40 gương thành công - Chương 23 + 24

23. Henry J. Kaiser

Nhà kinh doanh đã xuất đầu lộ diện mau nhất trong đại chiến vừa rồi là Henry J. Kaiser. Không phải là quân nhân mà giúp cho quân đội Hoa Kỳ chiến thắng, thì công đó, ít ai hơn ông. Trước chiến tranh, tên tuổi ông có mấy ai biết tới, nhưng chỉ trong vài năm, những xí nghiệp mênh mông của ông phát triển lạ lùng. Ông có tới bảy xưởng lớn đóng tàu, làm việc đ êm ngày không nghỉ để cung cấp cho quân đội những tàu chở hàng, tàu dầu, khu trục hạm và hàng không mẫu hạm. Ông cũng có một xưởng chế tạo máy bay khu trục và nhiều bộ phận rời. 

Ông xây cất và điều khiển một xưởng lớn sản xuất rất nhiều ma-nhê-di, thứ kim thuộc cực nhẹ, trọng yếu bực nhất trong thời chiến tranh đó. 

Khi ông không kiếm ra được số thép cần dùng nữa, ông dựng ngay một xưởng nấu thép, xưởng đầu tiên ở phía tây dãy núi Đá, có đủ lò luyện sắt và máy dát kim loại. Rồi ông mua một mỏ sắt để có đủ quặng dùng, lại mua nhiều mỏ than để có đủ than đốt lò. 

Ông và các hội viên của ông dự vào công việc vớt các tàu Nhật đánh đắm ở Trân Châu Cảng, xây nhiều căn cứ hải quân cho phi cơ ở Wake Island, Midway và Guam, lại xây một phần đại lộ quân sự tiến về Alaska lập ở xứ này nhiều phi trường cho nhà binh, nhiều đ ài phát thanh, đ ào nhiều giếng dầu, dựng một nhà máy lọc dầu. Đặt sáu trăm cây số ống dẫn dầu ở miền cực Bắc, và xây nhiều cống ngăn trên kinh Panama. 

Ông có xưởng chế tạo xi măng lớn nhất thế giới. Ông đã lưu lại một công trình lớn là xây ba cái dập quan trọng nhất thế giới: đập Boulder trên sông Calorado, đập Bonneville trên sông Columbia ở Oregon (nhiều kỹ sư cho rằng không thể nào xây đập này được), và cũng trên sông đó, đập vĩ đại Grand-Coulee. 

Henry Kaiser thành một trong những chủ nhân ông có danh nhất Châu Mỹ. Nhưng vì ông thân mật với mọi người nên người thường đều coi cái con người lớn, mập và hói đó như bạn bè vậy. Người ta yêu ông vì ông giản dị, vui vẻ và hăng hái. 

Trước chiến tranh ông chưa hề đóng một chiếc tam bản nào gọi là có. Vậy mà chỉ trong bốn năm ông thành một nhà đóng tàu nhiều nhất và lớn nhất từ xưa tới nay. 

Ông đã cách mạng hẳn một trong những kỹ nghệ cổ nhất của loài người: kỹ nghệ đóng tàu. Hồi đó người ta phải mất sáu tháng mới đóng xong một chiếc tàu, mà xưởng Oregon của ông chỉ mười ngày là giao được một chiếc Liberty Ship. Khi các thợ của ông ở Californie hay tin đó, họ thề với nhau phải phá kỷ lục ấy cho được. Họ can đảm bắt tay vào việc, và chiếc Robert E. Peary mà lườn được lắp đúng nữa đ êm chủ nhật, hoàn toàn đóng xong và thả xuống nước chiều thứ năm. Vậy, một công việc hồi trước làm trong sáu tháng, có khi trọn một năm, thì bây giờ chỉ làm trong bốn ngày rưỡi. 

Tất nhiên, lần đó chỉ là một thí nghiệm, một sự ganh đua, chứ không thể bắt thợ tuần nào cũng gắng sức như vậy được, nhưng hãng của ông cũng tiếp tục đóng được những chiếc Liberty Ship trong một tháng là xong, từ khi lắp lườn đến khi thả xuống nước. 

