Tôi là Coriander - Phần 4 - 22: Ngọn lửa xanh
- Đó là tất cả những gì chị muốn nói. - Hester kết thúc. - Chị hy vọng rằng những lời chị nói sẽ đủ sức mạnh để nói lên sự thật.
- Chị Hester, chúng còn làm được hơn thế nhiều. Chúng chứng tỏ rằng chị cũng dũng cảm và trung thực như cha chị vậy.
Mắt Hester đẫm lệ.
- Chị rất hối hận là đã không nói cho cha em biết sự thật. Cô nức nở.
- Ông sẽ không nghe chị đâu, dù chị có nói đến ngàn năm cũng vậy. Tất cả những gì ông nghe thấy là âm thanh của nỗi đau trong ông.
Những lời của Hester nói lên nhiều điều hơn cả sự thật. Chúng như những mũi dao xuyên vào lòng tôi.
Mẹ tôi vẫn còn sống khi Rosmore ra lệnh cho Maud kết hôn với cha tôi. Mụ ta có liên quan gì đến cái chết của mẹ? Tim tôi trĩu nặng, vì giờ thì tôi đã hiểu, rõ ràng như ánh sáng ban ngày, rằng khi đó mụ ta đang tìm kiếm chiếc bóng. Tôi không biết giờ nó đang ở đâu, bởi vì lần cuối tôi nhìn thấy chiếc bóng, nó trong chiếc hộp gỗ mun, mà tôi biết phòng làm việc giờ thì trống trơn.
Tôi mong cho Hester sớm lành bệnh để tôi có thể quay lại phố Thames.
Mùa đông trôi qua và mùa xuân trở lại trong sự chào đón của mọi người. Dòng sông tan băng và dâng tràn bờ mạn Southwark. Những người chở phà lại có việc làm sau một mùa đông băng giá.
Không chỉ có dòng sông đã tan băng. Những khách hàng đến hiệu may cũng trở nên cởi mở hơn trong khi lựa vải vóc hay đợi quần áo được sửa xong. Thậm chí họ còn dám cằn nhằn về việc cấm lễ Giáng Sinh và Cây Nêu tháng Năm [14]. Vào mùa xuân năm ngoái, những lời như thế bị coi là nguy hiểm. Tôi bắt đầu le lói niềm hy vọng là thời điểm này đã đủ an toàn để cha tôi trở về.
Ông Thankless trong một phút bốc đồng đã đem quyển Kinh thánh trên mặt quầy cất vào ngăn kéo và nói đến chuyện trưng tấm biển hiệu cũ lên, tấm biển có dòng chữ Được Hoàng Đế Bổ Nhiệm. Những quý ông nghiêm nghị hơn, khi đem những chiếc quần đen sì đến để sửa thì cãi lại rằng Cromwell là một con ngựa hùng mạnh, và rằng người ta đã nhầm nếu nghĩ rằng ông ta sẽ không lên ngôi vua.
- Tại sao chúng ta lại cần một ông vua khác trong khi chúng ta đã có một vị vua vẫn đang còn mạnh khỏe và đang phải sống trong cảnh nghèo rớt mồng tơi [15] ở Hà Lan chứ? - Những người khác nói.
Tôi rất thích nghe những câu chuyện họ nói với nhau. Như ông Thankless vẫn nói, không có gì có thể gợi chuyện tốt hơn là việc cắt sửa quần áo. Những chuyện phiếm đáng nghe nhất là về Arise và Maud và tôi lấy làm sung sướng khi nghe được cái thế lực hùng mạnh ấy đã sụp đổ như thế nào.
- Ai mà có thể tin được là bà ta lại để cho ngôi nhà rơi vào tình trạng ấy?
- Tôi nghe nói tất cả đồ đạc đã bị bán đi hết.
- Tôi thì muốn biết là bà ta đã nghĩ gì mà lại cho lão truyền giáo gù ấy ở cùng nhà?
- Thật đau lòng khi nhớ tới bà Eleanor Hobie, thật là một phụ nữ tốt bụng và đáng mến biết bao! Chính bà ấy đã chữa khỏi bệnh sốt rét cho tôi.
