Vì sao họ thành công - Chương 05
ARCHIE W. DUNHAM
CHỦTỊCH CÔNG TY CONOCOPHILLIPS
HOẠCH ĐỊNH TỐT ĐỂ
TRÁNH KẾTQUẢ TỒI
“Tôi đã học được một bí quyết lãnh đạo rất hiệu quả
từ khi còn phục vụ trong Hải quên Mỹ, gọi là Bí quyết 5-P:
Prior Planning Prevents Poor Performance (tạm dịch:
Hoạch Định Trước để Tránh Kết Quả Kém).”
Dù trong quên đội hay trong kinh doanh, mọi chuẩn bị
đều có ý nghĩa then chốt đối với thành công. Sở dĩ Hải quên
thường rất thành công trong các kế hoạch của họ là vì họ rất
tỉ mó trong các kế hoạch của mình; họ luôn dự liệu trước
mọi tình huống tồi tệ nhất nên luôn dự phòng nhiều
phương án thay thế khác nhau.
Khi bước vào hàng ngũ quản lý cao cấp và có cơ hội
huấn luyện các nhà quản lý trẻ, tôi luôn áp dụng bí quyết
đó. Kết quả là, tôi gần như không bao giờ đi họp mà không
chuẩn bị trước. Tôi có một đội ngũ quản lý giỏi. Họ được
huấn luyện để tư duy và hành động theo cách của tôi.
Việc hoạch định trước luôn mang lại kết quả tốt – đó
cũng chính là điều tôi đã làm để hiện thực hoá giấc mơ của
cả đời tôi là biến Conoco trở lại thành một công ty độc lập.
Conoco sáp nhập với DuPont vào năm 1981 để tránh bị đối
thủ sang đoạt. Đến năm 1998, lý do ban đầu biện hộ cho
việc sáp nhập không còn và xuất hiện nhiều lý do khác đòi
hỏi chúng tôi phải hoạt động độc lập với Dupont.
Nhưng việc giành lại độc lập là một nhiệm vụ vô cùng
to lớn đòi hỏi phải được hoạch định rất tỉ mó và toàn diện.
Chúng tôi phải sắp xấp những lý luận sắc bén để thuyết
phục ban giám đốc DuPont rằng việc tách ra sẽ mang lại lợi
ích tốt nhất cho các cổ đông.
Chúng tôi đã không chỉ tin tưởng vào năng lực tư duy
của riêng chúng tôi. Chúng tôi đã mời các ngân hàng đầu tư
và các chuyên gia tài chính từ bên ngoài tham gia – đầu tiên
là để giúp chúng tôi soạn thảo hồ sú trình ban giám đốc, sau
đó là chuẩn bị trước cơ sở để bán cổ phần lần đầu cho công
chúng (IPO). Chúng tôi thuê các nhà tư vấn pháp lý độc lập
giúp chúng tôi đàm phán toàn bộ lộ trình của giao dịch này,
thay vì nhờ bộ phận pháp lý của DuPont. Việc hoạch định
toàn diện đã đi vào chi tiết trong mọi bước đi của quá trình
tìm lại sự tự chủ kinh doanh của chúng tôi.
ARCHIE W. DUNHAM
Cuối cùng, việc hoạch định đó đã được tưởng thưởng
một cách tuyệt vời. Khi cổ phiếu của Conoco bắt đầu được
giao dịch trên Thị trường Chứng khoán New York ngày
22/10/1998, lệnh mua cổ phiếu đã được đăng ký vượt mức
mong đợi: 4,4 tỉ đô la! Một thương vụ lớn nhất trong lịch
sử nước Mỹ tính đến thời điểm đó.
Theo tôi, điểm quan trọng nhất trong kỹ năng lãnh đạo
hiệu quả là sự tập trung. Bạn không thể đi khắp nơi và làm
tất cả mọi việc cùng một lúc. Bạn phải tập trung vào những
ưu tiên hàng đầu trong từng ngày. Hiệu quả quản lý không
phụ thuộc vào sự cần cuâ hay lượng thời gian hao phí lao
động của bạn. Hãy chú ý vào những điều thực sự quan trọng
nhất. Hầu hết các trường hợp lãnh đạo thất bại đều do sự
thiếu tập trung trong công việc, cả ngắn lẫn dài hạn.
