Tôi là Coriander - Phần 4 - 21: Bà phu nhân lạ mặt

Chị thích các căn buồng ở nhà trọ ấy vì chúng rất sạch sẽ, nhưng than ôi, chúng lại không hợp với sở thích của mẹ chị hay của lão Arise, vì ở đó có quá nhiều khách đi đường trọ lại. Họ đem theo những câu chuyện về việc săn tìm bọn phù thủy. Thế rồi có tin về vụ sát hại một bà lão ốm yếu, không thể tự vệ, bà đã bị đá, đánh đập và bỏ mặc cho chết đuối vào ngày Giáng Sinh. Nghe được tin này, lão Arise bồn chồn như cái đuôi chồn bị rận bám đầy, lão tin rằng giá treo cổ đang đi tìm lão. Vậy là ba chúng tôi rời nhà trọ đó trước khi có ai nhớ ra là một lão truyền giáo ma mãnh có cặp mắt kính màu lục đã lôi bà lão ấy ra khỏi nhà. Chúng tôi đi xa hơn vào trong nội thành và thuê phòng phía trên một quán rượu. Đó là một nơi ồn ã, bẩn thỉu đầy chấy rận, và để giữ cho nó sạch sẽ là cả một cuộc đấu tranh.

Chẳng bao lâu sau, những món tiền lão Arise kiếm được nhờ việc đi săn phù thủy đã hết sạch, bởi vì mẹ chị rất háu ăn còn lão ta thì háu uống. Cả hai đã tiêu hết những đồng xu còn lại. Người nọ đổ lỗi cho người kia làm mình khổ sở, và mẹ chị gần như gào lên với lão Arise là lão phải nghĩ ra cách gì đó để kiếm tiền, phải động não lên, bởi vì bà đã không đi xa đến thế này để rồi chết đói. 
Đêm nào Arise cũng bỏ đi, không phải để thuyết giáo mà để đi xuống quán rượu ở tầng dưới và quay trở lại nồng nặc mùi rượu mạnh, luôn mồm huênh hoang về việc Chúa Jesus Christ sẽ lên ngôi. 
- Người đang đến. Mụ có nghe thấy không, mụ kia, Người đang đến! 
Chỉ ít lâu sau, khi đồng tiền cuối cùng bị tiêu đi, Arise đưa Tarbett Purman tới. 
Tarbett Purman làm chị nghĩ tới một con lươn, hay ít ra là một vật gì đó trơn nhớt đã sống một thời gian dài trong bóng tối. 
- Đây là Hester. - Lão Arise nói như một nhà truyền giáo chính hiệu, chắp bàn tay cứu rỗi và bàn tay thịnh nộ lại với nhau tựa như một cái tháp chuông nhà thờ. 
Purman bảo chị đến trước mặt ông ta, bắt chị xoay một vòng, và chị làm theo.

- Tôi thích bộ mông lớn hơn, cái bụng lớn hơn, bộ ngực lớn hơn, tóm lại là một ả đẫy đà. - Ông ta nói, chộp ngang lưng mẹ chị. Tôi thích một người đàn bà đích thực. 
Điều này khiến mẹ chị rất hài lòng và bà cười ngặt nghẽo. Arise cũng rất hài lòng vì ông Purman đặt một đồng tiền lên bàn. 
Tarbett Purman trở thành một người khách thường xuyên. Khi ông ta đi xa có việc thì lão Arise lại đưa đến một quý ông mộ đạo nào đó khác, người thề lấy thề để là sẽ tống sạch những kẻ tội đồ ra khỏi nước Anh rồi cũng đặt một đồng tiền lên bàn. 
Phần lớn những buổi tối của mùa đông lạnh giá ấy, chị đều trốn ra ngồi ở bậc thang của nhà trọ. 
Mẹ chị cả ngày chỉ nằm trên giường, ăn và ngủ, trong khi chị cố hết sức để giữ cho căn phòng sạch sẽ. Đó là khoảng thời gian duy nhất mà những cơn thịnh nộ lặng tiếng trong bà. 
Chị thường xuyên hỏi bà xem khi nào hai mẹ con sẽ quay về nhà. 
- Về nhà để làm gì? - Bà nói. - Một nơi dơ dáy, đất chôn đầy những đứa con của tao ư? Tao không nghĩ vậy đâu. Nhờ có ông Arise mà ở đây chúng ta có thức ăn và tiền. 
Chị nghĩ rằng thế giới của chị đã được định đoạt như thế này, và chị không thể làm gì để thay đổi nó.

