Tôi là Coriander - Phần 2 - 08: Điều sẽ đến
Tôi ước sao mình có thể gỡ hết những nút thời gian đang quấn rối tung vào với nhau. Nếu tôi làm được thế, mẹ tôi sẽ vẫn còn ở đây và mọi chuyện đều tốt đẹp. Nhưng mọi chuyện chẳng tốt đẹp chút nào, và tôi tự hỏi liệu có bao giờ chúng trở lại như xưa.
Vài tháng sau cái chết của mẹ, cha tôi trở về từ Bristol nói rằng ông đã gặp một bà quả phụ mộ đạo tên là Maud Leggs, và mọi việc đã được sắp xếp. Họ sẽ làm đám cưới vào thứ tư tới.
Tôi muốn kêu lên "Xin cha hãy đợi đã!", nhưng vẻ mặt cha nói với tôi rằng làm thế không khôn ngoan chút nào. Từ khi mất mẹ, cha đã trở thành một con người ủ rũ, tính khí thay đổi thất thường: một con tàu chao đảo trên biển cả mịt mù bão tố, bị những cơn bão vô hình cuốn phăng đi, bản đồ và ngôi sao dẫn đường biến mất. Chị Danes gọi cha là một người bị nguyền rủa.
Ngày làm lễ cưới đã đến. Cha trở nên khó chịu không kém gì tiết trời ẩm thấp, ông tìm ra sai sót ở những chi tiết vụn vặt nhất. Nào là nước không đủ nóng, áo sơmi làm ngứa da, giày thì quá chật, người hầu thì chậm chạp, cà phê quá nguội.
Mọi việc cứ thế tiếp diễn cho đến khi ông bà Bedwell tới để cùng cha đến nhà thờ. Tôi rất muốn đi cùng, nhưng cha cho là không cần thiết, vì buổi lễ sẽ rất đơn giản. Ông không chịu tổ chức linh đình, nói rằng như vậy không thích hợp. Điều này khiến mọi người bàn tán rất nhiều, nó chứng tỏ cha tôi có điều muốn giấu giếm. "Xong sớm chừng nào hay chừng ấy!" cha nói với tôi như vậy trước khi đi.
Cùng với Beth, con búp bê yêu quý của mình, tôi đứng nhìn qua cửa sổ, đợi họ quay về.
Trời mưa khá nặng hạt khi cánh cổng vườn cuối cùng cũng mở ra. Cha tôi bước vào cùng một người đàn bà to lớn không ra hình thù gì, bước đi lạch bạch như ngỗng, theo sau là một cô bé dài ngoẵng như quả đậu, trông có vẻ vụng về và ngượng nghịu. Cha mau chóng đưa họ vào trong nhà. Những người đến dự đám cưới đứng cả trong tiền sảnh để rũ nước mưa ra khỏi mũ áo. Những người hầu lăng xăng chạy tới, đón lấy những tấm áo choàng ướt sũng và ráng tiếp chuyện khách khứa trong khi họ bị bỏ đứng đó, nom như một đám hỗn tạp trong một bức vẽ.
Bà mẹ kế của tôi chẳng lấy gì làm xinh đẹp. Bà ta người mập lùn, dáng người bè bè với khuôn mặt giống một củ khoai tây vừa gọt vỏ. Mặt bà có những vết rỗ sâu, cái miệng mỏng dính, hai con mắt bé tí sáng quắc và một cái mũi hếch lên như mõm lợn, sinh ra để đánh hơi và khụt khịt. Người bà ta bốc ra mùi sữa đã bị chua. Còn giọng nói thì cho tôi biết bà ta không phải sinh trưởng ở thành phố.
- A, - cha tôi kêu lên, vẻ mặt căng thẳng của ông giãn ra vì cuối cùng cũng có cái để nói. - Đây là con gái tôi, Coriander. Coriander, đây là bà Maud Leggs, còn đây là con gái bà ấy, Hester.
- Không phải ông định nói là bà Hobie đấy chứ, thưa ông? Bây giờ tôi đã là vợ ông rồi cơ mà! - Maud nói, cười với cha tôi và phô ra những chiếc răng cải mả.