TỔNG GIÁM ĐỐC TẬP ĐOÀNCRUTCHFIELD
VAI TRÒ CƠ BẢN CỦA
MỘT NHÀ LÃNH ĐẠO LÀ
TẠO RA SỰ THỐNG NHẤT
XUYÊN SUỐT
“Rất nhiều người viết vì vai trò của nhà quản lý
trong việc liên kết các nhóm nhân viên của họ với các chiến
lược và chiến thuật kinh doanh của công ty. Vì mặt này,
Kenneth Lay, CEO của Tập đoàn Enron là một trong những
lãnh đạo tài ba, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Bởi vì còn một
điều rất quan trọng khác là việc liên kết các giá trị và thiết
lập nền văn hoá công ty mà ít có quyển sách nào nhắc tới.
Phương pháp lãnh đạo hiệu quả nhất theo tôi là nhận diện,
ghi nhớ và quản lý tốt nền văn hoá công ty.
Người quản lý phải nắm vững những giá trị cơ bản vì
văn hoá công ty mà mình mong muốn và có khả năng liên
kết mọi người trong tổ chức xoay quanh những giá trị đó.
Rõ ràng là, nếu Lay có những giá trị này và tạo ra được môi
trường văn hoá công ty lành mạnh song song với việc liên
kết nhân viên của mình, thì có lẽ Enron đã không sụp đổ
bằng một vụ bê bối tài chính chấn động như thế.
Vậy, người lãnh đạo cần có những giá trị nào?
Từ kinh nghiệm bản thân, tôi thấy rằng những người
lãnh đạo thực sự thành công luôn đề cao trách nhiệm phục
vụ lợi ích tốt nhất cho khách hàng, nhân viên, đối tác kinh
doanh và các nhà đầu tư bên ngoài công ty một cách dài hạn.
Vấn đề khó khăn là làm thế nào để cân bằng lợi ích của
tất cả các bên có liên quan này. Nếu bạn giảm giá sản phẩm
để làm hài lòng khách hàng, rõ ràng là bạn đang xâm phạm
tiêu chí “lợi nhuận cao nhất” của các cổ đông. Mặt khác,
nếu bạn không thực sự nhạy cảm với nhu cầu của khách
hàng, bạn sẽ không bao giờ giành được sự quan tâm của họ.
Còn nếu bạn xem nhân viên và các đối tác kinh doanh là
những đối tượng khiến bạn có những khoản chi phí cần
phải giảm thiểu tối dễ vì lợi ích của các cổ đông, có thể là
bạn đang tạo ra những sai lầm lớn.
Nguồn nhân lực và các khoản đầu tư tài chính nếu được
sử dụng đúng đắn sẽ trở thành những tài sản khổng lồ. Nếu
bạn chỉ tập trung vào việc làm giàu, bạn có thể hủy hoại cả
doanh nghiệp. Cơn sốt chạy theo tiền bạc vào cuối những
năm 1990 đã cám dỗ các nhà quản lý đưa ra những quyết
định phục vụ cho bản thân họ, mà kết cục là xâm phạm
quyền lợi của các thành phần khác – khách hàng, nhân
viên, đối tác kinh doanh và móa mai thay, kể cả bản thân họ.
Để liên kết mọi người xung quanh những giá trị của
mình, theo tôi, bước đầu tiên là phải biến những giá trị đó
thành hiện thực hoàn toàn. Người lãnh đạo phải là hiện
thân của những giá trị cốt lõi của tổ chức. Bước tiếp theo là
truyền đạt những giá trị đó một cách nhất quán, biến nó
thành niềm tin trong tổ chức của bạn. Sau đó, bạn phải đảm
bảo có một hệ thống quản lý có thể duy trò những giá trị này.
Crutchfield là một tập đoàn sản xuất hàng điện tử tiêu
dùng. Chúng tôi bán hàng chủ yếu qua đơn đặt hàng và qua
mạng Internet. Chúng tôi tuyển nhân viên dựa vào khả
năng của họ trong việc thích nghi với các giá trị cốt lõi của
chúng tôi. Chúng tôi xem việc tuân thủ các giá trị đó là cơ
sở để đánh giá và khen thưởng nhân viên.
Doanh thu của chúng tôi tăng trưởng đều cho đến năm
1982 thì chậm dần và bắt đầu sụt giảm một cách đáng kể.
Chúng tôi đổ lỗi cho sự suy thoái và cho rằng sự may mắn
của chúng tôi sẽ được cải thiện khi nền kinh tế quốc gia
thịnh vượng trở lại.
Năm 1983, nền kinh tế bắt đầu phục hồi mạnh mẽ. Tuy
nhiên, doanh số của chúng tôi lại giảm 10% và lợi nhuận
chuyển sang con số âm. Nguồn tiền mặt của chúng tôi ngày
càng eo hẹp do thua lỗ và chi phí xây dựng tòa nhà mới.
