Tôi là Coriander - Phần 1 - 04: Đôi cánh quạ

Tôi vẫn còn ngây ngất với thắng lợi về đôi hài bạc. Mẹ không nhắc đến chúng nữa và tôi biết mình đã được tha lỗi. Đôi hài đã là của tôi và đó mới là điều đáng kể. Tôi quyết định ngày mai sẽ mang chúng đi khi cùng chị Danes ra phố làm mấy việc lặt vặt như thường lệ.

- Chúng sẽ bị dính bùn và các thứ rác rưởi đấy. - Chị Danes nói, vén mái tóc tôi gọn vào trong mũ và vuốt phẳng lại chiếc váy của tôi. Tôi không muốn nói ra, nhưng tôi biết là chị đúng. Đôi hài của tôi không hợp với những con phố nhớp nhúa ở London. 
- Không, chúng sẽ không bị bẩn đâu. Đây là đôi hài có phép mà. - Tôi bảo chị. 
- Có phép à? - Chị Danes hỏi, lấy chiếc giỏ đan bằng cành liễu từ trên giá bếp xuống. Chúng tôi sẽ đem thuốc đến cho vợ của một người buôn vải sống ở trên cầu, gần đây bà ta bị khó ở. 
Mẹ bước vào phòng với một nắm thảo mộc. 
- Con không định đi đôi hài đấy chứ, con yêu? - Bà hỏi 
- Có chứ. - Tôi bướng bỉnh đáp. - Con sẽ đi chúng. 
- Chúng sẽ bị hỏng đấy. 
- Chúng sẽ không bao giờ bị hỏng cả. - Tôi cả quyết. - Sáng nay con đã phù phép cho chúng. 
- Thế con có nghĩ rằng, - mẹ mỉm cười cúi xuống và nói, - sẽ tốt hơn nếu con phù phép cho chúng luôn đưa con về nhà an toàn? 
Cả hai chúng tôi cùng nhìn xuống và ngắm đôi hài một cách trang nghiêm hồi lâu. 
- Đẹp thật! Cuối cùng mẹ tôi nói. - Trước kia mẹ đã... - Bà bắt đầu, nhưng rồi lại thôi không nói nữa mà quay sang hôn tôi. - Thôi, con đi đi.

Tôi vẫn còn nhớ hôm đó là một sáng mùa xuân dễ chịu, hứa hẹn những nóng ấm áp sắp đến. Con phố hẹp trước cửa nhà tôi đầy ắp những người hối hả chen lấn nhau đi về phía cầu. Tôi nắm chặt tay chị Danes. Tôi còn rất thấp nên chỉ thấy toàn váy dài và những ống chân tiến lại rồi chen qua tôi. Những người bán hàng rong, thợ học việc và người đưa nước đang la hét. Rồi giữa đám người và âm thanh hỗn độn bỗng xuất hiện một bầy ngỗng kêu quàng quạc, nghe như tiếng cả trăm bà hàng cá đang mặc cả vậy. Tôi kéo tạp dề chị Danes, nài chị bế tôi lên. Tôi sợ bầy ngỗng. 
- Ôi Coriander, em quá lớn để phải bế rồi. - Chị cằn nhằn, nhưng vẫn bồng tôi lên bên hông, và tôi có thể thấy được chúng tôi đang đi đâu. 
Mỗi lần được bế, tôi thích giơ tay lên xem mình đã đủ cao để chạm vào những tấm biển treo bên ngoài các ngôi nhà và cửa hàng chưa. Trên biển vẽ những hình khác nhau và nhìn vào đó, bạn có thể biết ai sống trong nhà hay cửa hàng bán thứ gì. Tấm biển treo trước cửa nhà tôi có hình một cây dâu tằm. Các tấm biển này phải treo đủ cao để người cưỡi ngựa đi qua bên dưới không bị vướng vào. Tuy nhiên, trên con phố hẹp của chúng tôi, nhiều tấm biển treo thấp đến nỗi tôi e người kỵ sĩ có thể rơi mất mũ, nếu không phải là mất đầu.

