Người đọc - Phần III - Chương 07 - 08 - 09

7

Dạo ấy tôi không hề nghĩ đến một ngày nào đó Hanna sẽ ra tù. Trao đổi thư từ và cassette đã trở thành việc làm bình thường và quen thuộc, và Hanna đối với tôi vừa gần lại vừa xa một cách nhẹ nhõm, tôi có thể duy trì tình trạng đó mãi cũng được. Thật dễ chịu và ích kỷ, tôi biết.

Rồi một hôm tôi được thư của bà giám đốc trại giam.

Bà Schmitz và ông đã thư từ với nhau nhiều năm nay. Đó là quan hệ duy nhất của bà Schmitz với bên ngoài, do vậy tôi muốn nói chuyện với ông, mặc dù tôi không biết quan hệ đó mật thiết đến đâu và ông là người họ hàng hay bạn của bà Schmitz.

Trong năm tới bà Schmitz sẽ đệ đơn xin ân xá lần nữa, và tôi tạm tin rằng hội động ân xá sẽ chấp thuận đơn. Bà Schmitz sẽ được thả sớm - sau mười tám năm tù. Tất nhiên chúng tôi cũng có thể lo cho bà nhà ở và công việc hay cố gắng giúp bà việc đó; sẽ không dễ kiếm việc làm ở tuổi bà, ngay cả khi bà còn hoàn toàn khỏe khoắn và tỏ ra rất khéo tay ở xưởng may của trại. Nhưng có lẽ nếu họ hàng và bạn bè lo được việc đó thì tốt hơn chúng tôi, vì họ ở gần bà Schmitz và quan tâm hỗ trợ bà. Ông không thể tưởng tượng sau mười tám năm tù người ta sẽ cô đơn và yếu nhược ra sao khi ra ngoài.

Bà Schmitz có thể tương đối tự lập và sống một mình cũng được, chỉ cần ông tìm cho bà một chỗ ở và việc làm, mấy tháng đầu thỉnh thoảng thăm hỏi và mời bà đến chơi, và hướng dẫn cho bà biết chương trình của cộng đồng tôn giáo, lớp học buổi tối, cơ sở hỗ trợ gia đình v.v. là đủ. Ngoài ra, lần đầu tiên sau mười tám năm đi vào thành phố mua sắm, ra công sở trình diện, đến nhà hàng, nhất định sẽ không dễ dàng. Có người đi cùng sẽ dễ dàng hơn.

Tôi biết là ông không đến thăm bà Schmitz. Nếu có thì tôi đã không biên thư mà mời ông đến nói chuyện nhân dịp vào thăm. Bây giờ không làm được gì khác là ông hãy đến thăm bà Schmitz trước khi bà ra tù. Vào dịp đó, phiền ông ghé qua chỗ tôi.

Bức thư kết thúc với lời chào thân mật, không dành cho tôi mà có ý nhắn nhủ rằng đó là một việc hệ trọng của bà giám đốc. Tôi đã nghe nói về bà ta; trại của bà ta được tiếng là xuất sắc, và ý kiến của bà có trọng lượng trong các vấn đề về cải cách hệ thống nhà tù. Tôi thấy cảm tình với bức thư.

Nhưng tôi không cảm tình với việc gì sắp xảy ra với tôi. Tất nhiên là tôi lo phải kiếm công việc và chỗ ở, và cũng đã làm được. Bạn bè tôi có căn hộ liền trong nhà mà không thể sử dụng hay cho thuê, họ sẵn sàng dành cho Hanna với giá rẻ. Ông thợ may người Hy Lạp vẫn hay sửa quần áo cho tôi muốn nhận Hanna vào làm việc, sau khi bà chị gái làm chung hiệu may với ông muốn trở về Hy Lạp. Tôi cũng đã quan tâm đến các chương trình xã hội và khóa học của nhà thờ và bên ngoài, trước khi có tin của Hanna rất lâu. Nhưng tôi cứ lần lữa trước khi vào thăm Hanna.

Chính vì Hanna đối với tôi vừa gần lại vừa xa một cách nhẹ nhõm mà tôi không muốn vào thăm cô. Tôi có cảm giác là cô chỉ có vị trí ấy đối với tôi khi thật sự cách xa tôi. Tôi sợ cái thế giới nhỏ bé, mỏng manh và yên ổn của những bức thư và băng ghi âm sẽ quá đỗi giả tạo và yếu ớt để có thể chịu đựng được sự gần mặt mà không thể không nhớ đến những gì đã từng xảy ra giữa hai người?

