Tôi là Coriander - Phần 5 - 25: Bộ quần áo mới

Tôi hiểu ngay chuyện gì xảy ra. Hester đã bị bắt cóc và đưa về phố Thames. 
- Nhưng tại sao chứ? - Ông Thankless băn khoăn. - Giờ thì chúng còn muốn gì ở Hester nữa? 
- Chúng muốn con bé im miệng. - Chị Danes nói, mặt tối sầm lại. 
- Đây chính là điều mà bấy lâu tôi vẫn lo sợ. - Gabriel nói. - Tôi sẽ giết chúng! 
- Bình tĩnh lại, Gabriel. - Chị Danes nói một cách cương quyết và lấy một cái lọ con từ trong túi tạp dề ra. - Hãy uống cái này đi. 
Gabriel làm theo và ngồi phịch xuống, hai tay ôm đầu. 
- Tôi yêu cô ấy. - Anh nói. - Tôi không thể sống thiếu cô ấy. 
- Tôi biết. - Chị Danes nói. - Và chúng ta sẽ cứu được cô ấy, có điều trước hết phải vạch ra một kế hoạch đã. Không thể thắng trận nếu không có kế hoạch định sẵn. 
Gabriel ngẩng lên.

- Tôi chẳng có một phương kế nào. - Anh rầu rĩ nói. 
- Tôi có một cách. - Tôi lên tiếng. - Và để thực hiện được nó thì tôi cần một bộ quần áo con trai vừa vặn và một chiếc mũ để giấu tóc vào. 
Nell bật cười, nhưng khi thấy vẻ mặt nghiêm nghị của mọi người, chị ta ngừng lại. 
- Rồi sau đó thì sao? - Ông Thankless hỏi. 
- Cháu sẽ đi thuyền đến cửa cống ở nhà cháu và xem xem có chui vào từ đường đó được không. Cháu biết rõ Hester bị nhốt trong buồng nào. 
Ông Thankless bắt đầu đi đi lại lại, và trong một khoảnh khắc đáng sợ, tôi đã nghĩ ông sẽ từ chối. 
- Nếu vậy, Gabriel phải đi cùng với cháu. Ta không chịu để cháu đi một mình đâu. Như thế quá nguy hiểm. 
- Coriander, nếu cô nói đúng và chúng đã bắt được Hester thì cô nghĩ chúng sẽ làm gì nếu chúng bắt được cả cô nữa? - Gabriel nói. - Không, hãy cho tôi biết ngôi nhà được sắp đặt như thế nào, cô ấy sẽ bị nhốt ở đâu, và tôi sẽ tự đi lấy. 
- Anh cần có tôi ở đó. - Tôi nói, cố gắng giữ cho giọng mình thật vững vàng, bởi đây là cơ hội mà tôi hằng mong đợi. Tôi không thể để nó tuột mất. Tôi phải quay lại đó để tìm chiếc bóng. Tôi phải làm vậy. 
- Gabriel, hãy im lặng nghe xem kế hoạch của Coriander ra sao. - Ông Thankless nghiêm giọng nói. Bỗng nhiên tôi lại thấy hy vọng chớm lên.

- Ông có thể thuê một chiếc thuyền cho chúng cháu không? - Tôi hỏi. 
Ông Thankless gật đầu. 
- Ta có một ông bạn tên là Starling. Ông ấy có thể giúp được chúng ta. Cháu có chắc chắn về chuyện này không, Coriander? 
Tôi những muốn hét lên "Có, có, có", nhưng rồi tôi cũng thốt ra được câu trả lời một cách bình tĩnh. 
- Nếu vậy thì chúng ta nên bắt tay vào làm ngay thôi. - Ông thợ may nói. 
Trong khi quần áo của tôi được chuẩn bị, tôi hết sức cẩn thận vẽ ra bản đồ ngôi nhà của mình để cho Gabriel ghi nhớ. Chúng tôi xem đi xem lại tấm bản đồ thật kỹ lưỡng. 
- Đây là cầu thang dẫn lên gác xép. - Tôi giảng giải. 
- Phải, và cánh cửa phía bên trái này là cửa buồng cũ của cô. - Gabriel nói, ngón tay dò trên tấm bản đồ. 
- Và bậc thang ở chỗ cái chiếu nghỉ thứ hai thường kêu kẽo kẹt. - Tôi nói thêm, 
- Cả bậc thứ sáu nữa. - Anh nói. 
- Đúng rồi! 
- Tôi cảm thấy đã nắm rõ ngôi nhà như lòng bàn tay vậy. - Gabriel tự tin nói. Sự thật là tôi không dám chắc như thế, bởi vì tôi đã rời nhà quá lâu, nhưng tôi giữ kín ý nghĩ đó trong lòng. 
Chị Danes cẩn thận mặc đồ cho tôi. Tóc tôi được giấu dưới một chiếc mũ và làn da trắng xanh của tôi được làm cho sẫm đi bằng dầu óc chó. Tôi chấm thêm chút dầu quanh cằm và má giả làm dấu vết của một bộ râu. Và khi nhìn vào gương, tôi thấy phản chiếu lại không phải là bản thân mình mà là một chàng trai trẻ.

