Tôi là Coriander - Phần 1 - 05: Cơn sốt

Tôi nghĩ tôi đã nhìn thấy đôi cánh xòe rộng của con quạ đập vào khung kính cửa sổ buồng tôi, dám chắc đã nghe thấy tiếng kêu hung tợn của nó vang vọng trong đêm. Tôi nghĩ tôi đã nhìn thấy mụ già đang theo dõi tôi từ một ngọn tháp bên kia sông. Tôi biết rằng tôi thấy Thần Chết đang đứng cạnh cửa ra vào với lưỡi hái khủng khiếp, lão chờ đợi ai đó. Liệu có phải là tôi? 
Cơn sốt kéo dài bao lâu tôi không rõ, vì tất cả mọi thứ trở nên hỗn độn, bóng tối và ánh sáng hòa lẫn với nhau. 
Mẹ luôn ở bên tôi, tôi chắc chắn như vật. Cả chị Danes nữa. Chị cứ nhắc đi nhắc lại: 
- Đừng bay đi, chim sẻ nhỏ của chị! 
Hơi nóng ngoài tời. Hơi nóng trong phòng. Hơi nóng của cơ thể tôi. Có quá nhiều hơi nóng tới mức tôi thấy ngạt thở. Tôi được đỡ ngồi dậy trên giường, được cho uống một giọt thuốc đắng ngắt. Làn da nóng bỏng rát và ngứa ngáy của tôi được thoa cho dịu bớt. Tôi được chuyển sang phòng cha mẹ, nằm trên giường của ông bà. Cửa sổ phòng luôn mở toang hy vọng hứng chút khí mát ngoài trời. Nhưng không khí vẫn nặng nề và ngột ngạt. Tôi có thể nghe thấy tiếng những người lái đò hỏi: "Hướng tây kìa! Hướng đông kìa!", tiếng chuông của nhà thờ Thánh Magnus, nhà thờ Thánh George và nhà thờ Chúa Cứu Thế, tiếng rít của những con mòng biển. Tiếng rao hàng của những người bán rong biến thành âm thanh nền trong những cơn ác mộng giữa cơn sốt của tôi. Căn phòng dần tan ra và một lần nữa tôi lại thấy mình lạc trong rừng. Tôi nghe thấy tiếng tù và của những người đi săn, tôi nhìn thấy bóng đàn chó săn đang đuổi theo tôi. Tôi có thể thấy hơi nóng hổi của chúng phả vào cổ mình, và tôi bật dậy cùng tiếng thét, cảm thấy tất cả sức lực đang rời bỏ tôi như một dòng thủy triều uể oải.

Vào những thời khắc u ám nhất, khi mà mắt tôi mờ đi đến độ không còn nhìn rõ khuôn mặt mẹ nữa, lần đầu tiên tôi nhìn thấy một nàng tiên. Nàng tiên tỏa sáng lấp lánh và nhảy múa trên những tia sáng mặt trời lọt được qua rèm cửa dày. Tôi không biết chắc đó có phải là một nàng tiên thực hay không, hay chỉ là ảo giác trong giấc mơ. Thế nhưng mỗi lần tỉnh dậy, tôi lại thấy nàng tiên lơ lửng bên trên đầu tôi. Nàng tiên trở thành bùa may mắn của tôi. Tôi cảm thấy chừng nào nàng còn ở đó thì tôi sẽ không sao. 
Khi tôi đã đỡ hơn, các cánh cửa chớp được đóng lại và những tấm rèm được kéo ra, tôi mới nhận ra rằng cái mà tôi vẫn nghĩ là nàng tiên hòa ra là một con búp bê tuyệt đẹp mà chị Danes khâu cho tôi trong khi tôi phải nằm liệt giường. Nó được làm bằng vải, với những ngón tay ngón chân bé xíu được khâu rất khéo. Nó có mái tóc đỏ như Nữ hoàng Alizabeth và cái cổ áo đăngten trông như một đôi cánh. Tôi đặt tên cho nó là Beth và không hề thất vọng chút nào về việc nó không phải là nàng tiên thật. Tôi không kể cho ai khác ngoài Beth về con quạ và mụ già có chiếc gương. Tôi nghĩ sẽ chẳng ai tin tôi.