Đầu năm sau đó, tôi phải đi vay ngân hàng. Các khoản lỗ
cứ tiếp tục tăng lên và đến cuối muâa hè, khoản vay đã là một
con số đáng kể. Mặc dù giá trị thuần của công ty rất lớn,
nhưng khoản lỗ này làm chúng tôi - và dĩ nhiên là cả ngân
hàng cho vay - hết sức quan tâm. Có lẽ chúng tôi đã phạm
phải một sai lầm cơ bản nào đó.
Một trong các phoá chủ tịch công ty cho rằng chiến lược
kinh doanh của chúng tôi đã sai lầm. Ông ấy và những
người ủng hộ tin chắc rằng chúng tôi đã đưa quá nhiều giá
trị vào sản phẩm và do đó phải tính giá cao hơn so với các
đối thủ cạnh tranh.
Họ đề nghị chúng tôi áp dụng chiến lược của một công
ty chuyên cung cấp hàng qua thư tín ở Baltimore. Danh
mục hàng hoá của họ kém xa chúng tôi, sản phẩm của họ
được mô tả bằng hình vẻ trên loại giấy in báo thay vì ảnh
chụp. Công ty này cũng không cung cấp những dịch vụ
khách hàng như chúng tôi: điện thoại miễn phí, đường
dây nóng phục vụ khách hàng và hỗ trợ kỹ thuật, hướng
dẫn lắp đặt, đặc quyền trả lại hàng không giới hạn, các
trung tâm bảo hành,… Tuy nhiên, giá cả hàng hoá của họ
thấp hơn chúng tôi và điều đó được xem là thành công.
Khuyến nghị của nhóm nhân viên này mạnh mẽ đến mức
tôi có cảm tưởng rằng nếu không nghe theo họ, tôi sẽ gặp
thảm họa.
Một ý kiến hoàn toàn khác được Trường Thương mại
McIntire thuộc Đại học Virginia đề xuất. Tác giả của đề nghị này
kết luận rằng: “Tập đoàn Crutchfield có tầm voác hoạt động vượt
quá khả năng điều hành của Bill Crutchfield”. Tôi hiểu rằng
ông đề nghị nên thay thế tôi bằng một Tổng giám đốc khác.
Rất may là tôi cũng không nghe theo ý kiến này. Thay
vào đó, tôi đã dành rất nhiều thời gian suy nghĩ một cách
sâu sắc vì mọi mặt. Và thay vì phân tích tìm hiểu tại sao có
sự biến động của các con số qua các năm, tôi suy nghĩ vì
việc tại sao linh hồn của công ty lại thay đổi như thế.
Khi tầm voác công ty còn chưa phát triển, nó là hiện thân
của những giá trị mà tôi mong muốn: chăm sóc khách hàng,
tôn trọng nhân viên, hợp tác chặt chẽ với đối tác và phấn
đấu vươn đến sự hoàn hảo. Tuy nhiên, điều mà giờ đây tôi
nhìn thấy tại công ty là bầu không khí văn hoá xa lạ với
những niềm tin của tôi.
Giờ đây, nhân viên kinh doanh chú ý vào việc làm sao
tăng số tiền hoa hồng của bản thân họ hơn là chăm sóc lợi
ích của khách hàng. Việc quản lý kho hàng trở nên quan
liêu đến mức phải mất vài ngày, một đơn đặt hàng mới
được chuyển đi thay vì trong vòng 24 giờ như trước kia.
Nhân viên dịch vụ khách hàng tập trung bảo vệ cấp trên của
họ khỏi bị những khách hàng giận dữ làm khó thay vì giải
quyết thỏa đáng những khiếu nại của khách hàng. Quan
trọng nhất là việc nhân viên không còn tôn trọng lẫn nhau
như trước đây. Tinh thần làm việc yếu kém, tỉ lệ bỏ việc rất
cao và sự hợp tác rất thấp.
Cuối cùng, tôi nhận ra rằng chúng tôi đã mất động lực
trở thành công ty hàng đầu trong lĩnh vực của mình. Việc
thiết kế danh mục sản phẩm bị thả nổi. Các mẫu quảng cáo
thiếu sự hấp dẫn. Việc giao hàng thường bị nhầm lẫn. Bao
bò không bắt mắt. Các tư vấn viên bán hàng và kỹ thuật viên
không được đào tạo bài bản. Cửa hàng trưng bày sản phẩm
không chuyên nghiệp. Vì cơ bản, môi trường văn hoá công
ty đã thay đổi rất lớn so với bản chất tốt đẹp của nó vài năm
trước đó.