Cả năm trời trôi qua như vậy, và tôi không đến thăm cô. Tôi cũng lâu lâu không nghe thấy gì từ bà giám đốc trại giam; một bức thư của tôi thông báo về tình hình nhà ở và việc làm cho Hanna không thấy được hồi âm. Có lẽ bà giám đốc cho rằng sẽ nói chuyện với tôi nhân dịp tôi vào thăm Hanna. Bà không thể biết rằng chẳng những tôi trì hoãn chuyến đi thăm, mà còn trốn tránh nó. Nhưng rồi thì quyết định ân xá và phóng thích Hanna cũng được ban hành, và bà giám đốc gọi điện cho tôi. Liệu tôi có vào được không? Một tuần nữa Hanna sẽ được ra.

8

Chủ nhật kế đó tôi đến chỗ Hanna. Đó là lần đầu tiên tôi vào thăm trong tù. Ở cửa vào tôi bị kiểm tra, nhiều cửa dọc đường được mở khóa và đóng lại. Khu nhà mới và sáng sủa, ở bên trong các cửa đều mở và phụ nữ đi lại tự do. Cuối đường đi là cửa ra bên ngoài, dẫn ra một bãi cỏ nhỏ xôn xao tiếng người, có cây cối và ghế băng. Tôi đưa mắt tìm kiếm. Bà trật tự viên dẫn tôi đi chỉ về cái ghế băng gần đó dưới bóng râm của một cây dẻ.

Hanna? Người đàn bà trên ghế là Hanna? Tóc bạc, khuôn mặt với những nếp nhăn sâu chạy dọc trên trán, má và chung quanh miệng, thân hình nặng nề. Cô mặc một chiếc áo dài màu xanh nhạt quá hẹp, chật căng ở ngực, bụng và đùi. Hai tay cô đặt trong lòng, giữ một cuốn sách. Cô không đọc. Qua rìa bên trên cặp kính đọc sách cô quan sát một bà đang ném ruột bánh mì cho mấy con chim sẻ. Rồi cô cảm thấy ai đó nhìn mình và quay mặt sang hướng tôi.

Tôi thấy nỗi mong ngóng trên mặt cô, thấy mặt cô ngời lên khi nhận ra tôi, thấy ánh mắt cô dò dẫm trên mặt tôi khi tôi tiến lại gần, thấy ánh mắt cô hiện lên vẻ tìm tòi, dò xét, bối rối và tổn thương, thấy mặt cô tối lại. Cô mỉm cười khi tôi đến bên cô, một nụ cười thân thiện và mệt mỏi. “Cậu bé lớn quá rồi nhỉ.” Tôi ngồi xuống bên cô, và cô nắm tay tôi.

Ngày xưa tôi đặc biệt yêu mùi cô. Mùi cô lúc nào cũng mới: mới tắm, hay mới thay quần áo, hay mới toát mồ hôi, hay mới được yêu. Thỉnh thoảng cô dùng nước hoa, tôi không biết loại gì, và hương thơm ấy còn tươi mới hơn tất cả các mùi khác. Ẩn trong những hương thơm tươi mới ấy còn có một hương vị khác nữa, một hương vị nặng, trầm và gắt. Tôi hay đánh hơi trên cô như một con thú tọc mạch, bắt đầu từ cổ và vai là nơi tỏa mùi mới tắm, hít sâu giữa cặp vú có mùi mồ hôi mới, trộn lẫn với hương vị trầm nặng ấy gần như tinh khôi, giữa hai đùi thoảng thêm mùi quả chín làm tôi rạo rực, tôi cũng hít hà ống chân và bàn chân cô, đến đùi thì lạc mất hương vị kia, ở khoeo chân lại có mùi mồ hôi mới, và bàn chân mang mùi xà phòng, mùi da hay mùi của mỏi mệt. Lưng và tay cô không có hương vị riêng, chẳng có mùi gì, nhưng vẫn đượm mùi cô - mùi mực in trên vé, mùi kim loại của kìm bấm, mùi hành hay cá, mùi mỡ rán, bột giặt hay hơi nóng của bàn ủi. Khi cô vừa rửa tay xong thì chẳng nhận ra những mùi ấy. Song xà phòng chỉ phủ lên chúng, và một chốc sau chúng lại hiện ra, thoang thoảng, tan lẫn trong hương vị duy nhất của ngày làm việc, của ngày làm việc đã kết thúc, của buổi tối, của đường về nhà và của căn nhà ấm cúng.