Rốt cuộc thì chúng tôi cũng đến cầu. 
- Từ đây thì em có thể tự đi bộ được rồi, con chim sẻ nhỏ. - Chị Danes nói, đặt tôi xuống và vươn thẳng người lên. 
Đây là cây cầu duy nhất bắc qua sông Thames. Không còn cách nào khác để qua sông ngoại trừ đi bằng thuyền. Cây cầu cực kỳ tráng lệ. Tôi vừa thích vừa sợ nó. Tôi sợ những cái đầu ký quái cắm trên cọc ở Cổng Của Những Kẻ Phản Trắc, nom như những chiếc máng xối [3] quái dị nhìn xuống người đi đường, cảnh bảo cho họ biết cái gì sẽ xảy đến với những tên du đãng và bọn bảo hoàng ở thành phố ngoạn đạo này. Tôi thích những cửa hàng đông đúc, những người bán hàng rong trên phố, những khu vườn treo, những vỉa hè. Cha tôi nói không cây cầu nào trên thế giới sánh được với cây cầu này. 
Khi chúng tôi đến nơi thì tất cả các cửa hàng đã mở cửa. Xe ngựa và xe bò chạy ầm ầm trên đường cái làm người đi đường và gà qué chạy tán loạn. Phố xá đinh tai nhức óc với tiếng chuông nhà thờ, tiếng hò hét của các chú học việc, tiếng bánh xe nước quay. Người ta chạy lăng xăng chỗ này chỗ nọ mà không thèm nhìn xem mình đang đi đâu. Chen vào giữa đám người ồn ã là những con vật to lớn từ nông thôn đang trên đường tới chợ gia súc.

Tôi luôn chắc chắn là nếu buông tay chị Danes thì sẽ bị lạc, bị cuốn phăng vào biển người kia. Thường thì ý nghĩ này khiến tôi bám chặt vào chị như đỉa. Nhưng hôm nay thì khác. Hôm nay tôi đang đi đôi hài bạc mới. Sự thực là mặc dù đã phù phép cho chúng, tôi vẫn sợ đôi hài bị lấm bùn hơn là sợ bị lạc. 
Phía trước chúng tôi, một người bán nến và một người đàn bà cúi mình xuống từ tầng ba tòa nhà gần đó đang cãi nhau ầm ĩ. Người bán nến rong ướt sũng và bốc lên thứ mùi không lấy gì làm dễ chịu. Ông ta đang kết tội người đàn bà nọ đã đổ một cái bô lên đầu ông. 
- Sao bà lại làm thế? - Người bán nến rong hét lên. - Con sông ở ngay sau nhà bà. Cây cầu này là đường đi chung của những người tử tế biết kính Chúa, không phải là chỗ phóng uế công cộng! 
Người đàn bà giơ nắm đấm về phía ông ta và đóng sập cửa sổ lại. Tôi hy vọng không còn ai khác có ý định đổ bô nữa, và nắm chặt tay chị Danes hơn.

