Tôi là Coriander - Phần cuối - 33: Đức vua vạn tuế

Tối hôm đó, sau khi đã tắm rửa và thay quần áo sạch, tôi đến ngồi với cha trong phòng làm việc của ông, bên ngọn lửa ấm áp. Tôi thầm nghĩ chúng tôi cũng giống như hai người lữ khách vừa trở về từ những nơi xa xôi và kể cho nhau nghe về những chuyến đi của mình để rồi phát hiện ra rằng hai tấm bản đồ của chúng tôi lại trùng nhau. 
- Con có tha thứ cho cha không? - Ông hỏi. 
- Tha thứ chuyện gì ạ? 
- Chuyện cha đã bỏ con lại với Maud và lão truyền giáo ấy. 
- Cha đâu biết bọn họ sẽ gây ra những chuyện gì. 
- Đúng là cha không biết. - Ông nói, đứng dậy cời lửa làm những tia lửa nhỏ bốc lên ống khói tựa như hơi thở của một con rồng. - Nhưng đáng lẽ cha không nên chỉ biết đến nỗi đau khổ của mình như thế. Lẽ ra cha phải chăm sóc cho con và lo tới tương lai của cha con ta. 
- Cha đã cố hết sức mình rồi. 
- Sự thực là cha đã bị giày vò bởi ý nghĩ về cái bóng của mẹ con. Cha cất cái hộp ở đây chỉ để cho an toàn... 
- Con biết. Con đã nhìn thấy nó. Một buổi tối không ngủ được, con xuống nhà và vào đây, thấy cha đang ngồi bên bàn với chiếc hộp. Nắp hộp mở ra và cha hỏi con liệu cha có nên trả nó lại cho mẹ con không.

- Thế ư? - Ông quay sang nhìn tôi. - Cha cũng chẳng nhớ gì nữa. Cha đã bị nỗi đau đớn nuốt chửng. 
- Cha! - Tôi cố an ủi ông. - Cha đã đủ can đảm để làm điều mẹ yêu cầu cha. 
- Con gọi đó là can đảm sao? Không, không phải là can đảm, điên rồ thì đúng hơn. - Ông nói. - Mẹ con đã đưa chiếc bóng cho cha vào đêm tân hôn. Mẹ bắt cha hứa phải luôn giữ nó thật cẩn thận. Cha không hiểu ý mẹ. Cha tìm cách trả nó lại cho mẹ khi mẹ bị ốm, nhưng mẹ không chịu. Lẽ ra cha phải lấy nó ra khỏi hộp và ép mẹ lấy lại. Ôi, cha mới ngu ngốc làm sao! - Ông đấm lên khoảng tường bên trên lò sưởi. 
- Cha đã làm đúng điều mẹ muốn. - Tôi nói. 
- Phải, và mẹ đã qua đời. Nếu cha bắt mẹ lấy lại chiếc bóng, chẳng phải là mẹ sẽ vẫn còn sống hay sao? 
- Mẹ sẽ sống sót một thời gian trong thế giới của mẹ, nhưng rồi mẹ sẽ bị mụ mẹ kế độc ác là hoàng hậu Rosmore giết chết để cướp lấy chiếc bóng. Cha hãy tin con đi, cha đã làm một điều đúng đắn. Chính Rosmore đã giết mẹ. Đó là vì không phương thuốc nào của mẹ hiệu nghiệm cả. Nhưng mẹ muốn chết trong thế giới này, bên cha con mình. Mẹ không muốn quay lại thế giới của mẹ.