Nghe những lời của bà ta, cha tôi có sửng sốt như chợt tỉnh ngộ, như thể lời thần chú đã bị phá bỏ và đến bây giờ ông mới nhận ra sự thật của điều mình đã làm.
Mẹ kế nhìn xuống tôi và nói:
- Coriander à, đúng là một cái tên buồn cười.
- Coriander là một cái tên rất thân thiết với tôi. - Cha nói. - Mẹ con bé đã đặt cho nó cái tên ấy.
Maud nhăn mũi vẻ không tán thành và khụt khịt:
- Đó không phải là một cái tên Cơ đốc.
Cha tôi lờ mụ đi và nói tiếp:
- Đây là chị Mary Danes, quản gia.
Tôi có thể thấy rõ qua cái cách mụ nhìn chị Danes là chuyện này không làm mụ hài lòng chút nào. Tiếp đó là một khoảng lặng khó chịu.
- Đi nào. - Ông Bedwell nói, vội vã nắm lấy cánh tay Maud. - Chắc chị đói lắm rồi. Tôi nghe nói chị đã phải đi một quãng đường rất xa.
- Chúng tôi đí với phúc lành của Chúa và ơn huệ của Người. - Maud nói.
- Đúng vậy. - Ông Bedwell đáp và dẫn mụ vào phòng ăn.
Hester ở lại ngoài tiền sảnh.
- Em bao nhiêu tuổi? - Cô khẽ hỏi.
- Chín tuổi. Thế còn chị? - Tôi hỏi.
- Mười hai. - Hester trả lời.
- Hester! - Bà mẹ hét lên, to đến nỗi cả hai chúng tôi giật thót mình.
- Tôi đã làm gì thế này? - Cha lẩm bẩm khi Hester đã đi ra. Ông đứng nhìn lên cầu thang với vẻ khao khát như chờ đợi ai sẽ xuất hiện ở đó.
- Sẽ ổn cả thôi mà cha. - Tôi nói, cố kéo ông vào phòng ăn cùng với khách khứa.
Ông Bedwell lại bước ra tiền sảnh.
- Ông bạn hàng xóm thân mến, chúng tôi đang đợi anh đấy!
- Cái gì đã khiến anh nghĩ rằng bà ta là một người vợ thích hợp với tôi? - Cha tôi hỏi.
- Bà ấy được giới thiệu với tôi khi tôi ở Bristol, bởi một phu nhân rất đáng kính và hiểu rõ tình cảnh của anh. - Ông Bedwell đáp, vỗ lên lưng cha. - Phu nhân kia nghĩ rằng và Leggs đáp ứng được những gì anh cần. Anh phải cho cô ấy một cơ hội chứ! Tâm hồn mới là cái quan trọng, chứ không phải hình thức bên ngoài. Cromwell đã từng nói gì nhỉ? "Hãy vẽ cả mụn cóc cho ta cũng được."
- Tại sao tôi phải quan tâm xem người khác nói gì? Lẽ ra tôi không nên làm điều này. - Cha đáp.
- Biết đâu đây lại là điều tốt? Ít ra Coriander cũng có bạn chơi cùng, mà trông bà ấy không phải loại đàn bà hiếm muộn đâu. Rồi một ngày kia, Thomas ạ, anh có thể có một đứa con trai.
- Với mụ ta ư? - Cha tôi nói.
- Đi nào! - Ông Bedwell nói, cương quyết nắm lấy tay cha tôi kéo đi. - Ra với mọi người thôi!
Bữa tiệc cưới diễn ra trong im lặng, những câu chuyện phiếm lẻ tẻ đã cạn từ lâu. Maud nhìn quanh phòng và tuyên bố mụ không thích chúng. Chúng ở đây là những bức tranh treo trên tường. Theo ý mụ, thà tường không trang trí gì còn hơn là treo những bức vẽ có thể gợi ra những suy nghĩ không đứng đắn và không kính Chúa.