Thế rồi, một ngày kia, có một bà phu nhân đến gặp mẹ chị. Chị ngỡ đó là vợ của Tarbett Purman vì chị không nghi ngờ gì việc ông ta có một bà vợ. Bà ấy mặc chiếc áo choàng may bằng thứ vải len thượng hảo hạng, nổi bật lên giữa những tên ma cà bông và đám lang thang ở trọ tại nơi đó. 
- Đi và bảo mẹ mi mặc đồ vào, cô bé. - Bà ta ra lệnh. 
Chị quay đi, băn khoăn tự hỏi không hiểu làm sao bà ta lại biết mẹ vẫn đang trên giường vì lúc đó đã giữa trưa rồi. 
Chị lao lên gác và nói với mẹ là có lẽ vợ của Tarbett Purman muốn gặp bà. Mẹ nặng nề ra khỏi giường và tuyên bố sẽ nói toạc ra hết với mụ đàn bà kia, chắc chắn là vậy. Phải khó khăn lắm chị mới giúp mẹ mặc xong quần áo, bà kêu ca là chị đã làm chiếc áo lót và chiếc váy co rút lại lúc giặt, vì bà đã gần như không ních nổi chúng vào nữa. Chị cố kéo thẳng vải trải giường, nhưng bà phu nhân đã vào phòng trước khi chị làm xong. 
Bà ta có vẻ gì đó khiến chị sờ sợ, nhưng là cái gì thì chị không biết. 
Chị xin phép cầm lấy chiếc áo khoác của bà ta và hong nó cho khô, nhưng bà ta từ chối và ngồi thẳng xuống trước lò sưởi. Hơi nước bốc lên từ áo váy bà. Lần đầu tiên mẹ chị không biết nói gì, vì không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một bà phu nhân rất quyền quý.

- Nhà ngươi sắp kết hôn. - Bà ta bảo mẹ chị. 
Mẹ chị chết lặng đi, không nói nổi một lời. 
- Tôi ư? - Bà nói khi đã mở miệng ra được. - Tôi nghĩ tôi vẫn là đàn bà có chồng. 
- Một chi tiết quan trọng. Nhưng nó chẳng khiến ngươi bận tâm thì sao ta lại phải lo về điều đó? 
- Nhưng mà... nhưng mà... - Mẹ chị lúng búng. 
- Im lặng, Maud Jarret. - Bà phu nhân nói. - Và nghe cho kỹ đây. 
- Sao bà lại biết tên tôi? - Mẹ chị hỏi. 
- Ta biết tên nhà ngươi, ta cũng biết ngươi là loại đàn bà gì. Nhà ngươi và tên truyền giáo kia đã gây ra rất nhiều rắc rối. - Bà phu nhân nói và cười to. 
- Lão ấy không liên quan gì đến tôi cả. - Mẹ chị nói, lùi lại khỏi bà phu nhân. - Tôi là một người mộ đạo... 
- Ngươi là một mụ đàn bà hư hỏng. - Bà khách nói. - Một con điếm. Ta biết tất cả về ngươi. Ta biết ngươi và Arise Fell đã làm những chuyện gì. Ta hiểu quá rõ mọi chuyện giữa hai ngươi ra sao. 
Đến lúc này thì mẹ chị chỉ biết lắp bắp. Bà phu nhân không hề cao giọng một lần nữa. Bà ta bình thản nói như thể nói rằng hôm đó là thứ ba vậy:

- Ngươi là một kẻ sát nhân. 
- Không! Không phải tôi! - Mẹ chị van xin, quỳ sụp xuống. - Tôi đã bị dẫn đi lầm đường lạc lối. 
- Đứng dậy và thôi rên rỉ đi. - Bà khách nói cộc lốc. - Ta không quan tâm ngươi đã giết ai. Chừng nào ngươi làm theo những gì ta bảo, sẽ không có ai biết những điều ngươi đã làm. Ngươi có hiểu ta nói gì không, Maud Jarret? 
Mẹ chị gật đầu: 
- Tôi sẽ làm bất kỳ điều gì bà bảo. 
- Nhà ngươi phải tắm rửa và ăn mặc cho chỉnh tề. 
- Không, thưa bà. Tôi không bao giờ tắm cả. Nước làm tôi khó ở. 
- Nhà ngươi phải làm như ta bảo, để bớt cái mùi cá ươn đi. 
- Đó là mùi của bọn phù thủy. - Mẹ chị nói, bắt chéo tay trước ngực. 
Bà phu nhân cười khẩy. 
- Thế thì cái mũi của ngươi chẳng ngửi thấy gì khác ngoài chính ngươi. 
Thay vì gào thét lên thì mẹ chị chỉ đứng đó vẻ sợ sệt. 
- Ông ta là một thương gia giàu có, góa vợ, có một đứa con gái. - Bà phu nhân nói. 
Mẹ chị bước tới gần hơn, hai chữ giàu có đã lôi kéo sự chú ý của bà. 
- Tại sao ông ta lại quan tâm tới tôi cơ chứ? - Bà hỏi. 
- Vào lúc khác thì không thứ gì trên đời này có thể làm ông ta quan tâm tới ngươi, nhưng Oliver Cromwell đang tịch thu đất đai và tài sản của những người Bảo hoàng ủng hộ nhà vua, và người này có một dinh thự rất đáng mơ ước bên sông Thames. Để có thể giữ lại tòa nhà ấy, ông ta phải được coi là một người Cộng hòa. Nghĩa là ông ta phải lấy một người vợ tử tế theo Thanh giáo. Bà ta lại cười. - Nhà ngươi chính là người mà ta tìm kiếm. Nhà ngươi không đe dọa gì đến những ký ức về người vợ thân yêu của ông ta. Hãy làm đúng bổn phận của ngươi và câm miệng. Ta chỉ đòi hỏi ngươi có thế thôi.

- Tôi rất thèm được thấy London. - Mẹ chị nói. - Nhưng tôi không thể bỏ lại ông Arise được. 
- Ta cũng không muốn ngươi bỏ lão ta lại. Bà phu nhân nói. - Arise sẽ đến gặp ngươi sau. 
Mẹ chị vẫn có vẻ băn khoăn, nhưng khi bà phu nhân lôi từ trong áo choàng ra một túi tiền vàng và ném xuống sàn thì bà sụp xuống như con lợn sục vào máng ăn. 
- Hãy tắm rửa cho sạch sẽ. - Bà phu nhân nói và đứng dậy. Bà ta cao hơn mẹ chị. - May quần áo mới. Đi nhà thờ. Trong thời gian này, hãy ít gặp Arise và bạn bè của lão. Phần còn lại hãy để ta lo. Hãy nhớ rằng ngươi là một quả phụ, một bà quả phụ trung thực chỉ có một đứa con gái duy nhất. Nhà ngươi hiểu không?

Dường như có một làn khói xanh bốc lên từ chiếc áo choàng của bà ta, nhưng đó cũng có thể chỉ do ánh sáng từ ngoài cửa chiếu lên nó. Mẹ chị thậm chí còn không buồn nhìn lên. Khi phu nhân kia bỏ đi, bà vẫn đang mải mê nhặt những đồng tiền vàng. 
Đêm đó bà phu nhân trở lại và bảo chị ra ngoài trong khi bà ta nói chuyện với mẹ và lão Arise. Chị rất sung sướng vì không muốn nghe thêm những trò lừa bịp mà Arise nghĩ ra nữa. Chị ngồi trên bậc thang và ngắm một con quạ đen lớn nhảy quanh, để lại những vết chân trên tuyết. 
Sáng hôm sau, một người hầu ăn mặc sang trọng đến đưa chúng tôi đến chỗ ở mới. Ôi, giá mà em có thể nhìn thấy nơi ấy. Chị chưa bao giờ ở một nơi nào lộng lẫy đến thế, cho đến khi chị tới London. Có đến hai hầu gái và một người đầu bếp. Váy áo mới được đặt may, và mẹ chị, với vô số những tiếng la hét và giãy giụa, được tắm rửa và gội đầu cho sạch chấy rận. Chị cũng được tắm gội như thế nhưng chị lại rất thích, vì bây giờ da chị không ngứa ngáy nữa và những vết cắn trên người chị cuối cùng cũng bắt đầu lành. 
Mẹ bị cảm lạnh và bắt phải đem thức ăn đến tận gường cho bà, cùng với đồ ngọt để giữ cho cơn bệnh tránh xa. Sau đó hai mẹ con lại đến nhà thờ và chị cầu nguyện rất nhiều rằng sẽ không bao giờ phải gặp lại lão Arise. Hai mẹ con cũng phải ăn chay nữa, vì bà phu nhân kia muốn mẹ chị phải thanh mảnh hơn khi gặp cha em.