Ngay cả Gabriel cũng phải nhìn kỹ lại khi tôi bước vào cửa hàng, cố bắt chước dáng đi của anh. 
- Coriander đấy ư? - Anh ngập ngừng hỏi. 
- Chính tôi đây, Gabriel. - Tôi nói. 
- Chà, trông cô ra dáng một chàng trai lắm! 
Còn Nell vốn ở trên gác suốt thời gian tôi chuẩn bị, khi bước vào cửa hiệu bèn bắt đầu õng ẹo làm duyên làm dáng. Chị ta đỏ bừng mặt khi nhận ra tôi là ai. 
- Ôi trời ơi, ai mà biết được! - Chị kêu lên. - Cô đã biến thành một anh chàng thật điển trai, thưa tiểu thư, còn hơn cả cậu Appleby nữa kia! 
Và lần đầu tiên trong cái ngày khủng khiếp ấy, Gabriel, mặc dù đang lo lắng, cũng phải mỉm cười. 

Trời đã tối và mưa vẫn trút khi chúng tôi ra đi. Tôi rất hồi hộp. Ông Thankless và chị Danes lo lắng dõi theo chúng tôi cùng bước xuôi phố Cầu về phía nhà thờ Thánh Magnus. 
- Cô cầm lấy cái này. - Gabriel nói khi chúng tôi đến đầu phố Thames. Anh trao cho tôi một con dao găm. Tôi sững sờ trước lưỡi dao sáng lóe đến nỗi suýt đánh rơi nó.

- Chỉ để đề phòng thôi. - Gabriel thì thầm. 
Tôi đi theo anh, cố hết sức để sải bước thật dài. Cái cảm giác được tự do vận động, không vướng víu trong váy áo thật tuyệt, tuy nhiên, sức nặng của con dao găm và ý nghĩa của tất cả những việc này nhắc cho tôi nhớ rằng đây không phải là trò chơi. 
Chúng tôi đi qua quán rượu, bước xuống những bậc thang dẫn ra sông, và bỗng nhiên tôi thầm ước rằng mình đang ngồi trong kia uống bia và lắng nghe những câu chuyện phiếm của người lái đò, thay vì phải đối mặt với nhiệm vụ trước mắt. 
- Cô sẵn sàng chưa? - Gabriel hỏi. 
Tôi gật đầu. 
- Cô biết là cô vẫn còn có thể quay lại mà. - Anh nói. - Vẫn chưa muộn để thay đổi ý định đâu. 
Tôi lắc đầu, không dám lên tiếng vì sợ giọng nói sẽ phản lại mình. 
- Mọi thứ đều ổn cả chứ, ông Starling? - Gabriel hỏi. 
Ông ta cáu kỉnh đáp: 
- Hai người nói xem, có ai muốn đi trên sông giữa tiết trời như thế này không? Xin thưa là không! Khi mà cũng với số tiền như vậy, không hơn không kém, người ta có thể thuê lấy một chiếc xe ngựa mà đi cho khô ráo. 
Gabriel đưa cho ông Starling một túi tiền. Ông ta đổ những đồng tiền lên lòng bàn tay to tướng của mình.

- Ngài thật tử tế, thưa ngài. Tôi rất lấy làm cảm kích. - Ông ta nói và đưa cho Gabriel chiếc đèn. 
- Chúng tôi sẽ quay lại trước khi người rung chuông điểm mười hai giờ. - Gabriel nói, trèo vào thuyền. 
- Chàng trai này là ai vậy? - Ông Starling hỏi và nhìn tôi chăm chú. 
- Cậu học việc mới. - Gabriel đáp, và tôi trèo lên thuyền, lóng ngóng vì không được ai đỡ. 
- Trông có vẻ miệng còn hôi sữa lắm.- Người chủ thuyền nói và cười to khi ông ta bước lên bờ, đi về phía quán rượu. - Đừng có đưa mái chèo cho hắn ta, không thì cậu không về nhà nổi đâu! 

