Tôi là Coriander - Phần 2 - 07: Chiếc bóng tiên

Sáu quả chuông rung lên để báo cho xứ đạo biết một người phụ nữ đã qua đời, nối theo là một quả chuông khác rung đúng số tuổi của người đã khuất. Ba mươi ba tiếng chuông vang lên cho mẹ tôi. 
Cha tôi ra lệnh mở tất cả cửa sổ trong nhà để linh hồn mẹ có thể tìm được đường về nhà. Một ngọn gió thê lương thổi tới, khóc than trong những căn phòng, thổi tắt mọi ngọn nến và đem theo một màn sương mờ bao phủ căn nhà rất lâu sau khi các cánh cửa sổ đã được khép lại.

Chị Danes lau rửa và xức nước hoa cho mẹ tôi một cách dịu dàng như thể bà đang chỉ bị phù phép chìm vào giấc ngủ, mặc cho bà một chiếc áo dài trắng giản dị và che đi mái đầu bị cắt trọc tóc của bà. Mẹ trông thật đẹp và yên bình, làn da trắng như sáp, đôi bàn tay chắp lại cầm một cành hồng nở hoa vào mùa đông lấy từ khu vườn của bà. Những tấm nhiễu đen rủ xuống quanh giường và từ các cánh cửa sổ. Tất cả các bức tranh và gương đều được xoay ngược lại, mặt úp vào tường. Quần áo tang và áo choàng được đặt may ở chỗ ông Thankless và nhẫn tang được mua. Mẹ nằm trên chiếc giường lớn bằng gỗ sồi suốt ba ngày, cha tôi ngồi bên bà, nức nở khôn nguôi và nhắc đi nhắc lại rằng mẹ tôi phải được để nằm đó, rằng bà chỉ đang ngủ thôi, rằng và vẫn có thể thức dậy. 
Giống như thể cả thế giời của tôi đã sụp đổ, giống như thể ngôi nhà đã bị mất đi những bức tường. Tôi thức dậy vào buổi sáng, tôi lên giường vào buổi tối như một ai đó khác, một người không có suy nghĩ hay tình cảm gì hết.

Khi ngày tổ chức lễ tang đến, cha tôi gần như phát điên vì đau khổ. Người học việc của ông, Sam phải quần áo cho ông và giúp ông xuống thuyền như thể ông là một ông già chân đi không vững. Không có quan tài, cha tôi không chịu đặt mẹ tôi vào bất kỳ một chiếc quan tài nào hết. Ông muốn thi thể mẹ được đặt thẳng vào lòng đất, nuôi dưỡng đất đai. Bà hẳn cũng muốn như thế. 
Những lời thì thầm và đồn thổi càng được thể lan rộng như diều gặp gió bởi cái tin gây sốc rằng cha không chôn mẹ trong khu nghĩa địa của nhà thờ. Nó chứng thực những lo sợ tồi tệ nhất của đám hàng xóm, rằng mẹ là một người xa lạ, với dáng điệu thanh thoát diệu kỳ không thuộc về thế giới này. 
Trời đã chạng vàng tối khi chúng tôi khởi hành. Mặt nước im lìm. Bầu trời nhả màu xanh đen xám xịt và những bông tuyết rơi lất phất. Không có ai đi cùng chúng tôi. Không có linh mục, không người đi đưa đám, chỉ có tôi, cha, chị Danes, bốn người lái thuyền và hai người hầu. Thi thể mẹ được đặt trên thuyền, bọc trong tấm vải liệm màu trắng. Chúng tôi lặng lẽ đi về phía thượng nguồn. chỉ có tiếng sóng vỗ và nhịp mái chèo khua thay cho khúc cầu hồn. Chúng tôi qua Whitehall, ra khỏi thành phố và đi về phía nông thôn, quay lại vùng đồng cỏ mà mẹ hằng yêu thích.