Ông thích làm tận lực như vậy, sống mãnh liệt trong cơn lốc bất tận. Ông rất ham bắt tay vào những việc mà các nhà chuyên môn cho là thực hành không được. 

Khi ông đề nghị đóng tàu theo cách dây chuyền, ông có biết chút gì về cách đó đâu. Từ trước ông chỉ được thăm mỗi xưởng đóng tàu, nhưng ông nghĩ rằng. Không biết chút gì về những khó khăn trong nghề đó có lẽ lại là cái lợi nhất cho ông. Ông nhất định không chịu theo lối cổ truyền là lắp lườn trước rồi mới lắp những bộ phận khác của tàu lên cái lườn đó. Trong thời chiến tranh cần phải làm mau hơn. Ông ra lệnh cho các kỹ sư sửa soạn một xưởng lớn gấp ba những xưởng thường, đủ chỗ cho hàng ngàn thợ cùng làm tại đó một lúc, và cả ba phần của tàu, tức mũi, đuôi và thân tàu phải đóng cùng một lúc ba chỗ khác nhau. 

Khi đóng mọi bộ phận rồi, một cái máy cổ hạc vĩ đại lớn hơn những máy dùng từ trước tới nay rất nhiều, kẹp mỗi bộ phận, đem lại đặt vào chỗ của nó ở trong tàu. Rồi người ta hàn kỹ những bộ phận đó với nhau. Ông dùng rất ít đinh tán vì cách đó chậm. Một sáng kiến nữa của ông là lắp các bộ phận của tàu theo cách dây chuyền như lắp xe hơi vậy. Ông và đội kỹ sư của ông lại có ý phóng ngược nhiều bộ phận, như cái mui tàu chẳng hạn, để thợ có thể làm ở dưới, đỡ mệt hơn là cứ phải đưa tay lên trời mà làm việc. Đóng xong thì một máy cổ hạc sẽ lật úp nó lại rồi đưa đi, đặt vào chỗ của nó trong tàu. 

Ngay từ hồi nhỏ, Henry J. Kaiser đã có tài tưởng tượng, đức nhiệt thành và một tham vọng bền bĩ nó làm cho ông giàu có và nổi danh. Tổ tiên ông là người Đức, cha ông làm thợ giày, khó nhọc mà không đủ nuôi một gia đình bốn con. Vì ông là con trai độc nhất trong nhà, ông phải thôi học từ hồi mười một tuổi để kiếm tiền giúp cha. Ông xin được một chân giao hàng trong một cửa hàng lớn ở Nữu Ước. Ban ngày làm cho người, nhưng ban đ êm thì làm theo sở thích: hồi đó ông mê chụp hình. Thấy sách nào ở thư viện công cộng ông cũng đọc nghiến ngấu. Rồi ông xin được một chân giúp việc cho một tiệm chụp hình tại ngoại ô Lake Placid. Ông không coi công việc ông làm là một công việc mà cho nó là một trò vui, một trò chơi, một nỗi thích thú. Ông đem cả tấm lòng hăng hái của tuổi xanh vào việc bán máy ảnh, việc rửa hình cho các nhà chơi ảnh. Ông lại in cả bưu thiếp có dán hình Lake Plaud để bán. Sau ba năm ông hoàn toàn làm chủ cửa tiệm. Sau năm năm ông mở thêm nhhững tiệm chụp hình khác ở Palm Beach và Daytona Beach tại Floride. Bây giờ thì ông không có tới một cái máy chụp hình nữa. 

Muốn kinh doanh những xí nghiệp lớn hơn, ông bỏ nghề luôn và bổ nhào tới miền duyên hải tây bắc Thái Bình Dương hồi đó mới bắt đầu khai thác. Ông đi chào hàng cho công ty Hawkeye Sand and Gravel ở Spokane, rồi thành hội viên của công ty vì hùn một phần tiền lương vào công việc làm ăn. 

Một hôm ông đi thăm một xí nghiệp ở Chicago khởi sự nhiều công việc quan trọng cho thành phố Spokane. Ông muốn bán một món hàng cho xí nghiệp, món hàng đó là sự hợp tác của ông: xí nghiệp dùng ông liền. 