Cha tôi tới ngồi bên tôi và nắm lấy tay tôi. 
- Mẹ biết nếu điều đó xảy ra, cha mẹ sẽ vĩnh viễn bị chia lìa. - Tôi nói tiếp. - Mẹ đã chọn cái chết ở thế giới này, hy vọng rằng một ngày kia, Chúa sẽ gia ơn cho cha mẹ được gặp lại nhau. Sẽ không có chuyện đó nếu cha trả chiếc bóng lại cho mẹ. 
- Coriander, làm sao con biết được những điều ấy? Nếu những gì con vừa nói là đúng thì con đã giúp cha trút được một gánh nặng lớn. 
- Đúng như thế mà cha. Con thề với cha đấy. 
Ông lại nhìn về phía lò sưởi và lát sau lên tiếng hỏi: 
- Thế chuyện gì đã xảy ra với cái bóng? 
- Giờ con là người trông coi nó, và nó đã được đặt về đúng chỗ rồi. 
- Thế còn đôi hài bạc? - Cha tôi hỏi tiếp. - Cha không sao hiểu nổi tại sao mẹ con lại khăng khăng không cho con đi chúng. Khi mẹ nói với cha rằng mẹ sợ bà mẹ kế nọ đã bỏ bùa cho đôi hài, cha không hiểu gì cả. Nói thực với con là cha thấy dễ dàng hơn nhiều khi không tin vào điều đó. 
- Mẹ đã nói gì với cha? - Tôi nói. 
- Rằng đôi hài ấy đã được gửi đến cho con để dụ dỗ con đến với thế giới của mẹ. Mẹ đã kể cho cha nghe về bà mẹ kế, và chắc chắn rằng bà ta sẽ tìm cách cướp lại chiếc bóng, và nếu bà ta làm được thì một ngày kia chúng ta sẽ mất con.

- Tại sao mẹ lại nghĩ thế? - Tôi hỏi. 
- Bởi vì con đến từ cả thế giới của mẹ lẫn thế giới này. 
- Chắc chắn cha cũng đã từng đến nơi ấy. - Tôi nói. - Bởi vì con đã nhìn thấy một bức chân dung của cha có các mỹ nhân ngư trên một dòng sông. 
- Những bức tranh ấy được gửi đến cho cha mẹ sau ngày cưới. Eleanor nói rằng đó là quà cưới của ông ngoại con. Cha chưa bao giờ được gặp ông ấy; cha chưa bao giờ đến vùng đất ấy. Cha vẫn thường tự hỏi làm sao mà họ lại vẽ cha giống được đến thế. Ôi, Coriander, lẽ ra cha không nên bỏ con lại. Lẽ ra cha phải đưa con theo, như con đã xin với cha. Cha không thể nào quên được gương mặt xinh xắn của con ngước lên nhìn cha và đôi cánh tay nhỏ nhắn gầy guộc của con quấn lấy cổ cha. Giá mà cha có thể quay ngược thời gian! Thay vào đó, như một kẻ đần độn, cha đã bỏ đi, tự nhủ với mình đó là để cho những điều tốt đẹp nhất. 
- Có lẽ đúng thế đấy, cha ạ. - Tôi nói. 
Chị Danes bước vào với một vại bia và một đĩa bánh vừng. Chị đặt chúng xuống bàn và nói: 
- Ông đã kể cho con bé nghe về Maud chưa ạ? 
- Chưa. - Tôi nói. - Cha kể đi. Chuyện gì đã xảy ra với bà ta?

Cha tôi cất tiếng cười khan. 
- Người ta tìm thấy mụ ta đang lảm nhảm ở đây, trong căn nhà này, - ông nói, - bên cạnh là một đống xương mà mụ thề sống thề chết là những gì còn lại của Arise Fell. Ngài thanh tra đã cho bắt mụ, và vì không ai hiểu nổi lấy một chữ những gì mụ nói, mụ ta bị tống vào ngục Newgate và bị buộc tội sát nhân. 
- Đó đúng là xương của Arise Fell. - Tôi nói. 
- Nếu đúng thế thì cha rất lấy làm sung sướng. Người ta cũng bàn tán nhiều về lão truyền giáo, vì không ai nhìn thấy lão ta nữa. Khi trở lại London, cha đã về thẳng đây. Cha không thể tin khi nhìn thấy ngôi nhà mục nát, hôi thối, đồ đạc biến hết, chỉ còn lũ chuột là những kẻ cư trú duy nhất. Cha tức tối đến nỗi đã tới nhà ngục tìm gặp Maud. Trông mụ ta không lấy gì làm dễ chịu, da đầy mụn nhọt lở loét. Chúa ơi, cha tức giận đến độ chỉ muốn mụ bị treo cổ. Mụ van xin và khóc lóc, nói rằng mụ đã lầm đường lạc lối, rằng đó là do bàn tay của Quỷ sứ gây ra. Cha không thèm nghe. Điều đó làm mụ tỉnh táo trở lại. Mụ thú nhận là mụ và Arise đã được một mụ phù thủy già nào đó cho rất nhiều tiền vàng. Tất cả những gì chúng phải làm là giết con và tìm ra chiếc bóng cho bà ta, nhưng chúng đã tìm cách lừa mụ phù thủy và phải trả giá vì việc đó. Lúc đó Maud cũng nói là "chúng tôi", như thể lão Arise vẫn còn ở bên mụ vậy.