- Ồ, một bà chủ nhà mới, một cây chổi mới để quét sạch cả ngôi nhà. - Ông Bedwell tiếp lời, cố giữ cho cậu chuyện kéo dài. - Tôi dám chắc là sẽ có nhiều thay đổi. Như khi tôi cưới Patience yêu quý của tôi...
- Nhiều gương quá. - Maud ngắt lời. - Chúa không bao giờ dùng gương cả.
Tôi thắc mắc không hiểu làm sao mà bà ta biết được điều đó, và tôi đang định hỏi thì bà Patience, hy vọng có thể đổi đề tài, lên tiếng:
- Coriander đang học tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp.
Maud trông đầy vẻ bị xúc phạm, như thể cả một cái bô đầy đồ dơ vừa đổ ngay vào chân mụ.
- Tôi là một người đàn bà chất phác, Chúa cho tôi trí óc như thế nào thì tôi chấp nhận như thế. Một đứa con gái biết đọc thì có ích lợi gì cơ chứ?
- Tất nhiên là có chứ. - Ông Bedwell tốt bụng trả lời. - Đó là một việc rất tốt...
Maud lại ngắt lời ông ta:
- Tôi không biết đọc hay viết, và cũng không cho phép bất kỳ đứa con gái nào của tôi dính vào chữ nghĩa cả. Tôi tin rằng trí óc đàn bà con gái quá yếu kém cho những thứ như vậy, có chữ nghĩa vào chỉ tổ làm loạn thêm thôi. Không, tôi sẽ để việc đọc Kinh thánh và những việc kiểu đó cho cái đầu thông thái hơn của đàn ông.
Cha tôi giờ đang nốc rượu như nước lã.
Maud nheo mắt nhìn tôi:
- Sách vở và những cái tên buồn cười chẳng đem lại cho bọn con gái điều gì tốt đẹp hết, chỉ khiến chúng nảy sinh những ý nghĩ tội lỗi mà thôi.
Sau đó thì không ai còn gì để nói nữa.
Chúng tôi chờ đợi được giải thoát như các giáo dân tại một buổi nghe giảng kinh Chủ nhật dài lê thê. Rốt cuộc, ông Bedwell hắng giọng và nói ông rất tiếc phải rời một cuộc họp mặt vui vẻ thế này, nhưng bà Patience đang có mang nên cần được nghỉ ngơi. Cha tôi, lúc này bước chân đã hơi loạng choạng, khăng khăng đòi tiễn họ ra tận cửa và kéo tôi theo.
- Lẽ ra tôi không bao giờ nên làm việc này. Tôi thấy như mình vừa bị bịp vậy. - Cha nói với ông Bedwell khi chúng tôi ở ngoài vườn.
- Rồi sẽ ổn cả thôi. - Ông Bedwell an ủi.
- Chúng tôi chẳng có gì giống nhau cả. Chúng tôi sẽ nói gì với nhau đây? - Cha hỏi, bám chặt vào cánh tay ông Bedwell.
- Anh hãy cứ thử xem sao đã. - Ông Bedwell nói. - Tất cả chỉ để cho mọi việc tốt đẹp hơn mà thôi.
Cha nhìn theo ông bà Bedwell khi họ lên xe và đi về nhà. Một cách chậm chạp, ông đóng cổng vườn lại và cầm tay tôi. Rồi ông nói, gần như thì thầm:
- Cha xin lỗi.
Và trong một lát, chỉ một lát thôi, tôi lại nhìn thấy người cha trước kia của tôi, người cha tốt bụng và hiền từ thường xoay tôi trên tay như một chiếc cối xay gió, người cha thường mỉm cười và biết yêu thương. Một giọt nước mắt lăn dài xuống má ông. Ông khịt mũi, lau nó đi, và tay trong tay, chúng tôi từ từ quay trở lại phòng ăn, thấy Maud đang ngồi với con gái, chiếc đĩa của mụ chất đồ ăn cao ngất.
- Đồ đạc ở đây, ông chồng thân mến của tôi, - mụ nói, miệng đầy thức ăn, - quá diêm dúa. Như thế là không trong sạch. Chân bàn chạm khắc và vểnh ra ngoài như thế kia chỉ mời gọi Quỷ dữ đến mà thôi.