Khi ông hai mươi chín tuổi, ông bỏ địa vị làm công ra kinh doanh. Vốn ông chỉ vỏn vẹn vài cái xe bù ệt cũ, ít cái máy trộn xi măng và bốn con ngựa, hết thảy đều là mua chịu. Nhưng ông còn những số vốn khác không hiển hiện bằng, song quan trọng nhiều hơn, là tinh lực kinh nghiệm, trí phán đoán, lòng hăng hái và một nghị lực bất biến, luôn luôn muốn tiến tới. Sau hai tháng, ông lãnh việc lát đường, khoảng hai trăm năm chục ngàn Mỹ kim. Lúc này ông bắt đầu giàu có. Chỉ trong vài năm xí nghiệp của ông lát cả ngàn cây số đại lộ trên bờ biển Thái Bình Dương. 

Nhưng ông vẫn thường nói rằng ông không thích tiền. Thực vậy. Ông còn thì giờ đâu để tiêu tiền? Ông rất ít khi rảnh để đọc sách, coi hát bóng hoặc đi nghỉ mát, thì giờ làm việc của ông còn thiếu kia mà! Và ông làm việc rất hăng, càng làm được nhiều càng thích. Ông có một căn trong một khách sạn ở Hoa Thịnh Đốn, một căn trong một khách sạn khác ở Nữu Ước, ngày nào ông cũng mất hằng giờ hội họp, tiếp điện thoại ở xa. Từ Đại Tây Dương tới Thái Bình Dương, tất cả những phòng giấy quan trọng của xí nghiệp ông đều mắc điện thoại vào chung một mạch điện để cho những người cộng tác với ông có thể theo dõi và dự vào những cuộc thảo luận bàn tính của ông trong công việc làm ăn. Phí tổn tất nhiên lớn lắm, mỗi năm tới hai trăm ngàn Mỹ kim tiền điện thoại. Điện tín của ông gởi tới các công sở tới tấp như mưa, hoặc để biện hộ cho ông, hoặc để hăm dọa chính phủ, hoặc để xin việc này việc khác. Ít khi ông ngủ suốt đ êm quá năm giờ. Người ta tự hỏi sống đời hoạt động cuồng nhiệt như vậy mà sao ông không chết vì đau tim hoặc vi trùng phong. 

Ông đã cất một ngôi nhà nghỉ mát ở bờ hồ Tahoe, trong dãy núi Sierra Nevada, tại trên cao hai ngàn thước. Cách thức xây cất đặc biệt là của ông. Ông hấp tấp chở những xe ủi đất, những máy đ ào đất, những máy cổ hạc tới hồ Tahoe, ông bắt những kíp thợ làm việc ngày đ êm dưới ánh đ èn giọi, để phá rừng, vỡ đất, lắp vũng. Ông cất một ngôi nhà lớn bằng đá, bốn biệt thự cho khách khứa và một cái ụ để tàu, chỉ trong có hai mươi tám ngày, cất nóng nảy, hấp tấp như là sợ nền văn minh sắp lâm nguy vậy. Đó con người của ông như vậy. 

Trong suốt kỳ đại chiến vừa rồi, ông chỉ sản xuất cho chính phủ, nhiều người nghĩ rằng ông tiến lên được như vậy nhờ chiến tranh thì sau chiến tranh, do sự cạnh tranh của các xí nghiệp và sự đảo lộn của các điều kiện kinh tế, ông khó giữ được địa vị, nhưng ông vẫn hy vọng giữ được. Ông đã lập một phòng tìm tòi nghiên cứu gồm nhiều kỹ sư, bác học, sáng chế gia, kỹ thuật gia, chuyên môn gia, nhà nào cũng có óc làm lớn, trông rộng, và cũng có đủ tài tưởng tượng để chế tạo những hóa phẩm mới, xây dựng những kỹ nghệ mới, cho công nhân sau chiến tranh còn được dùng tới một mức cao. 

Ông nghĩ rằng nếu dùng những vật liệu nhẹ hơn thì có thể đóng được những tàu chạy nhanh hơn, phí tổn chở chuyên nhẹ hơn và cả ngàn người chưa đi du lịch bao giờ sẽ có thể vượt biển được. 