Sông Thames có một vẻ gì đó đáng sợ mà từ trên đất bằng an toàn, ta không thể thấy được. Nó là một dòng nước hoang dại và man rợ với ý muốn của riêng mình, không hề bị thuần phục bởi đôi dải bờ sông. Tôi bắt đầu hiểu ra điều này khi chúng tôi bị cuốn xuôi dòng bởi sức mạnh khủng khiếp của đợt thủy triều dữ dội. 
Gabriel chèo, cố giữ cho con thuyền sát bờ, tránh khỏi tầm mắt từ những ngôi nhà ở hai bên sông. Mưa đã tạnh nên các cửa sổ đều được mở toang ra để đón hơi đêm mát rượi, tiếng trò chuyện lao xao vọng xuống cùng với ánh nến. Một con chó cất tiếng sủa, và có tiếng con khác đáp lại.

Nhà của tôi không có ánh đèn. Cửa cống đứng đó, trơ trọi và ẩm ướt, các bậc thang bị phủ một lớp rêu xanh nhớp nháp. 
- Có lẽ họ không có nhà. - Tôi nói. 
- Có đấy. - Gabriel trả lời. 
Chúng tôi buộc thuyền song song với cửa cống. Gabriel đứng dậy và thử nhấc cánh cửa lên. Nó không động đậy. Anh lại ngồi xuống vẻ chán nản. 
- Giờ thì sao đây? - Anh hỏi. 
Bỗng nhiên một luồng ánh sáng màu xanh lục phát ra từ cửa sổ phòng làm việc và lóe lên trên mặt sông. Gabriel vội tắt đèn và chúng tôi kéo con thuyền ra xa cửa cống để nhìn cho rõ hơn. Chúng tôi cùng ngước nhìn ngôi nhà, không dám tin vào những gì mình vừa thấy. Thế rồi tia sáng xanh lại xuất hiện, lóe sáng từ cửa sổ và cắt ngang mặt nước như một lưỡi dao. 
Như thể đọc được ý nghĩ của tôi, Gabriel quay con thuyền trở lại cửa cống và lần này chúng tôi ráng hết sức kéo như thể mạng sống của mình phụ thuộc vào đó vậy. Trong một thoáng, tôi sợ con thuyền sẽ bị lật, nhưng rồi chúng tôi cũng giữ vững được nó và phát hiện ra rằng cánh cửa có thể được nhấc lên đủ rộng cho chúng tôi bò qua. Chúng tôi chui vào, cố cúi đầu thật thấp. Bập bềnh, bập bềnh, sóng sông vỗ vào những bậc thang và những bức tường. Gabriel thắp lại đèn khi một vật gì trượt xuống các bậc thang và rơi tõm xuống nước.

- Cái quái gì vây? - Gabriel kêu lên, quay lại phía sau và giơ ngọn đèn lên cao. 
Một con chuột cống ngồi nhìn chúng tôi chằm chằm trước khi chạy vụt đi. 
Thật khó tin rằng cái nơi tối tăm, ẩm thấp này, với những dấu vết thủy triều để lại bám vào nền đá trước kia trắng muốt, lại từng là nơi chứng kiến bao nỗi phấn khích, bao niềm hạnh phúc. Giờ nó chỉ còn là một nơi bị ruồng bỏ, bị ma ám, với dòng nước đen thẫm cuộn xoáy dưới đáy thuyền của chúng tôi. 
- Chúng ta tìm thấy Hester sớm chừng nào thì càng có thể ra khỏi đây sớm chừng ấy. - Gabriel thì thào nói, buộc thuyền vào một chiếc cọc. 
Chúng tôi đi tới những bậc thang dẫn lên cửa vào nhà. Tôi ngạc nhiên thấy nó bị khóa. Trong một thoáng, tôi chỉ có thể nghĩ rằng kế hoạch của chúng tôi đã đổ bể ngay từ lúc mới bắt đầu. Rồi tôi nhớ ra nhà tôi vẫn luôn có một chiếc chìa khóa dự phòng. Tôi đưa tay lên gờ tường, nơi có một viên đá rỗng, và nhẹ cả người khi ngón tay tôi tìm thấy chiếc chìa khóa giấu ở đó.

