Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 06

Chương 6

Ở điểm nút hai chiến lược chiến tranh.

Lòng chảo Điện Biên Phủ nơi mà tướng Na-va tin là sẽ buộc đối phương bị dồn vào cái nơi ta (tức Pháp) sẽ vừa đánh họ được, lại vừa nói chuyện đàm phán trên thế mạnh với họ cũng được, nay đã đảo ngược. Chiến thắng Điện Biên Phủ và hàng vạn tù binh bị bắt sống là cái thế mạnh khi phái đoàn ta đến bàn hội nghị. Sau hơn hai tháng đàm phán, ngày 20 tháng 7 năm 1954 Chính phủ Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ.

Hòa bình đã được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở chính phủ Pháp tôn trọng chủ quyền, độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.

Thế là sau chín năm chiến đấu gian khổ và anh dũng, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam lần lượt vào tiếp quản những vùng quân Pháp rút đi theo đúng các điều khoản đã được thỏa thuận giữa hai bên Việt - Pháp.

Tháng 9 năm ấy, Sư đoàn 312 chúng tôi nhận lệnh từ Phú Thọ tiến về tiếp quản khu vực Bắc Ninh - Bắc Giang, cùng các đơn vị bạn buộc đối phương phải nghiêm chình thi hành hiệp định, nhanh chóng rút khỏi khu vực cuối cùng miền duyên hải Đông Bắc - Hồng Gai - Quảng Yên - Hải Phòng.

Các đơn vị trong sư đoàn lần lượt hành quân qua Vĩnh Yên, Phúc Yên sang bên kia sông Cầu, sông Đuống. Trước mắt chúng tôi một dải trung du đâu đâu cũng còn đầy vết tích tàn phá của bọn xâm lược. Vệ Linh, Thanh Lại, Đan Tảo, Mễ Thôn và những làng lân cận trong “vành đai trắng” suốt mấy năm liền hoang vắng, hầu như không một bóng người. Giặc Pháp vừa cấm ngăn không cho dân trong vùng đi lại làm ăn, vừa dùng bom đạn cày xới, xua hết dân đi nơi khác. Chúng cố tạo ra ở đây một “ranh giới chết” giữa vùng chúng tạm kiểm soát với vùng tự do của ta nhằm ngăn chặn quân chủ lực ta thâm nhập đồng bằng. Âm mưu thâm độc ấy đã biến hàng vạn héc ta ruộng màu mỡ thành đồng hoang lạnh ngắt.

Nhưng chỉ sau ngày ngừng bắn mấy hôm, “vành đai trắng” đã mất hẳn cái không khí vắng lạnh ghê người. Trong các thôn xóm, còn người nào ở lại bám đất đều đổ ra đồng khai hoang phục hóa. Dọc đường số 2, số 3 từ Tuyên Quang, Thái Nguyên đổ về xuôi, từng đoàn người gồng gánh kĩu kịt, lũ lượt hồi cư sau những tháng năm xa quê. Chiều đến, trên những cách đồng rậm rì đùn lên từng cột khói trắng - khói đốt cỏ làm tro bón ruộng. Cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên nóc những nếp nhà tranh vừa dựng lấy chỗ ở tạm. Đây đó đã thấy cất lên tiếng hát rộn ràng, trong trẻo của các cô gái, các cháu nhỏ, hòa lẫn tiếng cuốc đất phát cỏ nhộn nhịp ngoài đồng.

Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đã đưa cách mạng nước ta sang giai đoạn mới.

Miền Bắc giải phóng đang bước vào thời kỳ hòa bình khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục.

Từ nhận thức chức năng của quân đội là chiến đấu, công tác và sản xuất, Đảng ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn họp xác định ngoài nhiệm vụ xây dựng huấn luyện quân sự, các lực lượng của sư đoàn còn có trách nhiệm cùng nhân dân tham gia khôi phục kinh tế ở những nơi khó khăn, cần có lực lượng lao động tập trung trẻ khỏe. Tại nơi đóng quân, các chiến sĩ sư đoàn cùng đồng bào gỡ mìn, dọn dây thép gai trên “vành đai trắng”, quanh các đồn bốt địch, khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích, tát nước chống hạn, đào mương dẫn nước, cải tạo đồng ruộng. Các chiến sĩ của sư đoàn góp sức tham gia khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, công trình thủy nông Bắc Hưng Hải.

Hàng nghìn cán bộ chiến sĩ cửa sư đoàn đã chuyển ngành đi tham gia xây dựng khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo (Hà Nội), sứ Hải Dương, khu công nghiệp Việt Trì, mỏ a-pa-tít Lao Cai, cho đến các nông trường Mộc Châu, Sơn La, Điện Biên Phủ và tham gia xây dựng sân bay Nội Bài.