- Bước cẩn thận đấy. - Chị nhắc. 
Tôi nhìn xuống và thấy đôi hài tỏa sáng mờ mờ như một làn hơi nóng trong một ngày của mùa hạ. Tôi buông tay chị Danes ra để kéo váy lên nhìn cho rõ hơn. 
- Chị Danes! - Tôi nói. - Đôi hài của em! 
Không có tiếng trả lời. Một màn sương mù kỳ quái vừa buông xuống. Chị Danes cũng như tất cả những người khác trên cầu đều đã biến mất. Tất cả đều im lìm. 
Tôi sợ đến nỗi không khóc nổi. Tôi cứ đứng yên như phỗng, nhắm nghiền mắt, hy vọng khi mở mắt ra thì mọi thứ sẽ trở lại như cũ. Tôi đợi một lúc, rồi đánh liều hé mắt ra nhìn. Màn sương đã tan và tôi thấy mình đứng đó, hoàn toàn đơn độc bên ngoài một cửa hàng rào treo tấm biển vẽ hình một cái gương. Tôi nghĩ có lẽ nên đi vào và hỏi xem có ai giúp được mình không. Điều kỳ lạ là vừa nghĩ vậy tôi đã thấy mình ở trong cửa hàng rồi. Bên trong rất lạnh và u ám, phải mất một lúc mắt tôi mới quen được với bóng tối. Khi ấy tôi sợ hãi nhận thấy một con quạ lớn, đen như bóng đêm đang đậu trên quầy hàng. 
Bản năng thôi thúc tôi phải chạy khỏi cửa hàng quái đản này, nhưng đôi hài như gắn chặt mặt đất. Con quạ nhìn tôi, đôi mắt màu ngọc trai đen của nó lóe lên trong bóng đêm.

- Đừng sợ. - Quạ nói. - Bà ấy đang đợi mi ở trên gác. 
Tôi giật thót mình. Không biết nên làm gì, tôi quay ra nhìn về phía cửa. Con quạ, như thể đọc được ý nghĩ ấy, liền bay ngay tới đó, chặn đường thoát của tôi. Tôi có thể cảm thấy sức mạnh từ đôi cánh sải rộng của nó như một làn sóng đen lông lá đâm bổ xuống tôi. Tim tôi gần vỡ ra vì sợ. Tôi chạy bán sống bán chết lên cầu thang, sợ con quạ sẽ đuổi theo. 
- Xin cho đó là chị Danes đang đợi con! - Tôi cầu nguyện. - Xin người! 
Vừa bước vào phòng là tôi biết ngay mình đã bị lạc, bị lạc hoàn toàn, bởi chẳng có chị Danes ở đó, chỉ có một mụ già đang ngắm mình qua tấm gương mạ vàng. Tường của căn phòng được ốp gỗ; trong lò sưởi có lửa, nhưng ngọn lửa lại đứng im lìm như thể chúng được vẽ lên đó vậy. Cánh cửa sổ bọc chì hơi hé mở sau lưng mụ già. Nhiều mảng ánh sáng đổi xuống nền nhà và tường, và tôi có thể thấy dòng sông ở bên ngoài. Ở đó cũng không có gì chuyển động: dòng sông, những con thuyền, con người, kể cả những con hải âu đang bay ở lưng chừng trời. Tất cả đều im lặng, không một tiếng gió thổi bay hay một hơi thở, như thể thời gian đã bị giữ lại bởi một bàn tay vô hình.

Tất cả những gì tôi nghe thấy chỉ còn là tiếng tim của chính mình đang đập thình thịch. 
- Lại đây, bé con của ta. - Mụ già cất giọng âm âm như từ cõi chết vọng lại. - Đừng run bắn thế. Lại đây để ta ngắm mi nào. 
Tôi muốn chạy ngay ra khỏi phòng, nhưng đôi hài không chịu nhúc nhích. Mụ già bằng cách nào đó ngay lập tức đã tiến sát tôi hơn trước rất nhiều. Mụ có đôi mắt ti hí, cái mũi khoằm và một cái nốt ruồi trên cằm. Gương mặt mụ tựa như một tấm mặt nạ. 
- Biết ta là ai không? - Mụ hỏi. Trong khoảnh khắc, tấm mặt nạ trở nên trong suốt và một khuôn mặt khác với vẻ đẹp tàn ác lộ ra. Khuôn mặt nào khiến tôi sợ hơn, tôi cũng không biết nữa. 
- Không ạ. - Tôi đáp. Tôi cố gắng lùi xa mụ, nhưng vẫn là đôi hài không chịu nhúc nhích. Khi ấy tôi mới nhận ra con quạ đã vào phòng từ lúc nào và giờ đang đậu trên lưng ghế của mụ già. 
- Mi bao nhiêu tuổi? - Mụ hỏi. 
- Sáu ạ. - Tôi đáp. 
- Còn nhỏ quá, nhỏ quá. - Mụ thì thầm. 
Tôi nhìn đăm đăm xuống chân. Những thứ kỳ quái đang xảy ra khiến tôi nhớ tới chị Danes, và nước mắt bắt đầu lăn dài trên má. Mụ già không hề tỏ vẻ xúc động hay lo lắng khi thấy tôi sợ hãi như vậy.

