Tôi là Coriander - Phần 3 - 14: Tia sáng xanh

Chúng tôi dừng lại ở sân trước của một khu chuồng ngựa. Ở đây còn huyên náo hơn cả cầu London vào ngày chợ phiên, bởi vì mỗi inch chỗ trống đều có xe đỗ, có những chiếc, giống như xe của chúng tôi, chỉ là những chiếc xe ngựa kéo bình thường, lại có những chiếc lộng lẫy đến nỗi tôi dám chắc chúng phải là xe của vua chúa.

Chúng tôi xuống xe, sung sướng được duỗi thẳng chân. Những người bạn đồng hành của chúng tôi sửa lại mũ, rũ váy áo cho sạch bụi và cùng lên tiếng một lúc. Họ tạm biệt Medlar và hứa sẽ tìm ông trong đám đông. 
- Ai sống ở đây thế ạ? - Tôi hỏi, sau khi họ đã đi hết. 
- Đây là cung điện mùa hè của vua Nablus và hoàng hậu Rosmore. Ngày mai, con gái của hoàng hậu là Unwin sẽ làm lễ cưới. 
- Đó có phải là tin vui không? - Tôi hỏi. 
Medlar cười. 
- Vui với hoàng hậu và con gái của bà ta, không vui đối với hoàng tử. Chàng đã bị buộc phải thành hôn. 
- Lẽ ra chàng ta phải tỏ ra kiên định hơn. 
Medlar mỉm cười. 
- Có những lúc thì nhượng bộ lại khôn ngoan hơn là liều mạng với cơn thịnh nộ của hoàng hậu đấy. 
Tôi muốn biết thêm và có đến cả ngàn câu hỏi muốn hỏi ông, nhưng chúng tôi bị cắt ngang bởi một anh hề có bộ mặt trắng lốp. Anh ta đội một chiếc mũ có quai thắt nơ dưới cằm và mang một cái cổ đăngten diêm dúa không kém gì ngài Walter Raleigh [11]. 
- Tìm thấy ông tôi mừng quá. - Anh ta nói. - Ông đã ở đâu vậy hở ông bạn già? Tôi có một điều rất hay muốn nói với ông. Đi theo tôi và tôi sẽ cho ông thấy.

Medlar quay sang tôi. 
- Ta xin lỗi. - Ông nói. - Nhưng ta phải đi đây. Đừng lo lắng gì cả, rồi cháu sẽ ổn thôi. Ta sẽ quay lại tìm cháu sau. 
- Xin hãy đợi đã! - Tôi kêu lên. - Cho cháu cùng đi với! 
Nhưng Medlar và anh hề đã biến mất trong đám đông. Sợ hãi vì bị bỏ lại, tôi chạy theo những người khách đến dự đám cưới. Dưới ánh nắng chói chang, họ trông như những cách bướm rực rỡ đang chấp chới bay lượn về phía tòa lâu đài. Tôi đứng đó và tự hỏi liệu tôi có dám đi theo họ hay không. 

Tiền sảnh mát lạnh khi tôi bước từ ngoài nắng ấm vào, và phải mất một lúc mắt tôi mới quen được với ánh sáng. Tiền sảnh thật đẹp và rộng rãi, với một cầu thang lớn bằng đá hoa cương dẫn lên một hành lang nơi các khách dự đám cưới đứng nhìn xuống những người mới đến. Tôi thấy khiếp hãi và dám chắc rằng trông mình nổi bật như một cái cây bị sét đánh cháy sau cơn bão vậy. 
Những người hầu đang đi qua đi lại với những chiếc khay bằng bạc, mời khách rượu vang đựng trong những chiếc ly cao thành. Hồi hộp vì không bị đuổi ra, tôi liền đi kiếm một chỗ trốn. Có mấy phòng cho tôi lựa chọn. Một phòng có một chiếc bàn bày tiệc cưới, phòng khác có những bức tường lát gỗ và một lò sưởi lớn. Phần lớn các phòng đều đầy người.