Cha tôi nhìn mụ chằm chằm, vẻ hoang mang.
- Ngôi nhà này phải được chuẩn bị để đón Chúa Jesus Christ quay về, bởi vì khi Người quay lại thành phố của chúng ta và lên ngôi vị chính đáng của Người, Người sẽ cần một bữa ăn tốt lành trong một ngôi nhà biết kính trọng Người. Ông có nghĩ như vậy không?
Cha tôi lặng thinh. Maud không hề bối rối trước sự im lặng của ông, nói tiếp:
- Người hẳn sẽ rất đói. Bữa Tối Cuối Cùng cách đây đã lâu lắm rồi.
Một âm thanh nghẹn ngào phát ra từ họng cha. Ông đi đến bàn, lại rót đầy cốc và uống cạn chỉ bằng một hớp.
- Vậy đó. - Maud khoanh tay trước bộ ngực đồ sộ và lắc lư người như một con gà mái trước khi đẻ trứng. - Sẽ có thay đổi trong cái nhà này.
Mới đầu, tôi nghĩ Maud khá ngốc nghếch và ngoại trừ con gái mụ ra thì không ai có thể sợ một người đàn bà tin vào những điều ngu ngốc đến thế, như nói rằng Chúa Jesus không bao giờ cười hay rằng con gái có đầu óc kém cỏi. Nhưng rồi tôi nhanh chóng nhận ra là mặc cho vô số câu ngớ ngẩn mụ tuôn hằng ngày, có một điều gì đó ám muội ở bà mẹ kế mới của tôi.
Trong mấy tuần đầu, mụ bận rộn như một con chồn béo mập, đánh hơi chỗ này, rình mò chỗ kia, đôi mắt tí hí nhòm ngó vào mọi ngóc ngách. Phòng ngủ của tôi bị mụ chê bai nhiều nhất bởi nó có những bức tranh không liên quan gì đến Kinh thánh với quá nhiều chỗ thếp vàng và quá nhiều chữ viết.
- Chị nghĩ là nó rất đẹp. - Hester thì thầm với tôi.
Maud với đôi tai thính không bao giờ bỏ sót một âm thanh nào quay phắt lại phía cô con gái.
- Chúa có bảo mày lên tiếng không?
- Không ạ. - Hester trả lời, người co rúm.
- Thế thì ngậm miệng lại. - Maud nói và tát mạnh lên má Hester. - Mày đúng là cái gai trong mắt tao.
Rồi mụ bỏ đi xem một món đồ bạc trong tủ buýp phê.
- Chị không sao chứ? - Tôi hỏi.
Hester gật đầu.
- Chị luôn làm điều gì đó sai, nói điều gì không phải hoặc đứng không đúng chỗ.
Maud quay lại.
- Câm đi! - Bà ta nói, kéo Hester ra cách xa tôi. - Nếu không thì nhân danh Chúa, tao sẽ xem xem có phải nện cho mày một trận nữa không.
Chỉ có hai phòng mà bà mẹ kế mới của tôi không được bước chân vào. Thứ nhất là phòng làm việc của cha tôi. Điều này khiến mụ hết sức bực tức. Căn phòng còn lại là phòng chưng cất. Maud không để ý tới nó cho đến khi thời tiết đã tốt hơn và mụ có thể xoi mói khu vườn của mẹ tôi.
- Tất cả các loại hoa kỳ dị không biết kính Chúa này sẽ bị nhổ đi hết. - Mụ gầm gừ, lạch bạch bước ra vườn vào một sáng cuối xuân. - Ta sẽ trồng thay vào đó các loại cây Cơ đốc, với những cái tên tiếng Anh giản dị.
- Tôi nghĩ bà nên hỏi ông chủ trước khi nhổ bất kỳ cái gì. - Chị Dames nói.
Maud không thèm để ý tới chị. Mụ bước đến phòng chưng cất và dí sát mặt vào kính cho đến khi hơi thở của mụ làm tấm kính cửa sổ mờ đi.