Ông Thankless đến thăm, mang cho tôi quả anh đào chín và mấy hòn bi rất đẹp. Tôi vẫn còn yếu quá chưa đứng lên được, hai chân tôi khẳng khiu như que củi, và ban ngày tôi phải nằm trên một cái giường đặt trong vườn, dưới bóng cây táo dại. 
- Cháu thế nào rồi, tiểu thư? - Ông Thankless vui vẻ hỏi. - Cháu làm chúng tôi sợ quá đi mất. 
- Bây giờ cháu đỡ hơn nhiều rồi ạ. - Tôi nói và giơ Beth ra cho ông xem. 
- Đẹp quá! Cháu tự làm à? 
- Không! - Tôi cười. - Chị Danes làm đấy. 
- Ồ, chị Danes ư? - Ông Thankless nói. - Thế thì phải vời chị đến dạy cho cậu học việc của tôi vài đường mới được. 
- Có gì đâu. - Chị Danes đỏ mặt.

- Chúng tôi phải cảm ơn ông rất nhiều đầy, thưa ông. - Mẹ tôi nói. 
- Buồn cười thật. - Tôi cười khúc khích. - Cảm ơn ông Thankless [4] rất nhiều! 
- Tên tôi đã bị lôi ra làm trò cười còn nhiều hơn cả số lần tôi nói nó ra nữa kia. - Ông thợ may đôn hậu nói. 
- Ôi! - Tôi nói vẻ biết lỗi. - Cháu không cố ý... 
- Tất nhiên là không rồi. - Ông mỉm cười nói. - Chúa phù hộ cháu, thật mừng khi thấy cháy đã khỏe lên nhiều thế này. 
Lát sau, mẹ tôi xin cáo lỗi và đi vào nhà, để lại ông Thankless và chị Danes bàn bạc về những bộ quần áo mới cần may. 
- Tôi sẽ rất vui lòng may cho cô tiểu thư một chiếc váy mới. - Ông thợ may nói, mỉm cười với tôi. Tôi tiếp tục chơi với Beth. Trong khi đó, nghĩ là tôi không nghe thấy gì, ông nghiêng người về phía trước và thì thầm với chị Danes: 
- Thứ lỗi cho câu hỏi của tôi, nhưng thật tình tôi không hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra trên cầu nữa. 
- Tôi cũng thế, ông Thankless ạ. - Chị Danes đáp. - Cây cầu đúng là một nơi nguy hiểm. Đấy, chỉ vừa mới tuần trước thôi, mười hai con cừu chạy lồng lên và lao xuống sông, kéo theo các cậu học việc của ông thợ in. 
- Phải, phải. - Ông thợ may nói. - Nhưng sao cô bé lại bị lạc mất chị chứ? Và sao nói lại bị mất đôi hài? Một phút trước tôi còn thấy hai người đứng trước cửa hàng kim chỉ, phút sau cô bé đã biến mất. Khi tôi tìm thấy nó, cô bé trông như vừa nhìn thấy ma hiện hình vậy. Và tình trạng của nó lúc ấy chứ! Mọi chuyện không thể xảy ra nhanh thế được.

- Tôi nghĩ là ông đang làm to chuyện lên đấy thôi. - Chị Danes nói. - Tôi thấy con bé bị lạc cũng khá lâu đấy chứ. 
- Không đâu chị ạ, đấy mới là chuyện lạ lùng. Không lâu đến thế đâu. Tôi có thể đảm bảo với chị. Cậu học việc của tôi, Gabriel Appleby, đã nhìn thấy tất cả và cũng sẽ nói y như tôi cho mà xem. - Ông thợ may nói, vẻ mặt ông thực sự hoang mang. 
- Điều đáng kể nhất là ông đã tìm thấy con bé. - Chị Danes nói. - Và tất cả chúng tôi đều rất biết ơn ông. Còn lại thì không có gì quan trọng nữa. 
- Xin thứ lỗi cho tôi vì đã nói thế này, - ông Thankless tiếp, - nhưng người ta bàn tán nhiều lắm, và không phải ai cũng nói điều hay đâu. 
- Tôi cũng nghe thấy cả. - Chị Danes trả lời. - Hình như người ta không còn cách tiêu thời giờ nào tốt hơn là ngôi lê đôi mách hay sao ấy! 
Đôi tai thính của tôi nghe được từng lời họ nói, và mỗi lời đều làm tôi lo sợ. Tôi rất muốn hỏi chuyện gì đã xảy ra với đôi hài nhưng lại không dám vì tôi thầm linh cảm rằng theo một cách nào đó, chính tôi có lỗi trong những gì đã xảy ra với mình: nếu tôi biết nghe lời mẹ từ đầu, tôi đã không bao giờ bị lạc, không bị ốm và cũng không gặp những cơn ác mộng.