Còn về ngành xe hơi thì ông nói:"Thấy một chiếc xe nặng một ngàn năm trăm kí lô mà chỉ chở một người nặng bảy mươi lăm kí lô, tôi ngao ngán lắm". Ông tính dùng một kim thuộc cực nhẹ và những chất dễ nặn để đóng những chiếc xe hơi chỉ nặng bằng một phần ba những xe hơi hiện thời, còn máy thì ông cho chạy bằng dầu xăng chạy máy bay. 

Ông cũng hy vọng chế tạo được nhiều phi cơ chắc chắn cho những bà già cũng dám leo lên và cực rẻ cho các ông già cũng dám bỏ tiền ra mua. 

Quả thật ông là người lạc quan. Ông nói: "Kỹ thuật tiến mãnh liệt, như một cái nồi sôi sùng sục. Không thể ngồi đè lên nắp của nó được, nó sẽ văng ta ra bốn phương trời, tan tành như pháo." 

24. Charles Dickens

Cách nay gần đúng trăm năm, và gần đúng vào ngày lễ Giáng Sinh, một cuốn sách nhỏ được xuất bản ở Luân Đôn, một tiểu thuyết sau này thành bất hủ. Nhiều người cho cuốn đó là "cuốn sách nhỏ có giá trị nhất thế giới". Khi cuốn đó phát hành, những người Anh quen nhau mà gặp nhau trên đường Strand hoặc Pall Mall đều hỏi nhau: "Ông đã đọc cuốn đó chưa?". Và ai cũng đáp:"Có, tôi đọc rồi, cầu Trời phù hộ cho ông ấy". 

Nội ngày đầu, sách đã bán được một ngàn cuốn. Trong nữa tháng, sách bán được mười lăm ngàn cuốn. Rồi từ đó sách tái bản không biết bao nhiêu lần, được dịch ra gần đủ các thứ tiếng. Ít năm sau, J.P. Morgan mua bản thảo bằng một giá không tưởng tượng được; và hiện nay bản thảo ấy nằm chung với những bảo vật vô giá khác, trong phòng triển lãm mỹ thuật của ông ở Nữu Ước mà ông gọi là thư viện của ông. 

Cuốn sách nổi danh khắp thế giới đó là cuốn gì? Là cuốn Christmas Carol (Bài hát lễ Giáng Sinh) của Charles Dickens. 

Charles Dickens thành nhà văn viết nhiều nhất và được độc giả thích nhất trong văn học sử Anh; vậy mà khi ông bắt đầu viết, ông sợ bị người ta chế nhạo tới nỗi phải lén lút đi bỏ bản thảo đầu tiên của mình vào thùng thư trong đ êm tối để không ai thấy sự cả gan của mình. 

Khi truyện ông viết được xuất bản, ông hai mươi hai tuổi, ông vui sướng quá đỗi, đi lanh thang không mục đích trong phố phường, lệ chảy ướt đầm mặt. 

Người ta không trả cho ông một xu nhỏ nào về truyện đó. Và tám truyện sau đem cho ông được bao nhiêu tiền, bạn thử đoán xem? Không có một đồng nào hết. Hoàn toàn không. Nhưng ông vẫn cố gắng viết, lấy sự sáng tác làm lẽ sống ở đời. Sau cùng khi người ta chịu trả tiền, thì ông cũng chỉ được lãnh một ngân phiếu là một Anh kim cho mỗi truyện. Vâng, ông chỉ được lãnh một Anh kim về truyện đầu; nhưng truyện cuối của ông đã đem lại cho người thừa kế ông ba Anh kim một chữ tức cái giá cao nhất từ hồi khai thiên lập địa đến nay, chưa tác giả nào được lãnh! Ba Anh kim mỗi chữ!(1) 

Phần đông nhà văn, chết rồi thì chỉ trong vòng năm năm là không ai biết tới, nhớ tới tên tuổi của mình nữa. 

Còn Dickens mất đã sáu mươi ba năm mà các nhà xuất bản vẫn trả cho người kế thừa ông trên bốn vạn Anh kim về truyện Đức Chúa Jesus, một cuốn sách nhỏ ông viết riêng cho các con ông đọc. 

