468]Yêm-la, trái xoài.

[1469]Phó-Huyền, người ở Nê-đương đất Bắc địa đời Tấn, tự là Hưu-dịch, lúc bé mồ côi nghèo khó, tính cương-cường, học rộng hay viết văn, trong thời vua Vũ-đế, làm gián chức. Mỗi lần tấu sự hạch tội, ông cầm bạch giản, sửa ngay ngắn trâm đai ngồi chờ cho đến sáng. Bọn gian nịnh đều khiếp phục.

[1470]Mạnh đông, tháng đầu mùa đông là tháng 10.

[1471]Canh, gạo không có nhựa, tức gạo tẻ.

[1472]Thượng thu, tháng đầu mùa thu, tức tháng 7.

[1473]Tào-Phi, tức Ngụy Văn-đế, con của Tào-Tháo.

[1474]Đồ, lúa đồ tức lúa đạo (nếp).

[1475] Nguyên văn: Điền nghi tái dịch 田宜再易. Chữ dịch ở đây không có nghĩa là thay-đổi mà là sửa-sang cày bừa.

[1476]Hỏa mễ, đốt rừng lấy tro bón phân trồng lúa, thứ lúa ấy gọi là hỏa mễ.

[1477]Lúa tiên, lúa tẻ mà chín sớm.

[1478]Yên-chi, thứ sáp để phụ-nữ ngày xưa dùng thoa mặt, sản-xuất ở nước Yên, chế bằng nước hoa hồng lam.

[1479]Chân lạp phong thổ ký, tên sách, có 1 quyển, do Chu-Đạt-Quan đời nhà Nguyên soạn. Chân-lạp vốn là một nước nhỏ ở biển Nam-hải, thuộc-quốc của Phù-nam, trong đầu niên-hiệu Nguyên-trinh (1295-1296) nhà Nguyên sai sứ đi chiêu-dụ nước Chân-lạp, Chu-Đạt-Quan đi theo và qua lại trong ba năm, nhân những điều nghe thấy mà viết sách nầy.

[1480]Kinh Sở tuế thì ký, tên sách, có một quyển do Tông-Lẫm đời Lương soạn. Tông-Lẫm là người nước Sở, ghi chép phong tục của nước Sở tất cả được 36 việc.

[1481]Ích bộ phương vật lược ký, tên sách, có một quyển, do Tống-Kỳ đời Tống soạn. Tống-Kỳ làm tri-châu ở Ích-châu, dùng sách Kiếm nam phương vật lược của Thẫm-Lập bổ-túc những điều thiếu sót mà làm sách nầy. Về cỏ cây có 41 loại, thuốc có 9 loại, chim thú có 8 loại, côn trùng và cá có 7 loại, cộng chung được 65 loại đều có vẽ hình và có lời tán.

[1482]Tống-Kỳ, người đất An-lục đời Tống, tự là Tử-kinh, đỗ tiến-sĩ, thăng chức Long-đồ các học-sĩ, Sử quán tu-soạn, cùng với Âu-Dương-Tu làm sách Đường-thư, ra làm tri-châu ở Bạc-châu, đi đâu cũng mang theo sử cảo, thăng chức Tả-thừa, chức Công-bộ Thượng thư, chức Hàn-lâm học-sĩ thừa chỉ.

[1483]Hoằng-Cảnh, tên nhà sư đời Đường đệ-tử của Nam sơn luật sư, theo Thiên-thai Chương-an đại sư học Thiên-thai tông, trong thời Vũ-hậu, cùng với nhóm Thực sa nan đà dịch kinh Hoa-nghiêm.

[1484] Nguyên văn chép 椿, chữ này có hai âm: 1) Trang là cây cọc đóng cọc dưới đất. 2) Thung là đánh.

Chúng tôi chắc-chắn đây là chữ Xuân 椿 (bị viết sai) là một loài cây to sống lâu thường được ví với người cha.

