Tôi là Coriander - Phần 4 - 20: Hester

Chị được nuôi lớn bằng đòn roi của mẹ và tình thương của cha. Ông là một người cao lớn, không bao giờ nổi nóng, khác hẳn với mẹ lúc nào cũng giận dữ. 
Gia đình chị có một nông trại nhỏ ở bìa rừng Savernake, nuôi gà, bốn con cừu và một con bò sữa. Mẹ chị sinh nở còn nhiều hơn cả con bò sữa nhưng những con bê con luôn sống lâu hơn các anh chị em của chị. Họ lần lượt sớm trở lại lòng đất như những đóa hoa chưa kịp nở. Chỉ có anh Ned là sống sót. Anh ấy hơn chị sáu tuổi. Chỉ có Ned mới dám đương đầu với mẹ và ngăn không cho bà lên cơn thịnh nộ.

Cả nhà cứ sống trong cảnh hỗn loạn, bị điều khiển bởi tính khí của mẹ như vậy. Chị nghĩ cha chị rất mừng khi chiến tranh nổ ra và có thể thoát khỏi bà vợ. 
Chị không muốn cha ra đi. Chị đã nài xin ông ở lại. Cha ôm chặt chị và nói rằng ông có bổn phận phải ra đi và chiến đấu để mọi người đều được tự do. Trong mắt Chúa, tất cả đều bình đẳng và chúng ta phải có được điều đó trên thế giới này. 
Mẹ chị không hề cản cha, tuyên bố rằng bà cũng sung sướng thoát khỏi dáng điệu lề mề chậm chạp của ông. Vậy là cha chị gia nhập đội quân của Cromwell, và em cũng không thể trách ông vì đã làm thế. Ông nói giáp mặt với một ngàn quân Bảo hoàngchẳng thấm tháp gì so với việc phải chịu đựng mẹ chị khi bà nổi cơn tam bành. 
Sau đó anh Ned và chị phải tự lo toan mọi việc ở trang trại. Mẹ chị vốn to béo đến nỗi khó lòng cúi xuống mà chạm vào ngón chân mình, cả ngày chỉ ngồi bên lò lửa. Nếu trong nồi không có gì thì bà dọa dẫm là sẽ giết chết cha chị khi ông quay về vì đã để lại cho bà quá ít đồ dự trữ. Anh Ned và chị làm việc cật lực để bà buông tha cho ông. Chẳng ích lợi gì. Chị không phải lo lắng xem mẹ sẽ làm gì với cha khi ông trở về, bởi vì cha chị bị mất tích sau trận Naseby và bị coi là đã hy sinh.

Mẹ chị đã quá quen với những mất mát kiểu đó nên chẳng để tâm đến cái chết của cha, chỉ nói rằng giờ bà đã được tự do và bà rất muốn được đi xem thành phố, ở đó dễ kiếm tiền hơn. Còn trái tim của chị cũng như của anh Ned vốn không cứng rắn đến thế thì tưởng chừng vỡ nát vì đau khổ. 
Hàng xóm của gia đình chị là Wort có một đứa con trai cũng được báo về là đã hy sinh như cha chị. Thế nhưng vài tháng sau, anh ta trở về lành lặn và mạnh khỏe, chỉ bị thương nhẹ ở đầu. Khi ấy Ned không chịu đi lên thành phố nữa, mặc cho mẹ đánh đập. Anh ấy kiên quyết ở lại và hai anh em lại cùng hết lòng làm việc trên đồng, chăm nom gia súc. Mọi sự giống như có một cơn gió lạnh buốt thổi qua những năm tháng đói kém ấy, sau khi cha chị ra đi. 
Thế rồi lão gù mò vào cuộc sống của gia đình chị. Lão tự gọi mình là một nhà truyền giáo và giáo đồ. Những bài thuyết giảng của lão làm người ta sợ đến phát run lên. Mẹ chị đưa lão về nhà và cho lão những thức ăn ít ỏi có được. Anh Ned bảo với mẹ rằng anh ấy làm lụng vất vả như thế không phải để bà đem thức ăn đi cho.