Từ năm 1958, các đơn vị trong sư đoàn lần lượt bỏ công sức, trí tuệ tự xây dựng doanh trại của mình. Dọc đường quốc lộ số 2 từ Đa Phúc đến Phổ Yên, Lương Sơn, Lưu Xá, Phú Bình (Bắc Thái) trên những quả đồi hoang lúp xúp những cây sim mua cằn cỗi trước đây nay mỗi ngày lại có thêm khu nhà mới, mái ngói đỏ tươi tường vôi trắng xóa. Cuộc sống quân ngũ cũng có những thay đổi mới. Đã có sự thanh bình êm ả, có tối thứ bảy và ngày chủ nhật thư nhàn, thoải mái, có nơi tiếp đón gia đình lên thăm, có phòng riêng nhỏ xinh cho đôi vợ chồng trẻ hưởng tuần trăng mật. Đã có chế độ nghỉ phép và sĩ quan hết giờ làm việc được về ăn nghỉ tại nhà riêng gần khu doanh trại. Niềm vui lâng lâng mà sâu đậm ấy, rõ nét ấy, vây quanh và thâm nhập vào mình mà vẫn cứ ngỡ ngàng, vì cách đó ít lâu, những người lính chúng tôi phải vượt qua bao gian khổ, chịu đói, chịu rét vượt qua sông Thao đánh vào tuyến phòng thủ sông Đà của địch, vượt qua đèo Pha Đin tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, mấy ai nghĩ có ngày hôm nay.

Riêng tôi đã lập gia đình và sinh được năm cháu. Ngoài bận rộn công việc của một sư đoàn trưởng kiêm bí thư Đảng ủy sư đoàn, cũng đã có điều kiện hòa nhập vào cuộc sống đời thường với đủ thứ ước mơ khát vọng rất xa mà cũng rất gần. Có lúc thư nhàn nói chuyện thật riêng của hai người, có phút giây âu yếm cưng nựng con, thủ thỉ bao hy vọng khi con khôn lớn. Có giờ thanh thản nghe ca nhạc và sân khấu truyền thanh, cùng vợ con đến nhà hát xem biểu diễn văn nghệ, xem phim tình yêu.

Và có những chuyến nghỉ phép về thăm quê nội, quê ngoại, gặp mặt làng xóm, người thân hàn huyên kỷ niệm xưa.

Những ngày thanh bình như thế đến với chúng tôi thật ngắn ngủi. Có một suy nghĩ khác, cuộc sống khác bắt đầu hình thành từ năm 1960, đan xen vào các công việc thường ngày, cứ tăng dần theo thời gian. Trong sinh hoạt chính trị đã có vấn đề nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu; trong xây dựng thao trường huấn luyện, kết cấu tưởng định diễn tập tham mưu và diễn tập thực binh đều đưa xen thực tế chiến trường miền Nam để cán bộ, chiến sĩ tập xử lý.

Mùa xuân 1963 chúng tôi được sống lại với không khí chuẩn bị chiến đấu năm xưa. Ngoài kia thị trấn Phổ Yên vẫn êm ả, con đường xe hỏa Hà Nội - Quán Triều song song với đường số 3 là cảnh “ngựa xe như nước”, thì trong doanh trại sư đoàn bộ đang tính toán kế hoạch hành quân, đưa một tiểu đoàn mạnh gồm sáu trăm cán bộ, chiến sĩ bí mật vượt sông Bến Hải vào tham gia chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên. Mùa xuân 1964, tiểu đoàn thứ hai của sư đoàn nhận nhiệm vụ vào chiến đấu tại chiến trường Khu 5.

Ngày 1/1/1964 Bác Hồ về thăm sư đoàn. Trước lúc ra về Bác ghi vào sổ vàng truyền thống của đơn vị:

“Toàn sư đoàn có nhiều tiến bộ. Chúc năm mới, Bác dặn mấy điểm:

1. Ra sức làm tròn nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và tham gia đấu tranh thống nhất nước nhà.

2. Thi đua thực hiện cuộc vận động xây dựng quân đội năm 1964.”

Chúng tôi đặc biệt chú ý đến điều Bác dặn, “luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho”.

Ngày 27/3/1964, Bác Hồ triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, động viên toàn dân đoàn kết một lòng kiên quyết chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cùng ngày Đảng bộ sư đoàn chúng tôi họp đại hội lần thứ tư, tất cả đều nhất trí xác định toàn sư đoàn chuẩn bị đầy đủ mọi mặt, sẵn sàng lên đường chiến đấu.