Mẹ chị không thích thú gì chuyện ăn chay, đến nỗi những người hầu phải nhốt bà vào buồng, mặc cho bà kêu gào cho đến khi mất giọng. Những người hầu không hề để ý. Họ không để ý cả những cơn tam bành của bà. Họ chẳng nói một lời nào. 
Hai mẹ con chị cứ sống như vậy, không gặp gỡ ai, cả thân thể lẫn tâm hồn đều được tẩy rửa 
Rồi sau đó cha em đến gặp hai mẹ con. Chị nghĩ là ông khá ngạc nhiên khi nhìn thấy vóc người của mẹ chị và mái tóc mỏng dính của bà. Bà nói với ông tất cả là do nỗi đau mất đi ông chồng thân thương của mình. Cha em đáp lại rằng ông hiểu rất rõ sức tàn phá của đau khổ, vì người vợ yêu dấu của ông mới mất được có ba tháng. Nước mắt dâng đầy lên mắt ông khi ông nói vậy. 
Chị không giỏi tính toán lắm, nhưng chị tin rằng hai mẹ con chị đã ở ngôi nhà đó trong vòng sáu tháng. Nếu đúng vậy thì điều đó có nghĩa là bà phu nhân nọ có thể biết trước tương lai, vì hẳn mẹ em vẫn còn sống vào cái ngày bà ta đến gặp mẹ chị ở nhà trọ.

Chị chỉ được gặp cha em có một lần trước lễ cưới. Ông có vẻ hài lòng khi thấy ngôi nhà sạch sẽ và mẹ chị không bốc mùi khó chịu mặc dù bộ răng của bà vẫn đen xỉn. Vậy là hai mẹ con chị đến London. 
Chị chắc rằng em sẽ không ưa gì chị vì đã đến ở nhà em sau khi mẹ em mới mất được ít tháng. Chị tự bảo mình không cần lo lắng nếu chuyện đó xảy ra thật. Thế rồi khi thấy em thật tử tế và dịu dàng, chị không tin nổi là Chúa Lòng Lành lại gửi đến cho chị một cô em gái như em. Chị biết rằng chị sẽ luôn luôn yêu quý em. 
Nếu chị có một điều ước vào cái ngày chúng mình gặp nhau lần đầu tiên, chị sẽ ước rằng mẹ chị chưa bao giờ bước chân vào nhà em. Chị biết rõ những cơn thịnh nộ của bà sẽ gây ra tai họa gì, và hằng đêm chị cầu nguyện Chúa hãy che chở cho chúng ta và đừng để lão Arise Fell đến đây. Chúa đã không đáp lại lời cầu nguyện của chị. 

Em đã biết những chuyện gì xảy ra sau đó, cho tới cái ngày khủng khiếp khi em bị cắt hết tóc. Sau khi lão Arise lôi em lên gác vào phòng làm việc và những tiếng nện thình thình đã ngưng lại, chị Joan và chị vội vã dọn dẹp nhà bếp rồi xiên thịt nướng, cả hai đều lặng lẽ cầu cho lão Arise sẽ cho phép em xuống bếp ăn tối. Chuyện đó không xảy ra. Cả ngày hôm sau cũng vậy, và chị không biết phải làm sao nữa. Chị van xin cả lão Arise lẫn mẹ chị tha cho em trước khi có điều gì bất trắc xảy đến, nhưng chị bị đánh một trận nên thân và bị quát rằng đừng có xía vào việc của người khác.