Trong bóng chiều tà ảm đạm, đồng cỏ không còn chút gì giống với cái nơi chúng tôi đã đến thăm trước kia. Chính ở chỗ này, tôi đã cùng mẹ nhảy múa dưới những vòm lá, trên thảm cỏ đầy hoa dại. Còn kia, nơi mẹ tôi sẽ được chôn trong cái huyệt tựa như một vết thương sâu hoắm trên nền đất, chính là nơi chúng tôi đặt các giỏ thức ăn trong bóng mát, tránh ánh nắng mặt trời chính ngọ chói chang. 
Mỗi người chúng tôi cầm một cây đuốc, ánh sáng của chúng chống chọi lại màn đêm đang kéo đến. Màu trắng của tấm vải liệm quấn quanh người mẹ là thứ duy nhất còn thấy rõ được. 
- Chúng ta không là gì hơn ngoài những chiếc bóng được tận hưởng chút thời gian ngắn ngủi để nhảy múa dưới ánh sắng. - Cha tôi nói, nước mắt lăn dài trên mặt. - Trên đời này chưa từng có ai tuyệt vời như em. Hãy tự do bay đi, tình yêu của anh, rồi một ngày kia chúng ta sẽ lại bên nhau. Amen! 
Ông ném một cành hoa hồng xuống huyệt. 
- Chúng ta sống để chết, chúng ta chết để sống trong cõi vĩnh hằng. 
Khi cha nói những lời này, tôi nghe thấy một tiếng quạ kêu rất to, và tôi ngẩng lên thì thấy một con quạ đậu trên cây sồi cao trên đầu chúng tôi. Hình thù tối sẫm của nó nổi bật trên nền trời đêm, tiếng kêu của nó phá vỡ sự im lặng như tấm kính bị đập vỡ. Cha tôi nắm chặt tay tôi và kéo tôi lại gần ông hơn để tôi có thể giấu mình trong chiếc áo choàng tang của ông.

Đến lúc này thì tuyết đã bắt đầu xuống rất dày. Hai người đào huyệt lấp ngôi mộ cho đến khi mặt đất trở nên phẳng lì. Chúng tôi đứng đó trong giá buốt. Chỉ đến khi cả cánh đồng trở nên trắng xóa và ngôi mộ biến mất dưới lớp tuyết, chúng tôi mới quay về thuyền. Tôi run rẩy khi nghe tiếng kêu ám ảnh của con quạ chào tạm biệt chúng tôi. 
Con thuyền quay về, xuôi theo dòng sông cùng thủy triều đang rút xuống. Dòng nước đen. Con thuyền đen. Mẹ đã đem theo tất cả sắc cầu vồng. 

Dường như ngày hôm ấy, chúng tôi không chỉ chôn mẹ tôi mà chôn luôn cả một phần của cha tôi, bởi người đàn ông ngồi lì trong phòng, không chịu ăn uống gì kia không có chút gì giống người cha mạnh mẽ mà tôi biết. Khuôn mặt ông hốc hác, mái tóc dài bị chính tay ông cắt đi đâm ra thành từng túm. Ông không buồn cạo râu và dường như không còn nhận ra sự có mặt của bất kỳ ai.

Ngôi nhà thênh thang giờ cho tôi tha hồ chạy nhảy. Tôi có thể làm bất cứ thứ gì mình muốn. Nhưng điều duy nhất tôi mong mỏi là mẹ còn sống. Chị bếp Joan chẳng phải nấu nướng gì, ngồi lặng lẽ bên bàn bếp. Những người hầu thì không thấy đâu. Cả ngôi nhà như bị phù phép. Còn chị Danes cũng bàng hoàng vì cái chết của mẹ không kém gì cha tôi. 
Hai tháng lạnh lẽo và chết chóc trôi qua. Những tấm nhiễu đen vẫn rủ xuống trong các phòng. Tấm ga trải giường trên chiếc giường lớn bằng gỗ sồi của cha mẹ vẫn không được phép thay. Ngày nào cha tôi cũng đặt một bông hồng mùa đông lên gối mẹ. Ông không cho phép bất kỳ ai đụng vào váy áo hay đồ nữ trang của bà. 
Tôi bắt đầu nghĩ rằng tình trạng u uất này sẽ kéo dài mãi mãi thì một tối, ông Bedwell đến thăm cha tôi. 
Tôi đang ngồi cùng với cha trong phòng khách, cả hai cha con lặng thinh, nhìn đăm đăm vào lò sưởi. Tôi thầm tự kể trong đầu cho mình nghe một câu chuyện về một nàng công chúa và một con rồng. Còn cha tôi đang chìm đắm trong suy nghĩ giật mình trở về với thực tại khi người hầu vào báo có ông Bedwell đến chơi. 
- Nói tôi không có nhà. - Cha đáp. - Tôi không tiếp ai hết.