- Và cô con gái thì nằm liệt giường, không biết rồi có còn đi lại được nữa không.
Rồi họ thì thào:
- Thế còn chuyện về Coriander thì sao? Bà có giải thích được chuyện đó không, bà bạn thân mến?
Và cuối cùng, tất cả đều kết luận:
- Ông Hobie sẽ nói gì nếu ông ấy có mặt ở đây?
Một đêm rét cắt thịt, tôi bị Gabriel đánh thức dậy, nói là anh ta đã nhìn thấy một ngọn lửa xanh lục bốc ra từ nhà tôi. Tôi mặc đồ thật nhanh và đi xuống cửa hiệu ở tầng dưới. Từ cửa sổ sau nhà, tôi có thể nhìn thấy phố Thames rõ mồn một nhưng dường như không có gì lạ ở đó.
- Xin thứ lỗi cho tôi. - Gabriel nói. - Lẽ ra tôi không nên đánh thức cô, nhưng tôi xin lấy mạng mình ra mà thề là tôi đã nhìn thấy một ánh lửa xanh lục.
- Tôi tin anh. - Tôi nói, và sau khi khoác áo choàng, chúng tôi đi ra phố. Tất cả đều vắng lặng. Một lớp tuyết mỏng mịn như bột phủ lên những viên sỏi rải đường.
- Ai đó? - Chúng tôi nghe thấy tiếng người gọi. - Có phải là cậu đấy không hả Appleby?
- Vâng. - Gabbriel kêu to khi người canh đêm bước tới.
- Tôi cũng đoán thế mà. - Ông ta nói, giơ cao cây đèn lên. - Cậu đi với ai đấy?
- Coriander Hobie.
- Thế hai cô cậu ra đường làm gì vào một đêm như thế này?
- Tôi nhìn thấy lửa bốc lên ở phố Thames. - Gabriel nói.
- Tôi cũng vừa ở đó về. Tôi cũng thấy ánh lửa. - Người canh đêm nói. - Thật kỳ lạ hết sức. Nhưng theo như tôi biết thì không có đám cháy nào cả.
Tuyết bắt đầu rơi dày hơn khiến tôi run rẩy, răng va vào nhau lập cập.
- Hai cô cậu vào đi. - Người canh đêm tốt bụng đề nghị. - Ngoài trời lạnh quá, không đứng đây nói chuyện được.
Ông dẫn chúng tôi vào nhà mình và mời chúng tôi ngồi xuống trước một lò sưởi ấm áp.
- Tôi nói với các bạn, tôi sẽ rất sung sướng được thấy ánh sáng ban ngày. - Ông ta nói, đưa cho chúng tôi hai cốc rượu nóng pha đường, và nhìn quanh phố Cầu một lần nữa. - Tôi không nên nói ra điều này. - Ổng tiếp tục. - Nhưng tôi rất mừng có hai cô cậu làm bạn, vì đêm nay làm tôi sởn cả gai ốc, thậm chí còn làm lông trên cổ con chó của tôi dựng ngược lên. Chưa bao giờ tôi thấy nó như thế.
Con chó nằm bên lò sưởi nhìn ra cửa, trong khi ông chủ của nó kể cho chúng tôi nghe những gì ông đã thấy.
Người canh đêm vừa mới báo nửa đêm xong thì nghe tiếng một chiếc xe ngựa đi lên cầu từ phía Southwark. Ông ta tới đó xem sao vì xe chạy vút qua rất nhanh mà đường thì lại rất trơn vì có tuyết.
- Đã lâu lắm rồi tôi chưa được thấy một cỗ xe lộng lẫy như thế. - Người canh đêm nhớ lại. - Nó được kéo bởi bốn con tuấn mã đen tuyền tuyệt đẹp, còn người đánh xe thì mặc áo đỏ.
- Nó đi về hướng nào ạ? - Tôi hỏi, thấy một luồng ớn lạnh chạy dọc sống lưng.
