Tôi là Coriander - Phần 3 - 13: Medlar

Tôi từng luôn tin rằng trên đời chỉ có một thế giới duy nhất, thế giới nơi tôi đã sinh ra và lớn lên. Giờ tôi mới biết thế giới mà chúng ta đang sống chẳng là gì ngoài một tấm gương, phản chiếu một thế giới khác bên kia bề mặt tráng bạc của nó, một vùng đất nơi thời gian chỉ là thứ nhỏ nhặt và tầm thường, mất mọi sức mạnh của nó. Nơi ấy đã giải thoát cho tôi, không có nó, tôi sẽ chỉ còn là một nắm xương tàn trong chiếc rương gỗ sồi ở một ngôi nhà lớn đã từng thuộc về một thương gia London.

Tôi chắc chắn rằng đời tôi thế là hết, rằng cái chết đang gần kề. Hoảng loạn, tôi cố gắng trong tuyệt vọng để đẩy nắp rương ra một lần cuối. Chẳng có tác dụng gì. Tôi cảm thấy bóng tối bắt đầu bóp nghẹt lấy mình. 
Thế rồi tôi trông thấy một ánh sáng, một ánh sáng kỳ diệu, chói lòa, như khi tấm màn sân khấu được kéo ra ở rạp hát. Tôi e rằng mình đã chết rồi, bởi mùa đông đã tan biến và nơi đây đang giữa mùa hè, một mùa hè rực sáng như ở Hội chợ Bartholomew, với tiếng kèn đồng náo nức, tiếng trống vỗ sôi nổi, cùng một dàn hợp xướng của tiếng dế và tiếng chim đón chào tôi. Những đóa hoa dại ngả nghiêng ngào ngạt thơm, những là mùi tây đẹp như đăng ten khẽ gật gù trong gió; những hàng rào cây mời gọi tựa như những sạp hàng đầy mâm xôi tươi và dâu tây chín đang cười khúc khích trong những chiếc áo đỏ thắm. Bầu trời xanh thẳm, không hề bị một gợn mây che phủ. 
Tôi giật mình quay lại và nhìn thấy một người dáng vẻ rất lạ lùng đứng sau lưng tôi. Ông có bộ râu dài thắt nút, tay xách một cái đèn tròn như mặt trăng. Bất chấp cái vẻ ngoài kỳ lạ ấy, tôi vẫn thấy ông ta có vẻ gì đó rất quen thuộc. Điều này khiến tôi ngạc nhiên vì tôi biết mình chưa bao giờ gặp người này.

- Đẹp lạ lùng! - Ông nói và cúi chào thật thấp. - Ta đã bắt đầu nghĩ rằng cháu sẽ không đến. Cái gì đã khiến cháu mất nhiều thời gian đến vậy? 
Ông ta đang nói với tôi ư? Thực ra tôi không dám chắc điều đó, dù ở quanh đây chẳng còn ai nữa. 
- Cháu chết rồi phải không? - Tôi hỏi. 
Có vẻ câu hỏi ấy đã khiến con người kỳ lạ kia bật cười. Ông ta nói, như thể đó là ý tưởng ngộ nghĩnh nhất mà ông từng nghe. 
- Cái chết và thời gian không thuộc về nơi này, Coriander ạ. 
- Sao ông lại biết tên cháu? Sao ông lại biết cháu sẽ đến đây? - Tôi kinh ngạc nhìn ông, và ông chìa tay ra. 
- Tha lỗi cho ta, ta chưa tự giới thiệu. Mọi người gọi ta là Medlar. Ta biết mẹ cháu khi bà ấy bằng tuổi cháu bây giờ, và may mắn được gặp cha cháu vào một đêm hạ chí. Ông ấy quả là một người hào hiệp. 
Tôi trố mắt nhìn ông lão, thậm chí không dám nói thầm với chính mình điều tôi đang nghĩ. Tôi thấy như mình đang bước đi trên mặt nước, không dám chắc về bất kỳ cái gì, và có thể chìm xuống bất kỳ lúc nào, vĩnh viễn biến mất dưới làn sóng lấp lánh ấy. Bởi nếu các mùa có thể thay đổi chỉ trong khoảng thời gian một cái rương được đóng lại, thì ông Medlar cũng có thể biến đi nếu tôi buột miệng hỏi một câu. Vậy là tôi im lặng, sung sướng chấp nhận rằng tôi vẫn còn sống và tự an ủi mình rằng ông có biết mẹ tôi và đã gặp cha tôi.