[1485]Đỗ-Tuân-Hạc, người ở đất Vạn-niên cuối đời Đường, tự là Ngạn chi, hiệu là Cửu-hoa sơn-nhân, trong niên-hiệu Đại-thuận đỗ tiến-sĩ, vào nhà Lương cậy thế muốn giết cả nhà địch thủ, việc chưa phát-giác thì chết. Tuân-Hạc giỏi thơ và nhất là thể cung-từ. Ông có viết sách Đường phong tập.

[1486]Trương-Cửu-Linh, người ở Khúc-giang đời Đường, tự là Tử-thọ, đứng đầu về văn-học một thời. Vua Huyền-tông cất nhắc cho đỗ tiến-sĩ, làm chức Tả thập di, chức Trung thư lịnh, làm tể-tướng, được phong Khúc-giang nam.

[1487]Cổ-độc, lấy chất độc thuốc người. Cách chế-tạo chất thuốc độc nầy: Bắt một trăm thứ sâu bỏ vào trong chén cho chúng ăn lẫn nhau. Bắt con sâu sống sót cuối cùng làm thuốc độc.

[1488]Lục-Vũ, người đất Cánh-lăng đời Đường, tự là Hồng-tiệm, có một tên nữa là Tật, một tự nữa là Quý-tỳ, không biết sinh đẻ ở đâu, lớn lên mới lấy họ Lục và tên Vũ, tự xưng là Tăng-trữ ông, hiệu là Cánh-lăng-tử, đầu niên-hiệu Thượng-nguyên, ở ẩn nơi Điều-khê, hoặc đi một mình trong đồng nội, đọc thơ, khóc đau-đớn rồi trở về, thích uống, có viết sách Trà kinh 3 thiên, nói rõ nguồn gốc của trà, do đó thiên-hạ có phong-trào thích uống trà. Đời sau người ta thờ Lục-Vũ làm trà thần.

[1489]Chữ 蔞 phải đọc theo chữ nôm là trầu, còn đọc theo chữ nho là lu, lâu (một thứ cỏ để nấu cá).

[1490]Tăng, tên chung gọi các thứ lụa. Hồng tăng là lụa hồng.

[1491]Tiêu, tơ sống. Tử tiêu là tơ có màu tía.

[1492]Giáng tuyết (tuyết hồng), tên thứ thuốc đơn của tiên.

[1493]Thái Quân-mô, tức Thái-Tương, người ở đất Tiên-du đời Tống, tự là Quân-mô, tính trung-thành cứng-cỏi, giỏi về thi-văn, thông về sử, trong niên-hiệu Thiên-thánh đỗ tiến-sĩ, làm quan đến chức Tri-gián viện, thăng Trực-sử quan, ra làm Tri-châu ở Khai-phong, ở Phúc-châu, ở Tuyền-châu, ở Hàng-châu. Tại Tuyền-châu ở bến Vạn-an ông có làm cái cầu đá, đời sau gọi là cầu Lạc-dương (Lạc-dương kiều). Ông có viết những sách: Trà lục, Lệ-chi phổ, Trái trung huệ tập.

[1494]Mật phụ, cha mật, ý nói ngọt hơn cả.

[1495]Sáp huynh, anh của sáp, ý nói trơn bóng hơn sáp.

[1496]Phi tuyết lục, tên sách, có 2 quyển, do Lưu-Tích đời Minh soạn. Cha của Lưu-Tích là Lưu-Hoán thạo Mao-thi, Lưu-Tích thừa kế cái học của cha, cho nên sách nầy biện bạch về thi nghĩa rất có căn-cứ. Ông lại giao-du với các bô lão cuối đời Nguyên, cho nên ông chép những điều nghe thấy cũ rất có nguồn gốc uyên-thâm. Nhưng ông chép những mộng ảo khôi-hài giống như những nhà tiểu-thuyết.

[1497]Mười đấu là một thạch.

[1498]Cửu cức, chín cây cức. Đời xưa trồng cây cức làm chỗ đứng chầu của các quan. Chín cây cức phía tả là chỗ đứng chầu của bậc cô khanh đại-phu, các kẻ sĩ đứng ở phía sau. Chín cây cức ở phía hữu là chỗ đứng chầu của bậc công hầu bá tử nam, các chức lại đứng ở phía sau. Đời xưa xử án ở khoảng ba cây hòe và chín cây cức.