- Cái gì đây?
- Đó là phòng chưng cất của bà chủ đã mất. - Chị Danes đáp.
- Đúng như ta nghĩ, một nơi của quỷ dữ để chế ra bùa mê thuốc lú. Chìa khóa đâu?
- Chìa khóa ở chỗ ông Hobie. - Chị Danes đáp.
- Đừng có lừa ta. - Maud nói. - Mi có chìa khóa.
Chị Danes nhắc lại những gì chị vừa nói. Vậy là Maud bắt đầu lấy hết sức mình xô và đập vào cánh cửa.
- Có cần tôi đi gọi ông chủ không? - Chị Danes hỏi.
Maud thôi không đẩy cửa nữa, mụ đã hết cả hơi.
- Không cần phải làm phiền ông chồng tử tế của ta làm gì. Đây là chuyện tự ta thu xếp được.
- Tôi nghĩ rằng ông chủ sẽ có đôi điều cần nói về việc bà xô đổ cánh cửa phòng chưng cất đấy. - Chị Danes bình tĩnh nói.
Lúc này Maud đã giận dữ như một con ong bắp cày. Hester bước lui lại trong khi Maud dậm chân và đấm nắm tay béo múp của mụ lên cánh cửa lần nữa. Cuối cùng thì mụ đành bỏ cuộc và kéo Hester vào trong nhà.
- Sao, Hester, mày nghĩ thế nào? - Mụ thét hỏi.
Hester dán mắt vào sàn nhà như thể tất cả lời lẽ đã rơi đi đâu hết.
- Xin Chúa hãy ban cho con sức mạnh để chịu đựng đứa con ngu đần này. - Maud nói. - Mày không nghĩ là có chuyện gì kỳ lạ hay sao? - Mụ lại hét lên.
Hester vẫn khiếp sợ lặng thinh.
- Quả là quái lạ. - Maud nói, giơ nắm đấm lên. - Quái lạ là vợ lại không được phép vào phòng làm việc của chồng. Quái lạ là cái phòng chưng cất lại bị đóng kín, không cho tao vào. Tao nghĩ điều này còn hơn là quái lạ nữa.
Hester lùi lại.
- Tao bảo cho mà biết, chắc chắn Quỷ sứ đang đợi ở trong cái vườn ấy dưới lốt một con mãng xà! - Maud tiếp tục phun.
- Xin đừng nói như thế, mẹ, con xin mẹ! - Hester nói, run rẩy vì sợ hãi.
Maud buông Hester ra và quay sang chị Danes.
- Ta dám chắc đã có chuyện yêu thuật trong cái nhà này. - Mụ khịt khịt mũi.
Hester buột ra một tiếng thút thít.
Tôi đứng đó, bàng hoàng trước những lời nói của mụ. Trong vườn không có con mãng xà nào hết, chỉ có các loại thảo mộc và hoa có thể chữa lành bệnh mà thôi.
- Mày đang trố mắt nhìn cái gì vậy? - Maud quay sang tôi quát.
- Không có gì cả! - Tôi đáp.
- Mày có biết cái chìa khóa ở đâu không?
- Không!
- Lại đây, con lỏi con này...
Chị Danes đến đứng chắn trước tôi, vươn thẳng người lên để Maud không túm được tôi.
- Có lẽ bà nên đi nghỉ, bà chủ ạ. Bà đang khó ở đấy. Tôi sẽ bảo ông chủ gọi bác sĩ.
Mụ mẹ kế của tôi ngồi phịch xuống một chiếc ghế, chân dạng ra. Thân hình mụ bè ra như một bó vải chưa cuộn khổng lồ.
- Ta không cần mi xía vào. - Mụ gầm gừ. - Đi ra ngay, hai con phù thủy kia. Ta biết bọn mi định làm chuyện yêu ma gì rồi. Bọn mi định đem cơn đau răng của ta đến chứ gì!
Chúng tôi rời nhà trước khi mụ có cơ hội thay đổi ý kiến. Ra ngoài phố rồi mà hai chị em vẫn còn nghe thấy tiếng chửi mắng the thé của mụ.