Đến lúc này cuộc sống hòa bình chỉ còn giữ lại ở cái dáng vẻ bề ngoài, chúng tôi thực sự đã bước vào trạng thái thời chiến.

Với cán bộ cao cấp chúng tôi, thì ngay từ năm 1955 đã được chuẩn bị tư tưởng về một cuộc chiến đấu mới đang được bắt đầu.

Trong các cuộc hội nghị quân chính, các đợt tập huấn và diễn tập tham mưu, được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đến thăm hỏi động viên, nói chuyện, giao nhiệm vụ. Sau những lần như thế, trong nếp nghĩ của chúng tôi hình thành ngày một sáng rõ: Về chức năng nhiệm vụ của quân đội là ở chiến trường, mà chiến trường lúc ấy là miền Nam thân yêu đang bị bọn xâm lược Mỹ và tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm thống trị.

Riêng tôi đầu năm 1963 được trên đưa vào danh sách đi B(1) đợt đầu nhưng vì bị viêm dạ dày cấp nên tạm ở lại đi đợt sau.

(1) Đi vào miền Nam.

Từ đây tôi đã thực hiện một kế hoạch do mình đặt ra, là theo dõi sát sao tình hình chiến sự ở miền Nam, qua đó có thể rút ra bài học bổ ích. Đọc báo, nghe đài, qua các bản tin lưu hành nội bộ tôi thấy lực lượng của ta ở trong đó đánh cấp tiểu đoàn, trung đoàn còn ít, càng chưa thấy đánh địch nhiều trong công sự vững chắc. Hẳn là phải có nguyên nhân, nhưng làm sao mà biết được.

Qua hiện trạng này tôi tự nhủ, mình cần tìm đọc nhập tâm các tài liệu giáo khoa quân sự, tổng kết quân sự, hình thành hệ thống trong đầu óc các vấn đề, khi được vào phổ biến lại cho anh em trong đó vận dụng, may ra có ích.

Tháng 10 năm 1964, sau lần được dự buổi Bác Hồ gặp mặt thân mật số cán bộ cao cấp trước khi lên đường vào Nam chiến đấu ở nhà khách Bộ Quốc phòng 33 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội, ý thức sống thời chiến trong tôi càng trỗi dậy mạnh mẽ.

Hôm đó anh Tố Hữu được Bác giới thiệu đọc bài thơ “Hãy nhớ lấy lời tôi” mà anh vừa sáng tác. Mọi người như được tiếp thêm lửa qua các vần thơ mà đến nay tôi vẫn nhớ:

“Anh đã chết, Anh Trỗi ơi có biết,

Máu kêu máu, ở trên đời tha thiết!

Du kích quân Ca-ra-cát đã vì Anh.

Bắt một tên giặc Mỹ giữa đô thành.

Anh đã chết, Anh chẳng còn thấy nữa.

Lửa kêu lửa, giữa miền Nam rực lửa.”

Từ buổi được gặp Bác, trở về sư đoàn tôi vẫn tiếp tục chuẩn bị một cách âm thầm nhưng cụ thể hơn, tích cực hơn.

Ngày nào tôi cũng dậy trước bốn giờ sáng tập đeo gạch đi từ Phổ Yên lên Đồng Quang và ngược lại, cứ thế kéo dài suốt hai tháng, thành quy luật, khiến công an huyện Phổ Yên sinh nghi, vào sư đoàn hỏi:

- Hình như trong đơn vị các anh có người mang hàng lậu?

- Không có. - Đồng chí trực ban trả lời.

- Nhưng sáng nào cũng có người từ sư đoàn đi ra, đeo vật gì rất nặng.

- À đúng rồi, đấy là đại tá tư lệnh Hoàng Cầm tập hành quân mang nặng để chuẩn bị đi B đấy.

- Sao các anh không cho địa phương biết? - Đồng chí công an hỏi tiếp.

- Nếu thế thì còn gì là bí mật quân sự nữa.

Đoạn đối thoại trên do đồng chí trực ban thuật lại khi tôi vừa kết thúc buổi tập trở về.

Cuối tháng 12 là mùa chuyển quân lý tưởng, nhưng với tôi vẫn không thấy động tĩnh gì.

Không nản, tôi vẫn tiếp tục tập luyện theo chương trình đã định.

Một hôm thấy tôi trở về, mồ hôi đẫm áo, vợ tôi vừa cười vừa trêu:

- Ế rồi! Hàng kém phẩm chất, không ai dùng đâu!