Cứ mỗi ngày qua đi, chị lại vạch một vạch lên cái xà trên gác xép. Chị vạch bảy vạch liên tiếp và đến chủ nhật thì lại gạch chéo chúng. Chị chỉ biết rằng đã có quá nhiều ngày chủ nhật trôi qua, và có lẽ em đã chết mất rồi. 
Chị Joan không bao giờ còn được như trước nữa sau chuyện của em. Chị ấy khóc lóc và than vãn cho số phận của mình, nói rằng không được trả lương, cho ăn hay cho ở một cách xứng đáng. Lão Arise lấy những thứ ít ỏi chị ấy có và ném chúng xuống sông. Lão bảo chị ấy gây nhiều phiền hà đến nỗi linh hồn chị ấy sẽ không bao giờ được cứu rỗi. 
Không lâu sau, chị Joan tội nghiệp sẩy chân trên cầu thang xuống tầng hầm và bị thương rất nặng. Lão Arise không chịu đi mời bác sĩ Turnbull. Thay vào đó, lão ta bảo chị ấy hãy cầu nguyện để Chúa Lòng Lành chữa khỏi cho mình. Chị đỡ chị ấy lên giường và chị ấy nằm đó rên rỉ trong đau đớn. Mẹ chị thở phì phò đi lên gác xép và quát tháo bảo chị ấy im miệng.

Chị Joan thấy đây là cơ hội duy nhất để thoát khỏi cảnh sống này, và chị ấy đã đón nhận nó. Chị ấy qua đời vào sáng hôm sau. Lão Arise và mẹ chị có vẻ rất sung sướng khi thi thể Joan được chở đi. Chị nhìn theo chị ấy và tin chắc rằng tiếp theo sẽ đến lượt chị. 
Sau đó, chỉ còn một mình chị chăm lo cho cả ngôi nhà lớn. Chị đã cố hết sức những có quá nhiều buồng, quá nhiều lò sưởi, quá nhiều cầu thang, đến nỗi chị mất hết cả ý niệm về thời gian. Chị không bao giờ được nghỉ ngơi hay yên tĩnh trong ngôi nhà này nữa và chị khiếp sợ nghĩ đến chuyện sẽ xảy ra với chị. 
Thế rồi mẹ chị và lão Arise thản nhiên bảo chị rằng người ta đã vớt được xác em và chị Dannes trên sông, và rằng mọi chuyện đã kết thúc. Trong thâm tâm, chị không tin họ nhưng chị ngậm chặt miệng không nói một lời. 
Cuộc sống cứ thế trôi đi. Đồ đạc bị bán dần ngôi nhà trở nên im lìm và lạnh lẽo. Lão Arise khóa kín các phòng và bỏ đến quán rượu, để lại mẹ chị cằn nhằn về số phận của bà, rằng thật không công bằng khi bà đã phải làm quá nhiều việc để rồi bị bỏ lại như thế. Hằng đêm, hai mẹ con nghe những tiếng kẽo kẹt và rên rỉ vang vọng trong nhà. Mẹ chị xưa nay chẳng bao giờ tưởng tượng cũng tỏ ra sợ hãi và hỏi chị xem đó là ai. Chị không biết trả lời ra sao, nhưng nỗi sợ của chị ngày một lớn hơn.

Mẹ chị vui vẻ hơn khi Tarbett Purmen đến London. Lần đầu tiên chị được cho đi chợ một mình để mua thức ăn mời khách. Lão Arise đánh chị trước khi chị đi, dọa là bàn tay thịnh nộ sẽ đợi chị ở nhà nếu chị dám lề mề. 
Đó là lần đầu tiên chị gặp anh Gabriel Appleby. Chị cuống lên sợ có người nhìn thấy bọn chị nói chuyện với nhau. Sau đó, chị rất ngạc nhiên khi anh ấy trèo qua tường khu vườn để đến gặp lại chị. Chị gần như không nói nổi nên lời, nhưng chị thu hết can đảm kể cho anh ấy biết mọi chuyện, kể cả điều tồi tệ nhất là chị nghĩ em đã chết. Anh ấy rất tốt bụng, chị chỉ muốn ngả đầu lên vai anh ấy, nhưng chị biết đôi chân chị sẽ chẳng bao giờ đi nổi. 
Thế rồi ông Thankless và viên thuyền trưởng xuất hiện trước cửa nhà.