Cuối cùng, tôi tìm thấy một căn phòng dài, sang trọng, treo rất nhiều gương thếp vàng và sàn gỗ óng lên như mật ong. Cả đời tôi chưa bao giờ thấy nhiều gương đến thế. Tôi đi dọc căn phòng và nhìn vào các tấm gương. Tôi không hiểu ra sao cả, vì tôi không thấy bóng mình trong bất kỳ tấm gương nào. Những tấm gương phản chiếu rất rõ ràng một căn phòng kéo dài mãi, với vô số ghế tựa thếp vàng đang chờ đợi vô số các quý ông quý bà tới ngồi lên. Nhưng tôi, Coriander, thì không có trong đó. Chỉ có một tia sáng xanh chuyển động khi tôi bước đi và đứng im khi tôi dừng lại. Tôi nghĩ hẳn các tấm gương này được làm bằng một loại kính thần kỳ không coi trọng tính phù phiếm của con người. 
Đúng lúc đó, một đám trẻ con ồn ào bước vào, cởi giày ra để trượt trên mặt sàn bóng lộn. Tôi nhìn vào gương và càng thấy khó hiểu khi thấy bóng chúng trong đó. Giống như căn phòng, giống như những chiếc ghế, chúng có hình trong gương. Thế thì tại sao tôi lại không có trong đó? 
Tôi lại càng ngạc nhiên hơn khi chúng bắt đầu chạy về phía tôi. Tôi nhảy thật nhanh ra tránh đường, nhưng chúng vẫn lao tới. Tôi tránh bên này bên kia, nhưng không xong. Tôi bèn trốn đằng sau một chiếc ghế và nhìn đám trẻ con một lát, chúng đã ngừng đuổi vì bối rối. Tôi bèn chui ra khỏi chỗ trốn và thế là trò chơi lại bắt đầu. Tôi phát hiện ra rằng nếu tôi quay mặt về phía đám trẻ thì chúng sẽ chạy về phía tôi, nếu tôi quay đi thì chúng sẽ dừng lại.

Tôi đưa tay lên đầu. 
- Nó biến mất rồi. - Một chú bé nói, vẻ thất vọng. 
- Không đâu, nó vẫn còn kia kìa. - Một đứa khác kêu lên khi tôi bỏ tay xuống. Tôi làm đi làm lại như thế. Tia sáng xanh nhỏ xíu xuất hiện. Tia sáng xanh nhỏ xíu biến mất. Tôi thấy hết sức phấn khích, bởi vì nếu người ta chỉ thấy tôi là một tia sáng xanh nhỏ xíu, thì tôi có thể liều lĩnh được rồi. 
Tôi bỏ đám trẻ con đứng đó và đi ra tiền sảnh, cảm thấy can đảm hơn nhiều. Tôi đi lên cầu thang, chen giữa đám đông và ra ngồi trên hành lang, như tôi vẫn thường làm khi còn ở nhà ở London, để ngắm những người khách đi tới. 
Ở nơi này, các phu nhân và các tôn ông không quan tâm đến việc họ phục sức diêm dúa đến mức nào, cũng không e ngại tiếng cười của người khác. Họ lộng lẫy trong những bộ quần áo rực rỡ tựa chim công và chim anh vũ, mỏng nhẹ tựa cánh bướm và cánh chuồn chuồn. Có những chiếc váy làm từ cánh hoa hồng, những chuỗi ngọc kết bằng giọt sương, những tấm áo lụa mịn như được dệt từ tơ nhện. Nếu có thể, cha tôi sẽ bỏ ra tất cả để mua được những loại vải như thế!

Từ khi mẹ tôi mất, thế giới của tôi đã dần sụp đổ và vỡ tan, mọi niềm vui và sắc màu đã bị tẩy sạch. Lão Arise đã gần như đánh gục tôi bằng bàn tay thịnh nộ của lão. Tia sáng xanh bé nhỏ đã gần bị thổi tắt. Vậy mà ở đây, giữa nơi xa lạ này, giữa những con người kỳ lạ này, tôi lại thấy mình như đã trở về nhà và tia sáng xanh lại có thể nhảy múa vui vẻ giữa đám khách dự lễ cưới, bởi vì nơi đây mới là sự cứu rỗi của linh hồn tôi. 
Những ý nghĩ sung sướng của tôi bị cắt ngang bởi những giọng nói lớn tiếng phát ra từ một hành lang ở bên. Tôi bước về phía đó, nhưng rồi sợ bị lạc, tôi lại quay trở lại. 
Bỗng nhiên tôi nghe thấy một tiếng quạ kêu chói tai, và ngước lên, tôi nhìn thấy một con chim khổng lồ đen sì đang bay về phía tôi. Tôi khiếp sợ chúi xuống khi nó bay qua. Đó là một con quạ to lớn gớm guốc, đôi cánh dang rộng của nó quệt cả vào hai bên hành lang. Nó bay đến cánh cửa đôi ở cuối hành lang và cánh cửa mở ra tức khắc như thể đã đợi sẵn.

