Tôi là Coriander - Phần cuối - 31: Trở về

Vậy là chiếc bánh xe đã quay đủ một vòng và tôi thấy mình trong phòng làm việc của cha. Bằng một cách bí hiểm nào đó, những đồ đạc cũ đã được đặt trở lại chỗ của chúng. Con cá sấu nhồi lại là vị chúa tể của chiếc tủ mun, và chiếc rương của mẹ tôi lại được đặt bên dưới ô cửa sổ mắt cáo. Thật lạ biết bao khi nhìn thấy cảnh ấy! Tôi tự hỏi không biết cái chết của Rosmore có liên quan gì đến sự thay đổi này không. 
Tôi nhìn quanh căn phòng, cảm thấy như mình đang đứng bên ngoài thời gian, không rõ chiếc kim đồng hồ đã đi tới hay quay ngược lại. Một ngọn lửa đang bập bùng trong lò, và tôi nghĩ hẳn bây giờ mới là đầu năm, nếu như vẫn còn cần đến củi và than để sưởi ấm.

Tôi nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài cửa phòng làm việc và vội trốn vào đằng sau chiếc tủ mun, băn khoăn không biết ai sẽ mở cửa. Tôi hoàn toàn kinh ngạc khi thấy người bước vào là cha tôi. Ông mặc đồ làm việc như thường ngày và cầm trong tay một chồng thư, ông đang đọc một lá thư trong số đó. Ông trông già hơn tôi nhớ, mái tóc ngả bạc và gương mặt cũng có vẻ dãi dầu hơn. 
- Cha! - Tôi thì thầm và ông quay phắt lại, cũng kinh ngạc khi thấy tôi chẳng kém gì tôi khi thấy ông ban nãy. Các thứ giấy tờ tuột khỏi tay ông và bay lên không trung. Chúng tôi đứng đó như hai người xa lạ, nhìn nhau trân trối. Tôi nghe thấy tiếng đồng hồ ngoài tiền sảnh điểm giờ, và biết rằng tôi đã thực sự trở lại với thế giới này. 
Ông khẽ hỏi, như nói với một bóng ma: 
- Coriander đấy ư? - Ông bối rối nhìn tôi với vẻ vẫn chưa dám tin vào những gì mình thấy. - Cha đang mơ chăng, hay thực sự là con đấy, mà lại ăn mặc kỳ lạ như vậy? 
- Là con đây cha. - Tôi đáp. - Con đã về đây. 
Một cách thận trọng, bằng những bước ngập ngừng, ông tiến về phía tôi và ôm tôi vào lòng. Chỉ khi thấy tôi là người thật bằng xương bằng thịt, ông mới khóc òa lên.

- Cha tưởng cha đã mất con. - Ông nức nở. - Cha tưởng cha đã mất con. 
Có tiếng gõ cửa. Cha tôi quay nhanh đi, lục tìm một chiếc khăn tay và hỉ mũi. 
- Ai đó? 
- Là Danes đây, thưa ông chủ. 
Cha tôi đi ra cửa. Đứng chắn trước mặt tôi, ông mở cửa ra vừa đủ rộng cho chị bước vào rồi đóng sập nó lại. 
- Có chuyện gì vậy, thưa ông? Ông không sao chứ ạ? Mấy lá thư của ông sao vậy? 
Ông tránh sang một bên và chỉ vào chỗ tôi đang đứng. 
- Ối trời ơi! - Chị Danes kêu lên, lao tới bên tôi. - Chẳng phải tôi vẫn nói với ông là cô bé sẽ quay lại với chúng ta đấy sao? Ôi, chim sẻ nhỏ của chị, chị biết em sẽ không bay mất đi vĩnh viễn đâu mà. Nhưng sao em lại vẫn ăn mặc như con trai thế? 
- Không có thời gian để giải thích đâu. Chúng ta phải lấy quần áo khác cho con bé thay ngay. - Cha tôi giục giã. 
Đã quá muộn. Một tiếng gõ nữa vang lên ngoài cửa. 
Cha tôi chạy tới để ngăn không cho người kia vào phòng, nhưng chẳng ích gì. Bà Bedwell đã đứng đó, bên cạnh là cô bé tay cầm một chiếc giỏ. 
- Tôi chỉ đến để chào tạm biệt thôi, anh Thomas. - Bà Bedwell nói. 
- Chị Patience. - Cha tôi lên tiếng, cố tìm cách ngăn không cho bà ấy bước hẳn vào phòng. - Chị đã tìm thấy đứa bé chưa?