- Chính điều ấy đã khiến tôi nghĩ đó là cỗ xe của quỷ dữ. - Người canh đêm nói. - Nó biến mất, đúng vậy, khi đến phía bên kia cầu. Xin Chúa chứng giám, tôi không bịa đâu, nó không để lại một dấu vết nào trên tuyết, không có gì cho thấy nó vừa đi qua. Bà vợ tôi, bà ấy tin vào những chuyện thần tiên, nhưng tôi thì không. Tôi không có thời giờ tin vào những chuyện vớ vẩn ấy, nhưng tôi không thể hiểu nổi những gì tôi nhìn thấy đêm nay nữa.
Tim đập mạnh, tôi hỏi:
- Thế chiếc xe có xuất hiện trở lại không ạ?
- Không.
- Thế bác còn nhìn thấy gì nữa không? - Gabriel hỏi.
- Một con quạ. Tôi nhìn thấy một con quạ, đúng vậy. - Người canh đêm nói. - Một con quạ lớn đen sì bay theo sau chiếc xe. Cô cậu nghĩ thế nghĩa là sao?
Tôi nghĩ điều đó nghĩa là gì ư, tôi không thể nói với ông ấy được. Những điều ông ấy vừa kể khiến tôi vô cùng sợ hãi.
- Lạ thật! - Gabriel nói.
Chúng tôi đang chào tạm biệt nhau thì một người tuần tra xuất hiện ở cửa. Ông ta có vẻ lo lắng lắm.
- Ông có nhìn thấy ánh lửa xanh bốc lên từ phố Thames không? - Ông ta hỏi
- Có. - Người canh đêm trả lời. - Cả cậu Appleby trẻ tuổi này cũng thấy.
- Quả là kỳ lạ. Viên tuần tra nói. - Tôi vừa từ đó về, nhưng không thấy có đám cháy nào cả. Những người ở đó nói họ cũng nhìn thấy ánh lửa xanh, và cả một chiếc xe ngựa màu đen đỗ bên ngoài ngôi nhà nữa.
- Ông có nhìn thấy cỗ xe không? - Gabriel hỏi.
- Không. - Viên tuần tra đáp. - Và tôi không cho là có chiếc xe ngựa nào cả, trên tuyết làm gì có vết bánh xe.
Chúng tôi để người canh đêm và viên tuần tra nói chuyện với nhau, quay lại hiệu may. Khi xoay nắm đấm cửa, tôi giật thót người vì nghe thấy một tiếng quàng quạc. Tôi quay lại và nhìn thấy con quạ đen đang bay qua sông. Chưa bao giờ tôi khiếp sợ đến thế, bởi tôi biết, tôi đã biết lúc nghe người canh đêm kể về cỗ xe ngựa, rằng đó không phải là ai khác ngoài hoàng hậu Rosmore đang đi tìm kiếm chiếc bóng.
- Cô có sao không? - Gabriel hỏi. - Trông cô tái lắm. Cô sợ à?
- Không. Chỉ là tôi hơi mệt thôi.
Tôi đáp và trở lại giường. Nhưng giấc ngủ không quay lại nữa. Tôi nằm đó suy nghĩ xem nên làm gì, và biết rằng chẳng còn thời gian nữa... Tôi phải quay lại nhà mình trên phố Thames, nhưng bằng cách nào?
Tôi nhớ cha tôi có lần đã nói rằng dòng sông không bao giờ đứng yên, rằng nó không ngừng thay đổi, mỗi đợt thủy triều lại đem đến một thứ gì mới và cuốn đi những thứ cũ, mặc dù trên bề mặt thì không có gì khác cả. Tôi cũng vậy. Đúng lúc tôi cảm thấy mình đang ở đợt thủy triều thấp nhất, đúng lúc tôi không biết phải làm gì, thì mọi chuyện lại thay đổi. Bởi vì có một người vừa bước vào cửa hàng của ông Thankless: chị Danes.
Vậy là phần truyện thứ tư của tôi đã được kể lại, và cùng với nó, một ngọn nến nữa đã tắt.
[14] Cây cột cao bằng gỗ, được trang trí bằng dải lụa hoa, dây bo... theo truyền thống của hầu hết các nước châu Âu
[15] Nguyên văn nghèo như một con chuột trong nhà thờ