Chị Danes sải bước dài và quả quyết đến nỗi tôi phải lật đật chạy theo mới kịp. Tôi hy vọng chúng tôi đang đến gặp cha và cho ông biết sự thật về Maud vì tôi dám chắc rằng nếu không có chị Danes thì cả tôi cũng phải chịu đựng cơn thịnh nộ của mụ.
Tôi ngạc nhiên thấy chị Danes lại đi tới cửa hiệu thợ may ở trên cầu London.
Khi chúng tôi tới nơi thì Gabriel Appleby, cậu học việc của ông Thankless, đang đỡ một phu nhân với một gói hàng cồng kềnh lên một chiếc kiệu.
- Kìa chị Danes tôi có thể giúp gì chị? - Gabriel vui vẻ hỏi.
- Tôi cần nói chuyện riêng với ông chủ của cậu. - Chị Danes đáp.
- Được thôi. - Gabriel nói và dẫn chúng tôi qua gian hàng, bước lên cầu thang gỗ nhỏ dẫn tới chỗ ở của ông Thankless.
- Chị Danes, thật mừng được gặp chị. - Ông Thankless nói.
Nhưng thấy vẻ mặt của chị Danes, ông hỏi:
- Chị có sao không? Trông chị xanh quá.
- Tôi đến xin ông giúp cho một chuyện. - Chị Danes nói. Trước kia ông đã rất tốt với chúng tôi, giờ tôi lại phải trông cậy và lòng tốt của ông và nhờ ông giúp đỡ.
Ông Thankless mời chúng tôi ngồi và đi lấy một ít rượu vang cùng bánh ngọt.
- Tôi có thể giúp gì được?
- Như ông đã biết đấy, chúng tôi đã có bà chủ mới. Bà ta chẳng có gì tốt đẹp hết. Giờ bà ta lại tin rằng khu vườn là công trình của Quỷ sứ.
- Làm sao có thể như vậy được! - Ông Thankless kêu lên.
- Còn về phòng chưng cất thì bà ta nói rằng đó là nơi chế ra bùa mê thuốc lú. Bà ta đã đòi có chìa khóa rồi, và tôi tin rằng bà ta sẽ chẳng ngại gì mà không phá hoại hết các thứ thuốc của bà chủ tôi một khi vào được phòng, bà ta tin rằng đó là yêu thuật.
- Trời đất quỷ thần ơi, thế giới này đang đi đến đâu vậy? - Ông Thankless nói. - Tôi rất sẵn lòng giữ các thứ thuốc ấy giúp chị. Tôi có một căn hầm khô ráo, có thể cất chúng trong đó được. Thật khủng khiếp nếu những phương thuốc ấy bị mất đi. Trước kia, chính tôi đã từng bao lần được chữa khỏi nhờ một trong những cái lọ tí xíu ấy, cả bạn bè và hàng xóm của tôi nữa.
- Bà chủ mới là một người Thanh giáo rất cuồng tín. - Chị Danes kéo ghế lại gần và thì thầm với ông thợ may. - Tất cả những chuyện này có gì đó không ổn. Một điều gì ám muội mà tôi không hiểu được.
Tôi đứng dậy đến bên cửa sổ nhìn xuống con phố đông đúc bên dưới. Chính lúc đó, lần đầu tiên tôi nhìn thấy lão gù. Lão ta mặc toàn đồ đen và đang đứng ở ngưỡng cửa của cửa hàng bên kia đường. Chiếc mũ cao của lão được kéo thấp xuống, một cặp kính xanh che kín mắt lão, nhưng tôi cảm thấy lão đang nhìn thẳng vào tôi và thấy rợn sống lưng.
- Hẹn chị ngày mai. - Ông Thankless nói.
- Chúa phù hộ ông. - Chị Danes nói, đứng dậy ra về. - Đi nào, mình phải về nhà thôi, chim sẻ nhỏ của chị.
Tôi nhìn xuống một lần nữa.
Lão gù đã biến mất.