Gabriel thận trọng cắm chiếc chìa khóa vào ổ và khẽ xoay. Nó phát ra một tiếng cách, vang lên trong tai chúng tôi tựa một tiếng sấm, và tôi dám chắc lão Arise sẽ xuất hiện trước mặt chúng tôi bất cứ lúc nào với thanh gươm tuốt trần trong tay. Chúng tôi chờ đợi, tim đập thình thịch. Không nghe thấy âm thanh gì khác lạ, chúng tôi mở cửa và bước vào tiền sảnh tối om. 
Nếu như có một ngôi nhà biết than khóc cho bản thân thì hẳn là ngôi nhà này, mục nát vì bụi bẩn và quên lãng. Một mùi mốc meo bốc lên. Rõ ràng nó đã không được quét dọn từ khi Hester ra đi. 
Mặc dù tôi biết rõ ngôi nhà suốt cả đời mình, mắt tôi vẫn phải mất một lúc mới quen được với bóng tối và nhận ra hình dáng quen thuộc của tiền sảnh. Đột nhiên, trước sự kinh hoàng của chúng tôi, cửa buồng làm việc bật mở và ánh sáng tràn ra. Tim tôi gần như ngừng đập, bởi vì tôi dám chắc đã có người nghe thấy tiếng chúng tôi và đang đi ra xem có chuyện gì. Chúng tôi đứng như trời trồng, thậm chí còn không dám thở, nhưng rồi không có gì xảy ra, không người nào xuất hiện. Gabriel thở phào nhẹ nhõm và xiết chặt tay tôi trước khi chạy lên gác, nhanh nhẹn và êm ru như một con mèo.

- Thưa bà, - tôi nghe thấy một giọng nói vang ra từ phòng làm việc, - những người bạn tốt của tôi đây có thể có thứ bà muốn, nhưng họ cảm thấy chưa được trả công xứng đáng với những rắc rối mà họ đã phải trải qua. 
- Tarbett Purman, - một giọng nói vang lên, tôi nhận ra là giọng của Rosmore, - chẳng phải ta đã đưa con gái của Maud về cho mụ ta, để các ngươi muốn làm gì thì làm đấy sao? Chẳng phải ta đã cho hai kẻ trần tục khốn khổ này tất cả những gì chúng muốn, thậm chí còn hơn thế nữa, suốt thời gian vừa qua đấy sao? Ta chỉ đòi lại một vật duy nhất là chiếc bóng. Nó đâu rồi? 
Tôi chăm chú lắng nghe đến nỗi không nhận thấy những âm thanh phát ra từ cánh cửa phía sau tôi, nhưng khi sự im lặng bao trùm căn phòng thì tôi có thể nghe được một tiếng móng chân cào sột soạt trên những bậc đá. Tôi bắt đầu thấy nghi ngờ lòng can đảm của mình khi tiếng động đó trở nên lớn hơn và cánh cửa bị xô đẩy như thể một con quái vật khủng khiếp nào đó đang tìm cách xông vào. 
Tôi sợ chết khiếp, một nỗi sợ khiến cho mọi thứ khác đều giống như một luồng sáng chói lòa. Tôi nhắm nghiền mắt, nắm chặt chuôi dao găm và cố gắng để không thét lên.

- Nó ở đó! - Tôi nghe Maud kêu lên. 
- Cái gì ở đó? - Rosmore hỏi. 
- Không, không có gì cả. - Lão Arise đáp lại, giọng gần như nghẹn ngào. 
- Đừng có đánh lừa ta, con chồn đạo đức giả kia! Nhà ngươi biết rõ có cái gì ở đó. 
Một tia chớp xanh nữa lóe lên và tôi thấy Arise Fell quỳ sụp xuống. 
- Xin bà đừng làm thế nữa. - Lão van xin. - Không phải lỗi tại tôi. Bà hãy nhắm tia chớp xanh của bà về phía ông Purman ấy. Chính ông ta đã làm hỏng hết mọi việc. 
- Đứng lên, đồ bị thịt thối tha, và cho ta biết nhà ngươi đã làm gì với chiếc bóng. 
Giọng nói của Arise để lộ ra nỗi khiếp sợ của lão. 
- Tôi đã sắp sẵn nó cho bà, nhưng rồi nó lại rơi vào miệng con cá sấu nhồi. 
- Tôi cố lấy lại nó. Lão Tarbett Purman cắt ngang. - Nhưng than ôi, thưa bà, con cá sấu ấy dường như đã sống lại và cắn phập vào tay tôi. Đau quá, tôi chỉ biết giãy cho nó rơi ra, nhưng đáng buồn là nó lại rơi ra ngoài cửa sổ. 
- Thế bây giờ nó ở đâu? - Mụ ta rít lên. 
- Ở dưới đó ạ. - Maud đáp, chỉ về nơi tôi đang trốn trong bóng tối của tiền sảnh. - Càng ngày nó càng lớn lên thêm. Và nó không chịu ngừng lại. Mỗi ngày nó lại xô vào cửa mạnh hơn. 
Tôi gần như chắc rằng Rosmore sẽ bước ra tiền sảnh và tự mình đi tìm con cá sấu. Nếu như vậy thì tôi coi như xong đời.