[1499]Tạ-An, người đất Dương-hạ đời Tấn, tự là An-Thạch, phong độ tuấn-tú, thần thức trầm mẫn, ẩn cư ở Đông-sơn thuộc Cối-kê, về sau làm quan Tư-mã, và chức Thị-trung-Hiếu. Vũ-đế lên ngôi, Hoàn-Ôn quyền chấn thiên-hạ, âm thầm có chí khác. Khi Hoàn-Ôn mất, ông làm chức Thượng-thư bộc-xạ, lãnh Trung-thư-lịnh. Bồ-Kiên đem binh trăm vạn đóng ở Hoài-Phì, kinh-đô chấn-động, Tạ-An làm Chinh-thảo Đại Đô-đốc, cả phá được giặc, thăng chức Thái-bảo ra trấn Quảng-lăng, bịnh ngặt trở về thì mất, được truy tặng chức Thái-phó.

[1500]Động thiên thanh lục, tên sách, có 1 quyển, do Triệu-Hy-Hộc đời Tống soạn, có tên là Động thiên thanh lộc tập, bàn luận phân biệt những cổ khí và thư họa, phân biệt rất tinh xác, viện dẫn khảo chứng rất xác đáng.

[1501]Vương Chiêu-Tố, người ở đất Toan-tảo đời Tống, dốc lòng học tập, có chí-khí hạnh-kiểm, dạy học mà sống. Người trong làng thưa kiện nhau, họ không đến phủ quan, mà đến nhà Vương-Chiêu-Tố phân xử. Ông thông cửu kinh, nghiên-cứu Lão Trang, rất tinh về kinh Thi và kinh Dịch. Trong thời vua Thái-tổ, ông là Quốc-tử Bác-sĩ. Về sau ông trí sĩ mà mất.

[1502] Chữ Image các tự-điển không có, chúng tôi tạm đọc là trạch vì phần chữ trạch 宅 làm hài-thanh.

[1503]Đài tiền, rêu đóng thành hình tròn như đồng tiền.

[1504]Chi-lâm, 1) Tên sách do Ngu-Hỉ đời Tấn soạn có 30 thiên; 2) Tên sách có 5 quyển, do Tô-Thức đời Tống soạn, đó là những bài tùy-bút của Tô-Thức, người đời sau sưu-tập lại gọi là Đông-pha thủ trạch, sau lại đổi ra Đông-pha chi-lâm, rồi gọi tắt là Chi-lâm.

[1505]Trúc-phổ, tên sách, có một quyển, do Đái-Khải-Chi đời Tấn soạn, chép hơn 70 loại trúc, chép bằng lối văn tứ ngôn có vần và tác-giả tự chú-thích.

[1506]Hải biểu, ngoài bốn biển.

[1507]Bì-nhã, tên sách, có 20 quyển, do Lục-Điền đời Tống soạn, lúc đầu gọi là sách Vật tính môn loại, sau đổi lấy tên Bì-nhã, giải-thích loài cá, loài thú, loài chim, loài ngựa, loài cây, loài cỏ, bầu trời, tất cả có 8 thiên.

[1508]Cù-điểu, chim sáo, lông toàn đen, người ta phải lột lưỡi, nó mới nói được tiếng người, hay kêu bắt chước theo tiếng chim khác.

[1509]Ban cưu, chim cu cườm có đốm.

[1510] Câu đáp nầy sách chép thiếu. Chúng tôi nghiệm ý cả đoạn nầy mà viết ra như thế, có lẽ cũng không sai.

[1511]Bá-Lạc, người giỏi xem tướng ngựa đời xưa.

[1512]Đại giả thạch, thứ đá đỏ, mặt ngoài đỏ và trơn, ở trong màu tía như gan gà.

[1513]Con tự, như con bò rừng mà màu xanh, nặng ngàn cân, sản-xuất ở Cửu-đức đất Giao-châu, có một sừng, sừng nầy giống như cán roi ngựa dài hơn ba thước.