- A, đẹp lạ lùng! - Medlar lại nói, khi thấy một con ngựa kéo một chiếc xe lọc cọc trên đường đi tới. Tôi có thể nghe thấy tiếng chuông reo leng keng và tiếng ca hát vui vẻ của hành khách. 
Người đánh xe dừng lại trước mặt chúng tôi. Medlar giúp tôi ngồi vào xe. 
Những người khách trên xe hẳn đang trên đường đến dự một đám cưới. Tôi đoán vậy mặc dù tôi chưa từng thấy một đám cưới nào như thế. Họ mặc những bộ váy, áo chẽn và áo gilê thuộc loại mà ngay cả những người phái Bảo hoàng cũng không dám mặc. Tất cả đều đi những đôi giày tuyệt đẹp, và không ai trong số họ có vẻ bị nhức xương, đau răng hay buồn bã như những người ở London. 
- Xin chào! - Mọi người nói và dịch ra để lấy chỗ cho chúng tôi. 
Tôi ngồi đó, lấy làm mừng là không ai hỏi Medlar xem ông đang làm gì với một con bé rách rưới như xơ mướp thế này. Tôi thấy mình hoàn toàn lạc điệu ở đây, và nhẹ nhõm vì không ai để ý đến mình.

Chiếc xe lại lắc lư đi tiếp và các hành khách bắt đầu trò chuyện. Tôi chỉ nghe loáng thoáng được những chuyện họ nói với nhau. Tôi vẫn đang băn khoăn không hiểu làm sao mình lại có thể từ một nơi tối tăm lạnh lẽo đến với một ngày mùa hạ rực rỡ thế này. Thật đúng là phép thần, tôi vui sướng nghĩ thầm. 
- ... đá cái ghế vắt sữa đi, và thế là bà ta ngã xuống, chân chổng cả lên. - Một bà ngồi cạnh tôi cười nói. Bà ta có chiếc áo khoác nom được làm bằng bông kế [10]. 
- Chính họ tự chuốc lấy phiền nhiễu mà thôi. - Người bạn của bà ta nói. 
- Đúng vậy. Lúc nào cũng ước hết cái này đến cái nọ mà chẳng bao giờ biết rõ bản thân muốn gì. Và khi điều ước trở thành sự thật mà họ không thay vì tỏ ra sung sướng lại ước thêm đủ thứ khác thì cứ nện cho tôi một trận! - Bà ngồi cạnh tôi tiếp lời. 
- Chính thế. - Một người khác đồng tình. - Chẳng bao giờ biết thỏa mãn cả. 
- Kể cũng thật đáng buồn. - Bà mặc chiếc áo khoác bằng bông kế nói thêm. 
- Phải, nhưng nó cũng làm đời vui hơn đấy chứ. - Bạn của bà ta bình phẩm và bọn họ lại phá lên cười.

- Ông cũng đến dự lễ cưới chứ? - Một ông có bông hoa to cài khuyết áo hỏi. 
- Tất nhiên rồi. - Medlar đáp. - Tôi còn có thể đi đâu khác được trong một ngày mùa hạ như thế này? 
Người kia cúi mình về phía trước. 
- Họ bảo cái đám cưới này là ý tưởng của hoàng hậu Rosmore. 
- Tôi cũng nghe nói thế. - Medlar trả lời. 
- Thật là sai lầm, tôi xin nói với ông như thế. - Người đàn ông nói. - Chẳng khác nào mong nước và lửa sống hòa thuận với nhau. Chúng ta đều biết chuyện gì đã xảy ra lần trước khi họ tìm cách bắt ép tổ chức một đám cưới như thế. 
Tất cả hành khách đều gật gù vẻ thông hiểu mọi chuyện. 
Tôi muốn hỏi xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng lại ngượng nên đành làm thinh. Một ông đội chiếc mũ rất cao ngồi đối diện chúng tôi nhìn quanh rồi thấp giọng: 
- Họ bảo là nếu hoàng tử Tycho không chịu lấy công chúa Unwin, hoàng hậu sẽ biến chàng thành một con cáo. 
- Ôi không! Thế thì thật là khủng khiếp! - Bà mặc chiếc áo bằng bông kế kêu lên. 
- Có tin đồn là hoàng hậu đã có được cái bóng rồi. - Người nọ nói tiếp với vẻ long trọng, ngực ưỡn ra như một con gà vào ngày Chủ nhật.