Tôi ngồi cạnh Hanna và ngửi thấy mùi một bà già. Tôi không rõ cái gì tạo nên thứ mùi quen thuộc ấy ở những bà già và đọng trong hành lang các nhà dưỡng lão như một lời nguyền mà đối với nó thì Hanna còn quá trẻ.

Tôi nhích lại gần. Tôi nhận ra là đã làm Hanna thất vọng khi nãy, và muốn chữa lại lỗi lầm ấy.

“Anh rất vui mừng khi thấy em được ra.”

“Thật ư?”

“Thật, và khi thấy em sẽ ở gần.” Tôi kể cho cô nghe về nơi ở và công việc mà tôi đã tìm cho cô, về những chương trình văn hóa và xã hội ở khu phố, về thư viện thành phố. “Em đọc nhiều đấy chứ?”

“Bình thường thôi, nghe người khác đọc cho thích hơn.” Cô quan sát tôi. “Nhưng bây giờ là hết, đúng không?”

“Tại sao lại hết?” Nhưng tôi không tưởng tượng đến cảnh mình ghi âm vào cassette cho cô, hoặc gặp cô và đọc truyện cho cô nghe. “Anh rất mừng và tự hào vì em đã học chữ. Và viết những bức thư tuyệt vời!” Chuyện đó thì đúng, tôi khâm phục Hanna và vui mừng khi thấy cô đọc và viết. Nhưng tôi cũng cảm thấy niềm vui và khâm phục ấy của tôi nhỏ nhoi đến chừng nào so với công sức của Hanna bỏ ra để học đọc và viết, tôi cảm thấy nó hạ tiện làm sao, khi không thúc giục nổi tôi trả lời cô, đến thăm cô, nói chuyện với cô. Tôi đã chừa cho Hanna một ngách nhỏ, một ngách hoàn toàn quan trọng, có ý nghĩa đối với tôi và tôi cũng bỏ công sức cho nó, nhưng đó chưa phải là một chỗ đứng trong cuộc đời tôi.

Song tại sao tôi lại phải dành cho cô một chỗ đứng trong cuộc đời mình? Tôi phẫn nộ chống lại sự dằn vặt đang dâng lên khi nghĩ đến Hanna bị thu lại thành một cái ngách nhỏ kia. “Chẳng lẽ trước phiên tòa em không bao giờ nghĩ đến việc đã xảy ra mà trong phiên tòa xét đến? Anh định nói là, em không bao giờ nghĩ đến việc ấy khi chúng mình bên nhau, khi anh đọc truyện cho em?”

“Anh bận tâm lắm à?” Nhưng cô không đợi câu trả lời. “Em luôn có cảm giác là đằng nào cũng chẳng ai hiểu em, chẳng ai biết em là ai và cái gì khiến em làm việc này hay việc kia. Anh biết không, nếu không ai hiểu anh thì cũng không ai được phép đòi hỏi anh giải trình. Ngay cả tòa án cũng không thể bắt em phải giải trình được. Nhưng những người chết thì được phép. Họ hiểu. Họ không nhất thiết phải có mặt, nhưng khi đã có mặt thì họ hiểu rất rõ. Ở đây, trong nhà tù này, họ rất hay ở bên cạnh em. Họ đến đây hằng đêm, bất kể em muốn hay không. Trước khi ra tòa, lúc họ muốn đến thì em còn xua được họ đi.”

Cô chờ xem tôi có nói thêm gì, nhưng tôi không nghĩ ra câu nào. Tôi chỉ định nói là tôi không xua được gì cả. Nói thế cũng không đúng; người ta cũng xua đuổi ai đó bằng cách đẩy người ấy vào một ngách nhỏ.

“Anh có gia đình không?”

“Anh đã từng có. Gertrud và anh ly hôn mấy năm rồi, cháu gái ở nội trú; hy vọng là mấy năm học cuối cháu sẽ không ở đó mà chuyển về chỗ anh.” Bây giờ đến lượt tôi chờ xem cô có nói thêm hoặc hỏi gì. Nhưng cô im lặng. “Tuần sau anh đến đón em, được không?”

“Vâng.”

“Thật lặng lẽ, hay có nên náo nhiệt và vui vẻ một chút?”

“Thật lặng lẽ.”