- Tôi phải nói chuyện với anh, Thomas. - Ông Bedwell nói, đẩy người hầu sang một bên. - Không thể cứ tiếp tục mãi thế này. 
- Chẳng có gì để nói cả. - Cha đáp và quay lại với cái lò sưởi. 
- Có rất nhiều đấy. Tôi muốn nói chuyện riêng với anh. - Ông Bedwell khăng khăng. 
Tôi đứng lên định đi ra nhưng cha tôi nắm tay tôi lại và buộc ngồi xuống cạnh ông. 
- Chuyện gì? - Ông hỏi. 
- Tôi đến vì một việc rất quan trọng. - Ông Bedwell noói, ngập ngừng nhìn tôi. 
- Anh cứ nói tự nhiên. - Cha đáp. 
Ông Bedwell bắt đầu đi đi lại lại trước lò sưởi và rồi cũng quay về phía ngọn lửa, nơi chứa đựng phần lớn những suy nghĩ của hai cha con tôi buổi tối đó. 
- Anh đang có nhiều kẻ thù địch, và nhiều lời đồn đại. 
- Lúc nào mà chẳng có lời đồn đại! - Cha tức giận đáp. - Tôi biết người ta nói Eleanor là một mụ đàn bà kỳ quặc, thậm chí là một mụ phù thủy. Như những thủy thủ sắp chết đuối, bọn họ bám lấy cái hy vọng về một cuộc sống bất diệt và một vị Chúa độ lượng. Và rồi nếu cái đó không làm họ sung sướng được, thì luôn có pháp sư, phù thủy và các bà tiên để đổ lỗi cho những bất hạnh của họ. Đổ lỗi cho tất cả mọi người và tất cả mọi thứ, trừ bản thân mình! Con người mới ngu ngốc làm sao! - Cha cất tiếng cười trống rỗng.

- Thomas, tôi xin anh. Anh không thấy là chúng ta đang sống trong một thời đại đầy rẫy hiểm nguy sao? - Ông Bedwell nói, hai tay dang rộng. - Tin đồn thì lan xa. Anh có thể bị cướp hết tất cả những thứ này ngay ngày mai, không còn gì cả. 
- Giờ người ta còn có thể cướp đi cái gì của tôi nữa? - Cha kêu lên, đầu gục xuống. - Chỉ còn địa ngục luôn kè kè bên tôi thôi. 
- Tôi biết, và tôi rất thông cảm với anh, nhưng tôi đang nói đến chuyện của cải vật chất kia. Một lời nói bay vào cái tai không thiện ý cũng có thể đem lại tai họa cho anh. Oliver Cromwell đang tịch thu tài sản của những người Bảo hoàng, mà anh thì chẳng bao giờ giấu giếm cái ý nghĩ là đáng lẽ không nên lấy đầu nhà vua. Giờ lại còn chuyện ở Worcester nữa! 
Tôi đã biết về sự kiện Worcester qua chị Danes. Chị kể rằng Oliver Cromwell đã đánh bại vị vua mới lên ngôi của Scotland, Charles đệ nhị, ở đó. Nhà vua đã chạy trốn sang Pháp với một giải thưởng treo trên đầu. 
- Thế anh nghĩ tôi nên làm gì? - Cha hỏi. 
- Hãy tái hôn. Lấy một phụ nữ Thanh giáo.

- Cái gì? Khi Eleanor còn chưa ấm chỗ trong mồ ư? - Cha nói. 
- Không ai có thể thay thế Eleanor được. Tôi biết điều đó. Nhưng anh có thể tìm một phụ nữ mà anh chung sống hòa thuận được và sự mộ đạo của cô ta sẽ dập tắt những lời đồn thổi. Nó giúp anh giữ được tài sản và nhà cửa. Tôi có chỗ quen biết ở Bristol có khả năng giúp anh. 
- Thật là điên rồ! - Cha tôi kêu lên, nhảy ra khỏi ghế và sải bước đến gần cửa sổ. - Tôi không phải là người Thanh giáo! Tôi không thể đồng tình với họ! - Ông thọc tay vào mái tóc một cách giận dữ và quay lại giáp mặt với ông Bedwell - Anh có thật sự tin rằng chúng sẽ cướp hết tất cả những thứ này không? 
- Chắc chắn rồi, anh bạn ạ. Anh biết chuyện gì xảy ra với Needham rồi đấy. Ông ta đã bị làm cho phá sản. Ông ta cũng là một người tự lập, không có người quen trong Nghị viện, không có họ hàng để xin giúp đỡ, không liên quan gì đến Thanh giáo. Chúng ta đang ở giữa một cơn bão khủng khiếp, và tôi sợ rằng nó sẽ càng ngày tồi tệ hơn. Xin anh hãy nghĩ lại, trước khi mất tất cả. 
Tối hôm đó, tôi đi ngủ với cảm giác bất an. Tôi thức giấc khi cửa sổ phòng ngủ bị bật tung và mưa táp vào phòng. Tôi phải vật lộn mãi mới đóng nó lại được, mà cánh cửa vẫn lạch cạch như một bộ xương đang rung những khúc xương của nó. Một tia chớp lóe lên, và tôi dám chắc rằng mình nhìn thấy rõ mồn một những con quỷ rồi cái sấu bò lổm ngổm trên tường. Tim đập thình thịch, tôi kéo chăn lên trùm kín đầu, chỉ ước có mẹ ở đây để mọi thức lại yên ổn như xưa.