Trong quá trình tư duy nói trên, tôi đã đọc được một ý
tưởng phù hợp một cách kỳ lạ với tình huống của chúng tôi.
Đó là một ý kiến của Thomas Watson trong một lần giảng
tại Đại học Columbia năm 1962. Vị chủ tịch của IBM đã nói
rằng: “Tôi tin chắc rằng bất kỳ tổ chức nào muốn tồn tại và
thành công trước hết phải có những niềm tin phù hợp để
làm căn cứ cho các chính sách và hành động của họ. Kế đó,
yếu tố quan trọng nhất đối với sự thành công của doanh
nghiệp là sự kiên trò nhất quán với những niềm tin đó. Và
cuối cùng, muốn đáp ứng những thách thức của một thế
giới đang thay đổi nhanh choáng, tổ chức đó phải luôn sẵn
sàng thay đổi mọi thứ, ngoại trừ những niềm tin của mình”.
Thế là tôi đã hiểu chính xác vấn đề nằm ở đâu. Công ty
đã từng có những niềm tin phù hợp – niềm tin của tôi.
Công ty lúc ấy tuy nhỏ, nhưng bằng bản năng, tôi có thể
bảo đảm rằng tất cả mọi người đã từng gắn kết với những
niềm tin đó. Khi công ty lớn mạnh hơn, tôi mất đi sự kiểm
soát này; niềm tin của tôi và của công ty dần tách biệt với
nhau. Cho đến năm 1983, sự khác biệt đã trở nên quá lớn.
Do sự thay đổi này diễn ra rất chậm nên tôi không thể nhận
ra vấn đề cho đến khi đọc được những lời của Thomas
Watson.
Một khi bạn khám phá ra vấn đề thì câu trả lời trở nên
đơn giản hơn. Ban đầu, tôi đã xác định và viết ra ba niềm
tin cơ bản. Sau đó tôi đã thâm vào niềm tin thứ tư. Đến nay,
sau hơn 20 năm, ngôn từ đã biến đổi thành những lời lẽ
như sau:
1. Đáp ứng cao hơn kỳ vọng của khách hàng bằng cách
thể hiện sự trung thực, nhã nhặn, dịch vụ hoàn hảo
và thông tin thực sự hữu ích.
2. Duy trò niềm đam mê trong việc cải thiện không
ngừng mọi hoạt động thông qua những cam kết
hướng đến sự hoàn hảo, những thay đổi và cải tổ
mang lại năng suất cao hơn.
3. Tôn trọng từng đồng nghiệp và tạo ra môi trường làm
việc đề cao lòng tự trọng, sự đồng thuận nhóm và sự
thỏa mãn lợi ích cá nhân.
4. Tôn trọng đối tác kinh doanh và duy trò mối quan hệ
các bên cùng có lợi đối với các nhà phân phối có tính
chuyên nghiệp cao.
Tôi đã soạn phần đầu tiên trong mẫu đánh giá nhân
viên: “Sự tuân thủ những niềm tin cơ bản của chúng ta”.
Cấp quản trị cao cấp sau đó bắt đầu quy trình đánh giá toàn
diện. Tùy theo kết quả đánh giá dựa trên tiêu chí những
niềm tin cơ bản đó, các nhân viên được giữ lại ở vị trí hiện
tại, được thăng chức hay giáng chức, và trong một số trường
hợp là sa thải. Mọi người nhanh choáng hiểu được thông
điệp này.
Gần như chỉ sau một đêm, công ty đã bắt đầu thay đổi.
Các nhân viên quan tâm đến khách hàng nhiều hơn. Họ
hợp tác chặt chẽ hơn với đồng nghiệp khi làm việc. Họ lại
tôn trọng những đối tác kinh doanh. Và họ bắt đầu thể hiện
sự cam kết hướng đến sự hoàn hảo trong khi thực hiện công
việc của mình.
Doanh thu bắt đầu tăng trở lại. Công ty nhanh choáng có
lợi nhuận. Trong vòng một năm, chúng tôi đã đạt được
những kết quả vượt ngoài sự mong đợi lạc quan nhất của
mình. Mặt khác, tôi cảm thấy tự tin hơn vì nhận ra rằng
mình đã kéo công ty ra khỏi con đường thất bại do đã kõp
thời nhận ra vấn đề và tiến hành cải tạo nền văn hoá công ty.
Vì phần đối thủ cạnh tranh mà vị phoá chủ tịch đã từng
muốn công ty chúng tôi bắt chước, họ đã nộp đơn xin phá
sản không lâu sau đó.”