[1514]Phất-lâm, tức đế quốc Đông La-mã, cũng gọi là nước Hải-tây quốc.

[1515]Đại-thực, tức Đế-quốc A-lạt-bá, thuộc Hồi-giáo.

[1516]Dao-quang, ngôi thứ 7 của chuôi sao Bắc-đẩu.

[1517]Lỗ-bộ, xa giá nghi lễ của vua lúc vua đi ra ngoài.

[1518]Cà-cuống, chính âm là Đà cuống (Triệu-Đà nói dối). Triệu-Đà ở Nam Việt có dâng cống cho vua Hán một loài côn trùng ăn thơm ngon, gọi là con quế đố (mọt ở cây quế). Về sau người ta biết đó không phải là con mọt quế, và gọi đó là con Đà-cuống (Triệu-Đà nói dối). Tiếng đà-cuống chuyển ra cà-cuống.

[1519]Nội-điển, sách giáo-điển của Phật.

[1520]Chữ hãi 蟹 là con cua, có bộ hủy 虫 là côn trùng, phần chữ giải 解 là giải bỏ, gạn bỏ cặn bã, dùng lấy tinh hoa.

[1521]Hào tức con hàu, một loài sò ở biển, bám vào đá thành tảng.

[1522]Nhan-Chi-Thôi, người ở đất Lâm-nghi đời Nam Bắc triều, tự là Giới, lúc đầu làm quan cho nhà Lương, thăng Tán-thị-lang, sau chạy sang nước Tề lãnh chức Trung-thư xá-nhân, Hoàng-môn thị-lang, rất được thân-thiết kính trọng, làm Bình-nguyên Thái-thú, giữ Hà-tân. Nước Tề mất, Thôi vào nhà Chu là Ngự-sử thượng-sĩ. Sách của ông viết có Nhan-thị gia-huấn.

[1523] Nguyên văn: My cừ, vun gồ lên (như lông mày là my) và lõm sâu xuống (như rãnh nước là cừ).

[1524]Khổng-Quỳ, người đời Đường, tự là Quân-nghiêm, đỗ tiến-sĩ, làm chức Thị-ngự-sử, thăng Giám-nghị đại-phu, thăng Thượng-thư Tả-thừa, ra làm Hoa-châu Thứ-sử, làm Lĩnh-nam Tiết-độ-sứ, vùng Giao-châu, Quảng-châu được yên trị. Khi vua Mục-tông lên ngôi, ông được về kinh làm Tả-thừa rồi lấy cớ già yếu xin trí sĩ.

[1525]Nguyên-Chân, người đất Hà-nam đời Đường, tự là Vi-chi, được vua Mục-tông thưởng-thức về thi ca, làm chức Tử-bộ Lang-trung, vào Hàn-lâm-viện làm Trung-thư Xá-nhân Thừa-chỉ học-sĩ, trong niên-hiệu Trường-khanh làm chức Đổng-trung-thư môn-hạ bình-chương-sự. Nguyên-Chân và Bạch-cư-Dị giao hảo với nhau rất hậu. Thơ của Nguyên-Chân được các phi tần ngâm đọc, trong cung gọi là Nguyên-tất-tử. Sách của ông có Nguyên thị Trường khánh tập.

[1526]Tao, hèm rượu, cặn rượu, Ham, con sò.

[1527]Phạm Lễ, người nước Sở đời Xuân-thu, tự là Thiếu-bá, thờ Việt-vương Câu-Tiển hơn 20 năm, chịu khổ thân kiệt sức mới diệt được nước Ngô. Thấy Việt-vương Câu-Tiển không thể sống chung cộng hưởng mới từ giã bỏ đi, đổi tên họ, sau trở thành nhà giàu to, tự gọi là Đào Chu-công.

[1528]Bắc-hộ lục, tên sách có 3 quyển, do Đoàn-Công-Lộ đời đường soạn, chép phong-thổ vùng Lĩnh-nam khá rõ ràng, chép đầy đủ về các sản vật.

[1529]Quý du, bậc vương công.