- Đúng vậy. - Ông thợ may nói tiếp, rồi tiếp tục trong tiếng thì thầm. - Nhưng họ bảo rằng... 
- Thôi, ông Thankless. - Chị Danes ngắt lời. - Chỉ có Chúa mới biết được mọi câu trả lời thôi. 
Tôi không chắc liệu mình có nghe đúng lời ông Thankless không. Chỉ khi chị Danes đừng bật dậy thì tôi mới nhận ra ông đã nói gì. 
- Chúng tôi rồi cũng phải quen với nó thôi. - Chị Danes thở dài. - Nhưng nó vẫn làm tôi khó chịu lắm. 
Cái từ ông Thankless đã dùng là ma thuật. Tôi không biết nó có nghĩa là gì, nhưng khi nhắc lại, tôi có cảm giác nó mang đến điềm gở. 

Mùa hè đó bắt đầu niềm yêu thích dành cho viết lách và khâu vá của tôi. Dưới bóng cây táo dại, hết sức dịu dàng và kiên nhẫn, mẹ dạy tôi học chữ. 
Điều khiển cây bút lông ngỗng là cả một nghệ thuật, và tôi đã tốn vô số giấy cũng như đánh đổ vô số mực trước khi biết viết cho đúng. Tôi rất ghét khi cây bút làm bắn mực khắp nơi, mà nó lại rất hay như thế, phá hỏng bao công sức tôi vừa bỏ ra. Nhưng khi tôi đưa được ngòi bút chạy đều thì chữ viết nở trên giấy như hoa nở trên đồng trong một ngày nắng ấm vậy.

Tôi dùng nhiều mực cho việc học đến nỗi người bán mực phải đến gõ cửa khu vườn ít nhất một tuần một lần. Ông ta có một khuôn mặt xám ngoét nghiêm nghị như được đẽo bằng đá, lưng còng xuống tựa chữ C, như thế ông ta là Atlas [5] đang phải đỡ sức nặng của cả thế giới trong chiếc thùng gỗ chứa mực. mà có thể là đúng thế thật. Tôi đã học được rằng từ ngữ có một sức mạnh lớn lao, dù từ đó dài hay ngắn. 
- Tất cả là cho cô hả, tiểu thư? - Một lần người bán mực hỏi khi ông ta cẩn thận đổ mực qua một cái phễu vào chiếc lọ bằng đá. 
- Vâng, tất nhiên rồi. - Tôi tự hào đáp. 
- Ồ, thật phí phạm, đầu tư học hành như thế cho một đứa con gái. - Người bán mực nói. 
Cha tôi thì lại nghĩ việc dạy tôi biết đọc và viết là rất tốt. Ông còn nói rằng tôi rất nhanh trí và điều đó sẽ có ích cho tôi sau này. Cha dạy tôi về các nước trên thế giới bằng quả địa cầu của ông, và cho tôi xem những tấm bản đó có hình vua Thủy tề Nepture [6] ngồi trên một tảng đá ngắm nhìn vương quốc mênh mông toàn nhân ngư và thủy quái của mình.