“Được, anh đón em thật lặng lẽ, không có nhạc và sâm banh.” Tôi đứng dậy. Chúng tôi nhìn nhau. Chuông đã đổ hai hồi, những người đàn bà khác đã vào nhà. Ánh mắt cô lại dò dẫm trên mặt tôi. Tôi vòng tay ôm cô, nhưng cảm giác không thật.

“Chúc cậu bé khỏe mạnh nhé.”

“Em cũng thế nhé.”

Chúng tôi từ biệt, trước khi phải chia tay ở trong nhà.

9

Tuần kế tiếp cực bận rộn. Tôi không nhớ là bài báo cáo mà tôi đang làm cũng đang bị áp lực thời gian, hay chính tôi tự đặt áp lực cho mình về công việc và thành tích.

Ý tưởng của tôi vào thời điểm bắt đầu bản báo cáo thì không ra gì. Khi kiểm tra lại, tôi liên tục vấp vào những sự ngẫu nhiên, thay vì ý nghĩ và quy luật. Đáng lẽ phải chấp nhận điều đó thì tôi cứ tìm tòi tiếp trong bức xúc, ngoan cố và dè dặt, tựa như ý tưởng của tôi về thực trạng đã sai thì thực trạng cũng sai theo, và tôi đã sẵn sàng bóp méo, phóng đại hay hạ thấp các số liệu. Tôi sa vào một tình trạng bất ổn kỳ lạ, lên giường muộn thì vẫn ngủ thiếp đi nhưng chỉ vài tiếng sau là tỉnh như sáo, cho đến khi tôi quyết tâm ngồi dậy đọc tiếp hoặc viết.

Tôi cũng làm những việc cần thiết để chuẩn bị cho Hanna ra tù. Tôi trang hoàng căn hộ của cô với đồ gỗ của cửa hàng Ikea và vài đồ cổ, báo tin cho ông thợ may Hy Lạp và cập nhật các chương trình xã hội cùng các khóa học. Tôi mua sẵn đồ ăn, xếp sách lên giá và treo tranh. Tôi gọi một thợ làm vườn đến chăm sóc mảnh vườn nhỏ xung quanh khoảng sân trước phòng khách. Mọi việc tôi đều làm một cách bức xúc và ngoan cố kỳ lạ, tất cả đều quá sức tôi. Nhưng ít nhất cũng đủ để tôi không phải nghĩ tới lần vào thăm Hanna nữa. Chỉ thỉnh thoảng, khi tôi đi ô tô hoặc mệt mỏi ngồi bên bàn viết thì đầu óc lại bị chế ngự bởi ký ức tuôn trào. Tôi thấy Hanna trên ghế băng, mắt nhìn tôi, thấy cô ở bể bơi, ngoảnh mặt về phía tôi, và lại phẫn nộ chống lại cảm giác, và tôi buộc tội cô, cho rằng cô đã lẩn trốn tội trạng của mình một cách hèn hạ và dễ dàng. Chỉ cho phép những người đã chết đòi cô giải thích, quy gọn tội lỗi và sám hối thành chứng khó ngủ và những cơn ác mộng - vậy những người sống thì sao? Nhưng cái mà tôi ám chỉ không phải là những người còn sống, mà là tôi. Tôi không được đòi cô giải thích hay sao? Tôi không được làm điều đó sao?

Buổi chiều trước hôm đi đón Hanna tôi gọi điện đến nhà tù. Trước tiên tôi nói chuyện với bà giám đốc.

“Tôi hơi chộn rộn. Bình thường ra thì không ai được thả sau một thời gian dài như vậy mà trước đó không ra ngoài vài giờ hay vài ngày. Bà Schmitz không chịu, và ngày mai sẽ không đơn giản.”

Tôi được nối điện thoại với Hanna.

“Em nghĩ xem ngày mai chúng mình sẽ làm gì nhé. Em muốn về nhà ngay, hay chúng ta đi vào rừng, hay ra bờ sông.”

“Em sẽ suy nghĩ. Anh vẫn luôn là người vạch kế hoạch giỏi, đúng không?”

Tôi bực mình. Tôi bực mình như đôi khi nghe các bạn gái nói là tôi không bột phát mấy, hành động quá thiên về lý trí thay cho cảm tính.

Qua sự im lặng, cô nhận ra tôi bực mình và cười. “Chớ bực mình, cậu bé ạ, em không nói theo nghĩa xấu.”

Tôi gặp lại Hanna ngồi trên ghế băng là một bà già. Cô trông như một bà già và thoảng mùi như một bà già. Tôi không chú ý đến giọng nói. Giọng cô vẫn còn rất trẻ.