Nhưng tôi không ngủ tiếp được nữa nên bước xuống giường và đi ra đầu cầu thang. Cửa phòng làm việc của cha tôi hé mở và một ánh sáng ấm áp hắt ra, soi sáng hành lang lạnh lẽo ảm đạm. Tôi nín thở, rón rén nhón chân xuống cầu thang, hy vọng cùng mỗi tiếng kêu cót két của bậc thang rằng cha sẽ đến và cứu tôi. 
Tôi đứng bên cửa phòng làm việc và ngó vào. Cha đang ngồi bên bàn. Trước mặt ông là một chiếc hộp gỗ mun có khảm những ngôi sao nhỏ lấp lánh dưới ánh nến. Trước kia, tôi chưa từng thấy cái hộp và thật sự tò mò không biét nó đựng gì bên trong. Tôi tiến lại gần hơn, đợi cha ngước mắt lên và hỏi xem tôi đang làm gì. Nhưng khi cha ngẩng đầu, ông nhìn xuyên qua tôi tựa hồ tôi chỉ là cái bóng vô hình. 
Tôi đến bên cha và nhìn vào trong hộp. Ở đáy hộp là một cái gì đó óng ánh bạc, mỏng mảnh như một tấm tơ. Tôi thận trọng đưa tay vào hộp và khẽ chạm vào nó.

Tôi giật nảy mình khi đột nhiên cha tôi lẩm bẩm: 
- Lẽ ra mình phải trả nó lại cho nàng. 
- Cha phải trả cái gì lại cho mẹ cơ? - Tôi thầm thì. Mắt cha tôi vẫn giữ vẻ mơ màng xa xăm. 
- Cái bóng của nàng. Nàng đã đưa nó cho mình vào cái đêm làm đám cưới và nói mình phải giữ nó thật cẩn thận. Nàng nói nếu mình trả nó lại, nàng sẽ không có sự lựa chọn nào khác là phải ra đi, và hai ta sẽ bị chia lìa vĩnh viễn. 
Tôi đứng đó và ngắm chiếc bóng lung linh nơi đáy hộp. Nó phát ra một ánh sáng mờ. Nó làm sống lại trong tôi ký ức xa xăm về một chiếc gương mà tôi đã từng nhìn vào. 
- Giờ mình không biết liệu mình đã làm đúng hay không. - Cha tôi nói tiếp. Rồi ông kêu lên: - Lạy Chúa, điều con đã làm có đúng không? 
Tôi hỏi thật khẽ: 
- Cha ơi, mẹ con có phải là một nàng tiên không? 
Cha ngẩng lên, có vẻ như giờ mới thấy tôi, ông hỏi: 
- Con đang làm gì ở đây vậy, Coriander? 
- Gió làm con tỉnh giấc, con sợ. - Tôi đáp. 
Ông nhìn xuống chiếc hộp và vội đóng nó lại. 
- Con đứng đây đã bao lâu rồi? - Ông hỏi. 
- Chưa lâu lắm. Đó có đúng là một chiếc bóng của tiên không cha?

- Trong đó không có gì cả. Cái hộp này rỗng không. - Cha tôi xẵng giọng đáp. 
- Nhưng con đã nhìn thấy... 
- Chẳng có gì hết! - Cha tôi ngắt lời. - Con không nhìn thấy gì hết, không nghe thấy gì hết! 
Rồi ông tiếp lời, giọng nhẹ nhàng hơn: 
- Chẳng có gì ngoài một câu chuyện thần tiên.