- Đôi hài này quả thực rất hợp với mi. - Mụ nói. - Ta mừng là mi thích chúng. Mi có thích chúng không? 
Tôi lặng thinh. Tất cả lời lẽ đã đông cứng lại trên lưỡi tôi. 
- Cronus! - Mụ già gọi. - Cưng có nghĩ là con bé thích đôi hài không? 
- Tất nhiên là có rồi. - Con quạ trả lời. - Chính nó đã chọn mang chúng mà. 
Lúc này tôi nức nở to đến nỗi ngực thắt lại, vai rung lên. Tôi sợ cứ run rẩy thế này mình sẽ vỡ tan ra mất. Người tôi nóng bừng bừng và như lên cơn mê sảng. Cuối cùng tôi cũng cất tiếng lên được và hổn hển qua làn nước mắt. 
- Cháu muốn về nhà, làm ơn! Ngay bây giờ! 
Mụ già mỉm cười và giơ tấm gương mạ vàng lên cho tôi thấy. Mặt gương được làm bằng một chất bạc lỏng đang xoáy tròn và xoáy tròn mãi. Nhìn vào đó giống như nhìn vào một cái giếng sâu hút: tôi có thể ngã vào đó và biến mất mãi mãi. Trong đầu tôi như có một trận bão sấm sét ầm vang. 
Mụ già ngắm nghía tôi kỹ càng. 
- Mi nhìn thấy gì? 
- Không thấy gì cả ạ. - Tôi đáp một cách khổ sở. - Cháu muốn về nhà. 
Mụ đặt úp mặt cái gương xuống. 
- Nhà mi ở đâu? 
Tôi bảo cho mụ biết. 
- Mẹ mi có khỏe không?

Suốt từ lúc mụ già bắt đầu nói đến giờ, tôi luôn nghe thấy giọng êm ái của mẹ nhắc đi nhắc lại: "Cởi đôi hài ra, cởi đôi hài ra." Tôi liền ngồi xuống sàn và bằng tất cả sức lực của mình rút đôi hài ra. 
Cảm giác ấy giống như tôi bị lạc trong một khu rừng, bị săn đuổi như một con thú hoang. Căn phòng bắt đầu xoay tít. Một âm thanh chói tai tràn vào óc tôi. Sau đó tất cả biến thành màu bạc rồi tối đen đi. 
- Cháu có sao không? - Có tiếng người hỏi cạnh tôi. Tôi ngước lên và thấy gương mặt thân thiện của ông thợ may Thankless. 
Một đám người đang vây quanh chúng tôi trên cầu. 
- May mà ông nhìn thấy con bé. - Một người qua đường nói. 
- Có phải nó là con của một người đàn bà biết làm phép không? - Một người khác hỏi. 
- Cháu thấy không khỏe. - Tôi thì thào. 
- Trông cháu đúng là không được tươi cho lắm. - Ông Thankless nói. Rồi ông nhẹ nhàng bế tôi lên và đưa tôi về nhà. Tôi muốn nói cho ông biết là mình đã bị lạc mất chị Danes, nhưng đầu tôi đang đập thình thịch và mắt tôi nảy đom đóm, tôi sợ nếu mở miệng ra thì sẽ nôn mất. 
Điều cuối cùng tôi nhớ ông ấy nói với tôi là: 
- Đôi hài của cháu đâu rồi. 

[3] Hình đầu người hoặc đầu thú trang trí theo phong cách kiến trúc gôtic