- Chắc chắn bà sẽ bắt được nó. Bà có rất nhiều quyền lực mà. - Maud run rẩy nói. 
- Không, mụ kia. - Rosmore nói. - Ta không thể, và ta sẽ không bắt nó lại, nhưng các ngươi thì phải làm. 
Một ánh sáng xanh lục lóe lên qua sàn nhà và tôi thấy Arise, Maud và Tarbett co rúm lại khi đôi cánh và móng vuốt khổng lồ của một con quạ nhào xuống họ. Cronus! 
Đúng lúc đó thì Hester và Gabriel bước xuống cầu thang. 
- Nhanh lên! - Gabriel túm lấy tay tôi. 
- Ai ở đó? - Rosmore quát. - Tarbett, hãy ra xem để biết chắc cô dâu của ngươi không trốn mất lần nữa. 
Tôi định nhắc Gabriel đừng mở cửa dẫn xuống cửa cống, nhưng mọi việc xảy ra quá nhanh. Anh đẩy cánh cửa ra và ra hiệu cho chúng tôi bước xuống bậc thang. Tôi không thấy bóng con cá sấu đâu, chỉ thấy bóng trăng soi xuống mặt sông. Hester và tôi trèo vào thuyền, Gabriel cầm lấy cái mái chèo trong khi tôi đẩy mạnh chiếc thuyền khỏi những bậc thang về phía cửa cống. 
Quá muộn. Con quạ đã bay tới với tiếng kêu dữ tợn, bổ nhào xuống đầu chúng tôi. Gabriel nhấc một mái chèo lên, lấy hết sức khua thật mạnh, và chiếc thuyền bắt đầu xoay vòng vòng. Con quạ lập tức bay vọt lên phía trên chúng tôi, sẵn sàng tấn công. Bỗng làn nước tối đen chuyển động và tôi thấy một bộ hàm trắng ởn đầy răng sắc nhọn cắn vào sợi dây buộc thuyền của chúng tôi.

- Ngồi xuống! - Tôi hét. May mà tôi hét lên kịp lúc. Bởi vì ngay sau đó con thuyền trôi vút đi như thể được đầy bởi một cỗ máy kỳ diệu. Chúng tôi cúi thấp xuống và chui qua cửa cống ra dòng chảy chính của con sông bên ngoài. Con quạ lượn tròn và vỗ cánh liên hồi, nhưng nó nhanh chóng bị tụt lại phía sau. 
Gabriel chộp lấy mái chèo. Khi anh làm vậy, tốc độ khủng khiếp của chúng tôi giảm dần, chẳng mấy chốc anh đã điều khiển được con thuyền. Tôi thấy mặt nước nhấp nhô và một vật sẫm tối bơi ngược dòng trở lại. 
- Cái quái quỷ gì vừa mới xảy ra vậy? - Gabriel hổn hển hỏi. 
- Tôi không biết. - Tôi nói dối. - Cái chính là chúng ta đã tìm thấy Hester và chị ấy vẫn còn sống và mạnh khỏe. 
Chúng tôi dừng lại bên cầu đúng lúc người rung chuông điểm mười hai giờ. 
- Đây đúng là điều tôi muốn thấy, một chàng trai biết giữ lời! Cậu nói mười hai giờ là đúng mười hai giờ! - Ông Starling nói và vỗ mạnh lên lưng Gabriel. - Có vẻ cậu đã hoàn thành công việc một cách tốt đẹp đấy nhỉ. - Ông mỉm cười với Hester.

- Đúng vậy, thưa ông. - Gabriel nói, quàng tay ôm Hester và mỉm cười sung sướng. 
Chúng tôi chào tạm biệt nhau trên những bậc thang và sắp đường ai nấy đi thì nghe thấy một tiếng kêu vang vọng trên mặt nước. 
- Cái gì thế? - Tôi kêu lên, quay lại nhìn dòng sông. 
Tất cả chúng tôi cùng đứng lại lắng tai nghe. 
- Chắc là ai đó cãi cọ đấy thôi. - Gabriel nói. 
Một tiếng thét khủng khiếp xuyên qua màn đêm tĩnh lặng, và tiếp sau đó là một sự im lìm quái gở.