- Thế Maud ra sao rồi? Bà ta bị treo cổ ư? 
- Mụ van vỉ cha xin cho mụ được thả ra và hứa nếu cha làm thế mụ sẽ cho biết các đồ đạc cũ của cha giờ ở đâu. 
- Có phải là Hội quán Ludgate không ạ? - Tôi mỉm cười hỏi. 
- Phải. - Cha tôi nói. - Đám đạo hữu thảm hại ở đó giữ tất cả đồ đạc của cha. Arise và Maud đã tiêu tán hết mọi thứ, chỉ trừ con cá sấu nhồi. Cha bèn trình bày với các nhà chức trách, và Maud cùng toàn bộ giáo đoàn đó bị tống sang Tân Thế Giới. 
- Tôi nghĩ là mụ mang ơn ông rất nhiều. - Chị Danes khẽ nói. 
- Vì Hester, cha không thể để mụ bị treo cổ được. Con bé tội nghiệp đã phải chịu nhiều đau khổ quá rồi. Cha chỉ tiếc là chị Danes đã không tìm thấy cha ở Pháp. 
- Tôi cũng vậy, thưa ông chủ, thật tiếc là hai con đường chúng ta đi lại không gặp nhau. - Chị Danes nói. - Tôi cứ sợ rằng ông đã chết rồi. 

Khi những đóa hoa tháng năm nở rộ. Charles đệ nhị được phong lên làm Hoàng đế Anh. Toàn bộ London quay cuồng vì tin đó, như một bà quả phụ đang chuếnh choáng diện lại những bộ đồ đẹp nhất sau hàng năm trời để tang. Tinh thần của mọi người bỗng trở lại phấn chấn. Hy vọng về tương lai trở nên tươi sáng và ở góc phố nào đó cũng nghe thấy tiếng kêu "Đức vua vạn tuế!"

Sau khi tôi trở về được một ngày, chị Danes đưa tôi đến gặp ông Thankless. Hester nói đúng: gần như không còn nhận ra được phố Cầu nữa. Nó đang náo nức trải qua một cuộc thay da đổi thịt. Các ngôi nhà được quét vôi lại, cửa sổ được sửa chữa, cờ được treo lên để đón nhà vua. Người sẽ vào London qua cây cầu vĩ đại này. Một Cây Nêu tháng năm với lá cờ của nhà vua trên đó đã được dựng lên gần phố Cầu, và mặc dù có vài người lính tìm cách hạ nó xuống, nó vẫn đứng vững ở đó. 
Phố phường tràn ngập sắc màu. Trong đời tôi chưa bao giờ thấy nhiều người ăn mặc rực rỡ như trên phố Thames sáng đó. Đã biến mất rồi những màu đen và màu xám ảm đạm. Giờ đây đập vào mắt là những sắc đỏ thắm, hồng, vàng và tím. 
Mọi chuyện đã chính thức. Bọn Thanh giáo đã phải cuốn gói ra đi và thật khó tin rằng trước kia từng có người ủng hộ Cromwell. 
Trên đường đi, chúng tôi gặp bà Jones, bà ta hết lời kêu ca về chuyện phí phạm tiền bạc và làm ngậu xị lên với việc nhà vua trở về.