Chị Danes thân yêu không biết đọc hay viết, và chị cũng không muốn học. Thay vào đó, chị lại có thể khâu những đầu ngón tay của các nàng tiên búp bê, mũi khâu nhỏ và tinh vi đến nỗi tưởng như chiếc kim của chị có thể thêu nên cả một câu chuyện. Tôi thường ngồi bên chị hàng giờ liền, cố khâu cho giống như vậy, nhưng không thành công cho lắm. 
Cuối cùng tôi cũng khỏe hẳn, cha mẹ tôi định gửi tôi về Highgate với chị Danes để hưởng không khí trong lành ở nông thôn. Tôi sẽ đến ở với chị gái của ông Stoop, người họ hàng đã chết từ lâu của cha tôi. Bà này đã lấy một người giàu có tên là Gearing. Thật tình Beth và tôi không mong đợi chuyến đi này lắm. Tôi chưa bao giờ rời nhà cả, và Highgate dường như cách đây rất xa. 
Buổi tối trước hôm tôi lên đường, bà Gearing xuất hiện. 
Bà ta ăn mặc tồi tàn hơn bất kỳ người đàn bà nào tôi đã từng thấy và tôi tự hỏi không biết bà có nghèo lắm không. Quần áo của mẹ và tôi được thêu thùa và đính đăngten, nhưng bà Gearing thì chỉ mặc một cái váy len đơn giả màu đen với áo vét, tạp dề trắng hồ bột và một cái cổ áo trơn cũng màu trắng. Mái tóc bà ta vén về phía sau và giấu trong một chiếc mũ có vành rủ xuống làm bà ta trông như một con thỏ đang hoảng hốt. Bà ta ôm theo một bó hoa thơm to tướng, vùi mặt vào đó, đứng dựa lưng vào cổng vườn và nhất quyết không chịu vào nhà.

- Chắc chị đến bằng xe ngựa? - Mẹ tôi hỏi. 
- Không. - Bà Gearing đáp. - Tôi đi bộ cùng với Chúa và sẽ quay về bằng cách đó với sự phù hộ của Người. 
- Tôi không để thế đâu. - Mẹ tôi nói. - Chân chị chắc bị đau rồi. Mời chị ở lại đây với chúng tôi đêm nay. Anh Thomas đã thu xếp xe ngựa để mai đưa Coriander và Danes đến Highgate. 
- Đi đi. - Chị Danes thì thầm với tôi. - Đến chào bà ấy đi. Chắc bà ấy ngượng vì không quen với cung cách thành thị. 
- Không, không! - "Con thỏ" hét lên khi tôi đến gần bà ta. - Không, tránh xa ra, xin các người! 
- Chị Gearing, - mẹ tôi thân mật nói, - chắc có sự hiểu nhầm. Tôi sẽ không dám nghĩ đến chuyện gửi Coriander đến chỗ chị nếu nó hãy còn ốm đâu. 
- Tôi nghe nói con bé mắc một dịch bệnh chết người. - Bà Gearing nói, hít mạnh vào bó hoa đến nỗi hắt hơi liên tục. Rồi bà ta tuôn ra một tràng, lời nọ vấp lời kia. - Tôi ước là có thể nói con bé đã được cứu thoát bởi ý Chúa, nhưng những lời đồn đại kỳ lạ về nhà chị đã đến tai chúng tôi, và ông chồng tôi đã bảo tôi đến để nói rằng ông ấy tin là phép tiên và ma thuật đã chữa khỏi bệnh cho nó. Chúng tôi là những người biết kính Chúa và không muốn dính dáng gì đến việc làm quỷ dữ!

- Kìa chị, thế là thế nào? - Mẹ tôi hỏi. 
Bà Gearing giơ tay ra chặn mẹ lại. Mẹ không nhịn nổi nữa và cười phá lên khi bà ta chạy khỏi cổng vườn và lao ra phố. 
Nhưng cha tôi không cho rằng chuyện đó buồn cười. 
- Thomas! - Mẹ tôi nói. - Bà ta quá ngốc nghếch. 
- Bà ấy không muốn con đến ở cùng vì nghĩ con được các bà tiên chữa khỏi. - Tôi xen vào. 
- Rõ vớ vẩn. - Mẹ nói. 
Gương mặt cha trở nên nghiêm nghị. 
- Đây không phải là chuyện đùa đâu. Eleanor thân yêu. 
- Thomas, đừng giữ vẻ nghiêm trọng như vậy. Anh không nghĩ bà chị đó là kẻ ngốc sao? 
- Anh nghĩ em nên cẩn thận hơn, Elenor. Xin em, hãy vì anh và vì Coriander. 
Giọng của cha khiến tôi thấy bất an. 
- Thế giới cũ đã bị phá bỏ và giờ đây chúng ta đang phải sống với trật tự mới của những kẻ ngốc. Hãy cẩn thận, em yêu. Họ mang theo mình một vị Chúa không biết dung thứ đâu.

 

[4] Thankless có nghĩa là vô ơn, bạc bẽo 

[5] Thần khổng lồ trong thần thoại Hy Lạp, phải vác cả bầu trời trên vai 

[6] Vị thần cai quản đại dương trong thần thoại Hy Lạp