- Không phải thế chứ! - Bà kia nói. 
- Tôi nghe nói hoàng hậu đang rất muốn cho cô con gái lấy chồng. - Một bà mập mạp, tay cầm một chiếc lồng chim bọc vải nói. - Thật đáng buồn là họ lại chọn một chàng hoàng tử đáng yêu đến thế. Tôi không biết chàng đã làm gì để phải chịu cái vinh dự kinh khủng ấy. 
- Tôi nói cho các vị biết điều này. - Người đội chiếc mũ cao tuyên bố. - Chúng ta sẽ mất hết nếu hoàng hậu thâu tóm được quyền lực. 
Ông ta khoanh tay trước ngực và chiếc mũ rơi ra, lăn xuống đường như một diễn viên nhào lộn đang say rượu. Người đánh xe phải dừng lại cho ông ta chạy xuống nhặt mũ. 
- Thôi, không nói chuyện tin đồn nữa. - Người đàn bà mập mạp nói khi ông ta trở lại. - Hôm nay là đám cưới cơ mà. Hãy chúc đôi uyên ương hạnh phúc và bàn đến những điều vui vẻ hơn. 
Tôi hỏi bà ta có gì trong chiếc lồng, nhưng bà chỉ mỉm cười hiền hậu mà không trả lời. Tôi tự nhủ không hiểu có phải tai bà bị điếc không. 
- Bà có gì trong lồng vậy? - Medlar nhắc lại câu hỏi. 
- Sao kia? - Bà vội đáp. - Tất nhiên là quà cưới rồi. 
Bà ta gỡ tấm vải phủ ra và tôi kinh ngạc nhìn thấy trong lồng là một con chim vàng đang cất tiếng hót. Các nan lồng vặn xoắn như kẹo mạch, và trong khi tôi ngắm con chim, chúng phản chiếu lại một tia sáng xanh lấp lánh và nhảy nhót trong ánh nắng.

- Ôi, tuyệt quá! - Tôi kêu lên. 
Người đàn bà nhìn nó vẻ lưỡng lự: 
- Đây là quà cho cô dâu đấy. Ông có nghĩ là cô ta sẽ thích không? 
- Chắc chắn là có rồi. - Medlar từ tốn đáp. 
Cỗ xe lọc cọc trên đường cho đến khi chúng tôi tới một ngã ba. Trước mặt vẫn là con đường đầy cỏ chúng tôi đang đi. Bên trái là một con đường mọc đầy cây mâm xôi và tầm xuân. Vậy mà người đánh xe lại rẽ vào chính con đường này, nơi những chiếc gai lóe lên như những răng thép. Tôi gần như không dám nhìn, sợ rằng chúng tôi sẽ bị xé ra thành từng mảnh. Thế nhưng những bụi mâm xôi và tầm xuân lại rẽ ra cho chúng tôi đi, như thể chúng đã đợi chúng tôi đến vậy. Sau khi chúng tôi đã đi qua an toàn rồi, chúng lại khép lại, như những tên trộm đang xúm lại cãi cọ. 
Medlar mỉm cười với tôi. 
- Giờ thì không còn xa lắm nữa đâu. - Ông nói. 
Chúng tôi đi lên một con đường tới một cánh cổng bằng sắt uốn tự mở ra cho chúng tôi qua và đóng lại mà không cần bàn tay con người. Tôi nhìn những người khách cùng đi, chờ đợi họ nói một câu gì, nhưng họ chẳng để ý đến, như thể đi qua các bụi mâm xôi và các cánh cổng sắt tự đóng mở là một việc thường xuyên xảy ra vậy.

Chúng tôi lại đi tiếp, bánh xe kêu lọc cọc trên sỏi lát đường, cho đến khi tới một khúc quanh. Trước mặt chúng tôi là một ngôi nhà tráng lệ nhất mà tôi đã từng thấy, với các cánh cửa sổ thấp xuống sát đất và hàng cột đá hoa cương chiếu sáng tựa ngọc trai. Liệu một ngôi nhà có thể có nhiều kính đến thế không, và liệu chúng có thể tỏa sáng lung linh đẹp đến thế không, đẹp như thể chính mặt trời là chủ lễ cưới? Nhưng, chao ôi, tôi chỉ được nhìn lướt qua. Chiếc xe đi tiếp, và ngôi nhà biến mất sau một rặng cây bạch dương. Tôi nóng lòng được thấy thêm, tôi nóng lòng được vào trong, tôi nóng lòng mong cho chiếc xe dừng lại. 

[10] Loại hoa nhỏ có ngũ bông, in trong quốc huy của Tô-cách-lan