Rồi có tin cha chị vẫn còn sống. Ông rất yếu và bị mất một chân. Hai anh em chị cảm thấy những lời cầu nguyện thiết tha của mình đã được đáp lại. Ned quyết định sẽ đi tìm cha và đưa ông về nhà ngay. Chị đã tưởng mọi sự khổ sở trong gia đình sẽ đi đến hồi kết, rằng cha chị sẽ đuổi lão gù ra khỏi nhà. Chuyện đó không thành. Mẹ chị không chịu cho anh Ned đi. 
- Một lão già cụt chân thì chả được tích sự gì hết. - Bà nói. - Lão sẽ chết trước khi mày tìm thấy lão và như thế thì lại càng phí tiền. 
Chị phải nói thật là chuyện này đã gây ra một cuộc tranh cãi khủng khiếp giữa mẹ và anh Ned. Mẹ chị ném vào anh Ned những lời cay độc và giận dữ đến nỗi chị sợ cả căn nhà tranh sẽ sụp xuống mất. Chị trốn vào cùng với đám gia súc và khi tất cả kết thúc thì anh Ned đã bỏ đi. Anh ấy đã nói sẽ quay về cùng với cha, nhưng anh ấy không về và chị không biết phải làm gì. 
Mẹ chị hẳn đã tẩy sạch tên họ ra khỏi trái tim của bà rồi, bởi vì bà không bao giờ nhắc đến họ nữa. Bà chỉ nói về Arise mà thôi. Lão ta bảo bà rằng chẳng mấy chốc Chúa Jesus sẽ lên ngôi báu ở nước Anh, rằng chúng ta phải chuẩn bị để đón Người trở về, và tẩy rửa cho mảnh đất này sạch bóng phù thủy và pháp sư, những kẻ chẳng làm gì khác ngoài việc phục vụ quỷ dữ.

Lão Arise rất giỏi ăn nói và làm mẹ chị mê mẩn. Bà nói với chị rằng bà sẽ theo lão ta đi bất cứ đâu, và bởi vì lão kiếm sống bằng cách đi từ nơi này đến nơi khác, bà quyết định sẽ đi cùng lão ta. Chị van xin bà đừng đi. Bà bảo chị có thể ở lại trang trại và chết đói nếu muốn. 
Vậy là gà, những con cừu và bò được bán đi, chẳng được là bao bởi những con vật tội nghiệp ấy đã quá già, ốm yếu và gầy trơ xương. Hai mẹ con lên đường tới Bristol và ở lại một vùng quê gần đó. Mẹ chị đổi lại cái họ thời con gái là Leggs, thay vì họ của cha chị là Jarret. 
Lão Arise Fell cũng hay nổi cơn thịnh nộ không kém gì mẹ và điều đó khiến bà hết sức hài lòng. Bà cho rằng nếu những cơn thịnh nộ là vũ khí chiến đấu của Chúa thì bà sẵn sàng cầm gươm và chiến đấu. 
Chính lão Arise đã nói với bà rằng những đứa con nhỏ của bà chết vì bị phù phép bởi một mụ phù thủy.

- Nhưng ở chỗ chúng tôi không có phù thủy. - Mẹ chị nói. 
Lão Arise đứng dậy và nắm tay đấm xuống bàn mạnh đến nỗi chị giật thót mình. 
- Bọn phù thủy và những mụ đàn bà biết làm phép vẫn thường làm như vậy. Chúng trốn trong các làng mạc. Nhưng ta sẽ tìm ra chúng dù chúng ở đâu. Ta sẽ không bỏ qua ngay cả một hòn đá! - Lão gầm lên. 
Mẹ chị không động cựa, nhưng một nụ cười nở ra trên mặt bà. 
- Giờ thì tôi mới nhớ ra nhà Wort. Thằng con trai của họ quay về sau chiến tranh trong khi các ông đàn ông khác bị giết hết. - Bà nói. - Cái mũi của tôi đã luôn ngửi thấy điều gì mờ ám ở mụ đàn bà nhà ấy mà. 
- Bà còn cần bằng chứng nào khác nữa? Chính là mụ phù thủy ấy rồi! - Arise nói. 
Mẹ chị trông như con mèo vừa vớ được một miếng cá tươi[13]. 
- Thì ra đó là lý do những đứa con của tôi chết hết, không còn nhầm lẫn gì nữa, chính là vì phép ma của mụ phù thủy ấy. 
Chị nghĩ rằng các anh chị em của chị chết vì cái cách mẹ chị đánh đập họ mỗi khi họ khóc thì đúng hơn, nhưng chị không dám mở miệng. 
Dù sao thì đó cũng là sự mở đầu, cho mọi rắc rối.