Tôi liền đi theo nó mà không suy nghĩ xem mình đang làm gì hay có thể gặp nguy hiểm gì, và thấy mình ở trong một buồng ngủ lát gỗ, tường và trần có vẽ những câu chuyện thần tiên, giống hệt như căn buồng của tôi ở nhà. Giữa phòng có đặt một chiếc giường bốn cọc. Các cánh cửa sổ cao từ trần nhà đến sàn nhìn ra những khu vườn cân đối bên ngoài. Một cô gái béo tròn ngồi bên bàn trang điểm ở phía bên kia của căn phòng. Tôi có thể nhìn thấy cô ta trong gương. Cô ta có cái cằm đôi chảy xệ xuống ngực và chiếc áo nịt cô ta đang mặc làm người cô ta phè ra như chiếc bánh thịt bị nhồi quá nhiều nhân. 
Con quạ không để ý đến cô ta. Nó đậu lên tay một chiếc ghế bành có lưng tựa nhô cao làm tôi không nhìn được người ngồi trên ghế. 
- Con chim xinh đẹp của ta. - Một người đàn bà nói, giọng khàn khàn. - Mi vừa ở đâu về vậy? 
Tôi chầm chậm lui lại, sợ hãi khi nghe tiếng ván sàn kêu cót két, và giữ một bàn tay trên trán để che đi tia sáng xanh. Ước gì tôi đã không vội vàng đi theo con quạ như thế. Xin đừng để nó nói, tôi thầm nghĩ. Nó không thể nói được. Tôi không muốn nỗi sợ của mình trở thành sự thật.

- Hoàng tử đã đến chưa? - Cô gái quát hỏi. 
- Chàng đang trên đường, thưa công chúa. - Con quạ đáp. 
- Nhanh lên, Unwin, trang điểm cho xong đi. - Người ngồi trên ghế nói. 
- Cái váy này không hợp với con. - Unwin mè nheo, trong khi một người hầu gái hối hả vào phòng với một đám mây đăngten và satanh trắng. Cô ả cố ních vào chiếc váy, làm nó rách toạc. Người đàn bà trên ghế rung chuông và một chị hầu phòng chạy vội vào. 
- Ta không mặc cái này đâu! - Cô dâu hét lên, giậm chân thình thình. Cô ả cầm chiếc nùi bông thoa phấn mà cô ta đang nghịch và ném nó xuống bàn mạnh đến nỗi một đám phấn bụi mù lên, làm chị hầu tội nghiệp suýt nghẹt thở. - Ra ngay, đồ đần độn! Hãy xem mi đã gây ra chuyện gì thế này! 
Hai người hầu gái nhìn về phía chiếc ghế lưng cao và tôi thấy một bàn tay như chân chim xua họ đi. Họ liền nhún chân chào và nhanh chóng đi ra. 
Người có bàn tay nọ đứng lên và bước về phía cô dâu. Tôi nhớ lại câu chuyện trên xe ngựa. Vậy chắc hẳn đây là hoàng hậu Rosmore. 
- Hãy bình tĩnh, con gái yêu của ta. Con không cần phải bận lòng. Lần này sẽ không có gì trục trặc đâu. Tin ta đi. Cronus và ta đã thu xếp hết mọi việc rồi.

Tôi chợt nhận ra, với một cảm giác chắc chắn kinh khủng, rằng trước kia tôi đã từng thấy con quạ rồi, và gương mặt đẹp đẽ kia của hoàng hậu chỉ là một tấm mặt nạ. Bên dưới nó chính là mụ phù thủy già mà tôi đã gặp trên cầu London. 
Hoàng hậu Rosmore quay đi khỏi cô con gái. Mụ nhìn thẳng vào tôi và khẽ bảo con quạ: 
- Hãy bảo đảm rằng lần này lão Medlar không có mặt. 

[11] Walter Raleigh (1554 - 1618): nhà văn, nhà thơ, nhà thám hiểm người Anh.