- Tôi thấy rồi, thật là một chú bé khỏe mạnh xinh xẻo. Trông nó giống hệt... - Bà ngừng lại, nhìn thấy những lá thư vương vãi trên sàn. - Anh không sao chứ, Thomas? 
- Bà hỏi vẻ lo âu. - Trông mắt anh hơi đỏ đấy. Tôi hy vọng là không có tin xấu gì chứ? 
- Không, không, mọi chuyện đều ổn cả, cảm ơn chị. Để tôi tiễn chị ra cổng. 
- Anh kia là ai thế? Sao anh ấy lại phải trốn? - Cô bé hỏi, chỉ vào tôi. 
Bà Patience Bedwell nhìn sang tôi và miệng bà trễ xuống vì kinh ngạc. 
- Chị hẳn còn nhớ Coriander? - Cha tôi nói. 
- Chắc chắn rồi. - Bà bối rối đáp lại. - Được gặp lại cháu thật là tuyệt. - Bà ngừng lại, nhìn kỹ hơn bộ dạng của tôi. - Nhưng trời ạ, sao cháu lại ăn mặc kỳ lạ thế kia? 
Cha tôi vội xem vào: 
- Coriander vừa từ nông thôn lên. Chúng tôi nghĩ sẽ an toàn hơn nếu cho cháu ăn mặc như thế này khi đi đường, để tránh gặp nguy hiểm. 
- Ôi, lạy Chúa, chính thế! - Chị Danes nói. - Tôi đã nghe không biết bao nhiêu câu chuyện khủng khiếp về những tên lang thang, cướp đường và tệ hơn thế nữa. Không thể không cẩn thận trong thời buổi loạn lạc này. 
- Đúng là như vậy. Thế có tin tức gì về họ hàng của gia đình ta không? 
Tôi cố tỏ ra là mình có biết bà ấy đang nói về chuyện gì.

- Ông ấy bình phục được thật là kỳ diệu! - Chị Danes nói. 
- Đúng thế. - Cha tôi nói. - Nhờ ơn Chúa Lòng Lành, ông ấy đã qua khỏi ngay trên chiếc giường lâm chung của mình! 
Bà Bedwell tỏ ra còn bối rối hơn khi cha tôi và chị Danes cùng thêu dệt nên một câu chuyện, vừa dài vừa lủng củng. Nghe họ nói cũng giống như ngắm hai con cá quẫy trên bờ, cố tạo ra một dòng sông từ một vũng nước vậy. 
Hai mắt bà Patience Bedwell mở lớn tựa hai cái đĩa. 
- Một câu chuyện mới kỳ lạ làm sao! Hai người làm tôi nghẹt thở đấy! - Bà nói. - Dù sao thì cũng thật mừng được gặp lại cháu Coriander. Edmund thân yêu vẫn thường hỏi thăm cháu đấy. Nó sẽ rất vui biết cháu đã trở lại. Nói cho ta biết, - bà nói tiếp, - cháu nghĩ gì về em bé? 
Một lần nữa tôi lại không biết phải nói gì. Có chết tôi cũng không thể biết được bà ấy đang nói về em bé nào. 
- Rất đáng yêu ạ. - Tôi nói, hy vọng rằng đây là câu trả lời đúng. Thường trẻ con đều đáng yêu cả mà. 
- Giờ thì ngài Hobie, anh phải đưa Coriander tới nhà chúng tôi ăn cơm mới được, nhưng có lẽ không phải với bộ quần áo này. - Bà cười. - Thứ tư được không? Có rất nhiều chuyện để nói đấy. Edmund sẽ rất mong được gặp cháu và nghe về những chuyến du lịch của cháu.

- Chúng tôi rất vui lòng. - Cha tôi đáp. 
- Đi nào, Sarah. - Bà Bedwell nói với cô bé từ nãy đến giờ vẫn đứng nguyên tại chỗ, miệng há hốc ra nhìn tôi. 
- Chị lấy đâu ra đôi hài bằng bạc ấy thế? - Cô bé hỏi. 
Tôi đáp lại rằng chúng được làm riêng cho tôi. 
- Đi nào! Chị Danes sốt ruột nói. - Để tôi tiễn hai mẹ con. 
Rồi chị gấp rút dẫn họ ra khỏi phòng. 
Cha tôi đóng sầm cửa sau lưng họ và tựa lưng vào đó. Ông nói: 
- Cha nghĩ là bà ấy tin chúng ta! 
Hai cha con tôi cười phá lên. 
- Em bé. - Tôi nói. - Cha, cho con biết ai vừa sinh em bé vậy? 
- Trước hết, - cha tôi đáp, - con nói cho cha biết làm sao con lại tìm được đôi hài bạc của con đã.