Lão Arise bảo với mẹ chị rằng tất cả những gì bà cần làm là dùng cái mũi thính của bà để ngửi ra mùi của bọn phù thủy. 
Mẹ chị vốn hay khụt khịt mũi. Bà luôn làm thế, nó đã thành tật. Bà còn hay quệt mũi vào tay áo. Lão Arise bảo bà không được làm thế nữa và cho bà một chiếc khăn tay. Bà phải dùng nó lau mũi và có thể hỉ mũi vào đó bao nhiêu cũng được, chừng nào nó vẫn giữ màu trắng. 
- Chỉ có bọn phù thủy mới bẩn thỉu. - Arise nói. - Người mộ đạo phải sạch sẽ. 
Lão ta mua cho hai mẹ con chị những váy áo mới màu đen, khiến chúng tôi trông như những con quạ lang thang giữa vùng quê. 
Từ đó trở đi, hai mẹ con đi theo Arise bất kỳ nơi nào Chúa Lòng Lành muốn cử lão đến. Người ta tưởng lão và mẹ chị là vợ chồng còn chị là con gái lão. Mẹ chị cũng không buồn đính chính lại. 
Họ gây ra những nỗi kinh hoàng và run sợ tại bất kỳ nơi nào họ dừng chân. Ở mọi làng mạc và thôn xóm, lão Arise đều nhồi nhét lòng kính sợ Chúa vào đầu giáo dân. Các bài thuyết giảng của lão kinh khủng đến nỗi có nhiều bà đã ngất xỉu, mà mẹ chị, chỉ sau mấy cái khịt mũi, đã tuyên bố rằng đó là dấu hiệu đầu tiên của Quỷ Sa tăng đang hoành hành. Bởi vì có một điều mà quỷ dữ không bao giờ chịu đựng nổi, theo lời Arise, là tên Chúa được nói to lên.

Nhiều lời đồn đại được truyền đi về lão truyền giáo và tất cả mọi người đều sợ lão, rằng lão nhận bất kỳ món tiền nào của họ để Maud đừng kết tội vợ và con gái họ là phù thủy. Lão Arise kiếm được rất nhiều tiền vì có nhiều người cha, người chồng, người anh trai hay người chú sẵn sàng bỏ ra nhiều tiền để bà mẹ của chị đừng khụt khịt mũi vào gia đình họ. 
Chị rất hổ thẹn vì những điều này. Chị không muốn dính dáng gì đến chúng, và mọi sự giữa hai mẹ con chị trở nên rất tồi tệ. 
Hè qua, đông tới. Đó thật là một thời kỳ khó khăn vì chiến tranh vẫn đang tiếp diễn và không còn nhiều nông dân ở lại làm lụng ở thôn quê, phần lớn bọn họ đã bỏ lên thành thị kiếm việc. 
Vào ngày lễ Giáng Sinh, chúng tôi dừng lại ở một thôn nọ, nơi Arise sẽ thuyết giáo. Chỉ có một người duy nhất không đến nghe, một bà lão đang ốm. Cái mũi của mẹ chị tìm ra bà cụ và Arise tố giác bà là phù thủy. Bà cụ van lão ta hãy để cho bà được yên, những điều đó lại càng khiến lão và mẹ chị đắc ý. Họ vào nhà và lôi bà cụ yếu ớt tội nghiệp ra khỏi giường bệnh. Với vô số lời thuyết giáo và hò hét rằng phải cảnh giác để chống lại quỷ dữ, họ kéo bà cụ ra sông, ở đó lão Arise giơ bàn tay thịnh nộ lên và đẩy mạnh bà xuống.

Chị cầu xin mẹ hãy để bà lão yên nhưng bà đấm vào mặt chị mạnh đến nỗi chị ngã xuống đất. Khi chị đứng dậy được thì lão Arise đang đánh lên đầu bà cụ bằng bàn tay thịnh nộ và một cây gậy cho đến khi bà quỵ xuống. Sau đó, trong cơn say máu mẹ chị liên tục đá bà. Thật là một cảnh tượng nhục nhã. Bà cụ bị ném xuống dòng nước băng giá và chìm xuống như một hòn đá. Nó chứng tỏ bà cụ vô tội, vì nếu bà nổi lên mặt nước thì chứng tỏ bà là phù thủy. 
Chị nghĩ điều đó hẳn là đúng. Dù sao thì chị cũng tin rằng không ai có thể sống sót ra khỏi làn nước ấy. 
Sau chuyện đó, những người dân làng bỏ vào nhà và chặn cửa lại. Không ai thèm để ý đến lão Arise đang hăm dọa rằng họ sẽ bị đày xuống địa ngục đời đời. Không ai mời chúng tôi vào nhà, và chúng tôi phải ra đi. 
Đó là một đêm lạnh cóng với cơn gió giá buốt như thấu vào tận xương. Mẹ chị và lão Arise đều im lặng sau khi tốn hết sức để sát hại một bà lão yếu ớt.

Chị đi sau họ, nước mắt ràn rụa khi nghĩ tới người cha hiền từ tốt bụng và anh Ned thân yêu. Lúc đó chị ước gì mình là con trai để có thể chết trong danh dự ngoài trận mạc. 
Chúng tôi cứ đi như vậy cho tới khi đến Bristol. Không ai còn hơi sức để đi xa hơn nữa nên hai mẹ con chị và lão Arise thuê buồng ở một nhà trọ gần đường cái. 

[13] Nguyên văn như con mèo được một đĩa váng sữa