- Nếu chúng ta không thể ăn mừng vì nhà vua trở về thì chúng ta có gì để ăn mừng chứ? Chị Danes hỏi. 
- Hừm! - Bà Jones nói. - Tôi cho rằng chúng ta rồi sẽ phải hối tiếc cái ngày chúng ta đã mời ông ta trở về. Theo ý tôi thì lẽ ra chúng ta phải giữ nguyên một nền Cộng hòa biết kính Chúa như trước. 
Chị Danes vươn thẳng người lên. 
- Sao bà có thể nói như vậy được nhỉ? Oliver Cromwell chỉ là một kẻ tiếm quyền, không hơn không kém! 
- Đi thôi nào, chị Danes. - Tôi nói và vội nắm lấy cánh tay chị. - Chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì hết nếu đứng đây tranh cãi cả ngày. 
- Thiên hạ có nhiều kẻ thật là... - Chị vẫn làu bàu khi chúng tôi đến gần hiệu may. 
Tôi không kìm nổi một nụ cười. 
- Ít ra thì bà Jones cũng không che giấu chuyện bà ta ủng hộ Cromwell. Em nghĩ rằng nếu chúng ta hỏi những người kia thì hiếm có ai trong số họ sẽ nhận ra là đã từng theo Thanh giáo đấy. 
Chiếc chuông treo trên cửa vui vẻ reo lên và Nell ra mở cửa. Bàn tay chị vội ôm lấy mặt khi chị trông thấy tôi. 
- Ôi, thánh thần ơi! Cô đã quay lại an toàn! - Chị nói. - Và cô đã trở thành một tiểu thư xinh đẹp làm sao! Hẳn nhà vua cũng phải ngoái lại nếu người thấy cô!

Ông Thankless ngẩng lên khỏi cái bàn nơi ông đang cắt quần áo. 
- Coriander! - Ông kêu lên, bước tới và hôn lên má tôi. - Mary, tôi vẫn bảo với mình là cô bé sẽ quay trở lại, xinh đẹp hơn bao giờ hết mà. 
- Mọi việc đều ổn chứ ạ? - Tôi hỏi. 
- Ta thấy như chính mình là Chúa trời vậy! - Ông thợ may nói. - Nếu công việc cứ tiến triển thế này thì chẳng mấy chốc ta sẽ giàu hơn cả nhà vua. Ai cũng muốn có quần áo mới. Họ muốn mình trông phải sáng sủa như chim công và rực rỡ như vẹt ấy! 
Ông đưa chúng tôi xuống bếp, mở một chai rượu vang vùng sông Ranh. Tom, cậu học việc mới, đem đến hàng súc vải cho chúng tôi chọn. 
- Ta đã được biết là cháu muốn may váy theo mốt mới nhất của Pháp. - Ông Thankless nói. 
- Đúng thế ạ. - Tôi nói, cảm thấy rất vui vẻ. Thật dễ chịu và thích thú khi được may váy áo mới. 
Ông Thankless không ngại phiền hà, lấy cho tôi xem những mẫu vải đẹp nhất, nháy mắt và nói rằng ông đã giữ riêng chúng cho những khách hàng quý nhất. Cuối cùng tôi quyết định may một chiếc váy bằng satanh in hoa màu xanh lục nhạt, đi kèm là một chiếc váy lót bằng lụa kẻ sọc. Sau đó tôi chọn thân áo bằng chất vải bóng dệt hoa chìm, tay áo bồng, viền bằng kim tuyến và ngọc trai. Cuối cùng, phủ ra ngoài là một chiếc áo dài xẻ tà có thể buộc lên được, để lộ ra chiếc váy lót.

- Được rồi. - Ông Thankless nói khi đã đo đạc và chọn mẫu vải xong. - Ta hứa là cháu sẽ trông như một nàng công chúa. Cô Danes đã thông báo tin mừng cho cháu chưa? 
- Chưa ạ. - Tôi nói, không biết ông ấy nói đến tin mừng nào. Chị Danes đỏ mặt, thật không giống chị thường ngày chút nào, và nói: 
- Tất nhiên là chưa rồi. Chúng ta đã quyết định sẽ đợi đến khi tất cả sum họp mà. 
- Tin mừng gì thế ạ? - Tôi hỏi. 
Ông Thankless nắm tay chị Danes và nói với một nụ cười rộng ngoác: 
- Cô Danes - ý tôi là Mary - đã bằng lòng lấy tôi. 
- Thật sao! - Tôi nói, nhảy cẫng lên. - Thật là một tin tuyệt vời! Cháu mừng cho cả hai người! 
Và tôi ôm hôn họ thật kêu. 
- Ai mà có thể nghĩ đến chuyện đó chứ? - Chị Danes nói, vẻ thẹn thùng. - Tôi đã nghĩ rằng mình quá già cho chuyện yêu đương rồi. 
- Không bao giờ! Ông Thankless trêu. - Tuổi tác chỉ làm mình duyên dáng thêm mà thôi!