Trong khoảng trăm năm nay, tiểu thuyết của Charles Dickens bán mạnh một cách kỳ dị. Chỉ thua tác phẩm của Shakespeare và Thánh Kinh. Cả trên sân khấu lẫn trên màn ảnh, những tiểu thuyết đó luôn luôn được hoan nghênh. 

Trong suốt đời ông, ông chỉ đi học không đầy bốn năm, vậy mà ông viết mười bảy tiểu thuyết có danh nhất bằng tiếng Anh. Song thân ông điều khiển một trường học, nhưng ông không hề tới trường đó, vì trường mở cho thiếu nữ, và treo một bảng đồng có hàng chữ: "Trường của bà Dickens" nhưng sự thực thì trong cả thành Luân Đôn chẳng có lấy được một thiếu nữ nào lại đó học. 

Mà số nợ thì mỗi ngày một cao, một tăng lên. Chủ nợ kiện, rủa, đập bàn. Rốt cuộc, bất bình quá, họ làm cho thân phụ Dickens phải vào khám. 

Tuổi thơ của Dickens thực là nghèo khổ và thương tâm, thương tâm cũng chưa đúng, phải nói là bi thảm. Mới mười một tuổi đầu thì cha bị nhốt khám, gia đình túng quẫn quá, không có gì ăn; cho nên mỗi buổi sáng, chàng phải lại tiệm cầm đồ cầm vài đồ lặt vặt còn lại trong nhà. Chàng phải bán cả những cuốn sách chàng nâng niu, bán mười cuốn mà chỉ có những cuốn đó là làm bạn với chàng thôi, ngoài ra không ai chơi với chàng hết. Sau này chàng nói:"Khi tôi bán những cuốn đó, tôi thấy muốn đứt ruột". 

Sau cùng bà thân của Dickens dắt theo bốn người con vào khám ở với chồng. Mỗi buổi sáng, khi mặt trời mọc chàng vào khám ở với gia đình suốt ngày. Đến tối chàng về căn phòng ảm đạm ở gác thượng, sát nóc nhà, ngủ với hai đứa nhỏ khác. Cảnh của chàng lúc đó như cảnh địa ngục. Sau chàng xin được việc dán nhãn lên những ve thuốc nhuộm đen trong một kho đầy những chuột. Tháng đầu lãnh được ít đồng, chàng mướn một phòng khác, một cái hang nhỏ tối tăm cũng ở gác thượng sát nóc với một đống màn gối dơ ở trong một góc; vậy mà Dickens bảo rằng cái hang đó đối với chàng"không khác gì cảnh thiên đ àng". 

Dickens tả nhiều cảnh linh động về đời sống hoàn toàn hạnh phúc trong gia đình. Nhưng hôn nhân của ông là một sự thất bại, một sự thất bại buồn rầu, bi thảm. 

Ông sống hai mươi ba năm với một người vợ mà ông không thương. Bà vợ sanh được mười người con. Cảnh nghèo khổ cứ mỗi năm một tăng. Khắp thế giới ngưỡng mộ ông mà trong nhà ông, toàn là cảnh đứt ruột. Sau cùng, đau khổ quá lắm, không chịu nỗi nữa, ông phải làm một việc mà hồi đó coi là động trời: Ông đăng ngay trên mặt báo của ông một tờ bố cáo nói rằng hai vợ chồng ông không sống với nhau nữa (...) 

Dickens là người được nhiều người yêu, ngưỡng mộ nhất thời ông. Lần thứ nhì ông qua thăm Mỹ, dân chúng sắp hàng, đứng run rẩy mấy giờ trong gió để đợi mua giấy vô nghe ông diễn thuyết. 

Ở Brooklyn, dân chúng đốt pháo mừng, và trải đệm trên đường ngồi suốt đ êm, không sợ bị cảm phong, cảm hàn, không sợ bị sưng phổi, để đợi mua vé. Và khi vé bán hết, hàng trăm người phải về không, bất bình lắm, làm náo động cả lên. 

Văn học sử đầy những danh nhân tính tình trái ngược nhau, nhưng xét kỹ thì Charles Dickens có lẽ là người lạ lùng nhất trong giới nhà văn.