Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 05 - Phần 2

Đang trong thế thuận lợi bỗng gặp phải hỏa lực trọng liên của địch từ bên kia cầu bắn sang rất dữ, không phải một khẩu mà là nhiều khẩu.

Đây lại là một bất ngờ, do việc nắm địch của chúng tôi chưa chắc. Đã đến lúc này không để tái diễn như đêm qua (6/5). Dù có hy sinh cũng phải quyết tâm vượt qua, phải diệt ngay cái ổ đề kháng quái ác này.

Nghĩ như vậy, tôi lệnh cho Tạ Quốc Luật nhanh chóng diệt trận địa đại liên địch, tạo thuận lợi cho các đơn vị tiếp tục phát triển vào khu trung tâm. Mười lăm phút sau tiếng súng đại liên của địch tắt hẳn, cùng lúc tôi nhận được báo cáo qua máy điện thoại, ta đã diệt được khẩu đại liên bốn nòng do một tên lính ngụy trạc hơn bốn mươi tuổi điều khiển.

Tôi cắt ngang báo cáo:

- Tên lính này còn sống không?

- Báo cáo còn, đơn vị đã giải thích chính sánh khoan hồng cho y.

- Khai thác chưa?

- Báo cáo đã.

- Cái gì, nó đã khai những gì?

- Báo cáo? Nó chỉ hầm Đờ Cát cách đây khoảng trên hai trăm mét.

- Đúng không?

- Dạ, đúng, phía ấy thấp thoáng có cờ trắng vẫy.

Tim tôi đập nhanh vì sung sướng. Tôi muốn reo lên chia vui với mọi người: Mục tiêu cuối cùng của chiến dịch đã tới gần!

Tôi lệnh cho Tạ Quốc Luật phải phát triển tới đó ngay, tìm mọi cách bắt sống tướng Đờ Cát.

17 giờ, trời còn sáng, tên lính điều khiển khẩu đại liên bốn nòng khai đúng, sở chỉ huy trung tâm của địch hiện rõ trước mắt các chiến sĩ đại đội 360, Tạ Quốc Luật dẫn một tiểu đội bứt lên trước đứng trên nóc hầm và kêu gọi tướng Đờ Cát đầu hàng (Tạ Quốc Luật biết tiếng Pháp).

Vài phút sau tướng Đờ Cát và toàn ban tham mưu của ông ta thành hàng dọc hai tay giơ khỏi đầu từ cửa hầm lần lượt đi ra.

Nhận được tin do Tạ Quốc Luật báo cáo về, tôi vui sướng quá tim như muốn bung khỏi lồng ngực. Tay run run cầm máy điện thoại báo cáo tin vui này về bộ chỉ huy đại đoàn, đồng thời tôi lệnh cho chính trị viên tiểu đoàn 130 Trần Quân giải ngay Đờ Cát về sở chỉ huy trung đoàn.

Toàn thể ban chỉ huy Trung đoàn 209 có mặt đầy đủ để tiếp nhận sự đầu hàng của tướng Đờ Cát và toàn bộ ban tham mưu của tập đoàn cứ điểm.

Tại đây tôi có hỏi cung tướng Đờ Cát qua đồng chí Nho Khôi đội trưởng trinh sát của trung đoàn dịch (Nho Khôi có bằng tú tài, nói tiếng Pháp rất khá).

Mở đầu tôi hỏi:

- Tại sao các ông thua?

- Vì chỉ huy các phân khu ngoại vi để mất. - Đờ Cát trả lời.

- Khu trung tâm Mường Thanh do ông trực tiếp chỉ huy sao cũng để mất?

Đờ Cát đầu hơi cúi, ngượng ngùng, vài giây sau mới trả lời:

- Ngày 6 và sáng 7 tháng 5 chúng tôi trù liệu tổ chức hai lực lượng rút chạy sang Lào.

- Sao không thực hiện.

- Không có một binh lính và sĩ quan nào tin là kế hoạch của chúng tôi thực hiện được.

- Tại sao ông lại cho máy bay thả truyền đơn thách thức tướng Giáp?

- Tôi không làm việc này!

- Sao lại có truyền đơn? - Vừa hỏi, tôi vừa chuyển cho Nho Khôi tờ truyền đơn đưa cho Đờ Cát xem dưới có ký tên ông ta.

Đờ Cát nhún vai, tỏ vẻ khinh bỉ:

- Thưa ông, đây là Hà Nội tự làm.

- Trước khi rời khỏi hầm chỉ huy ông có báo tin này cho Hà Nội không?

- Tôi có báo cho Hà Nội: “Thế là hết!”

- Hà Nội trả lời thế nào?

- Na-va thỏa thuận cho đầu hàng nhưng “không phất cờ trắng”(!)

- Các ông thực hiện sự đầu hàng thế nào?

- Thưa ông nếu không có dấu hiệu cờ trắng thì chúng tôi đâu còn tồn tại đến giờ này. - Ông ta lại cúi đầu kèm theo là tiếng thở dài với vẻ mặt buồn chán, định nói tiếp, nhưng thấy khó.

Hiểu được tâm trạng của viên tướng mang dòng họ quý tộc Pháp, chúng tôi không hỏi nữa.

Trước mặt chúng tôi là toàn ban tham mưu của Đờ Cát với đủ lứa tuổi và hình hài khác nhau, nhưng có chung một dáng vẻ tiều tụy nét mặt hốc hác chán chường, quần áo xộc xệch bẩn thỉu mặc dù tên nào cũng tề chỉnh mang cấp hiệu trên ve áo.

Phút yên lặng trôi nhanh, tôi ra lệnh cho Đờ Cát báo cáo họ tên, cấp bậc, chức vụ từng người trong ban tham mưu của y.

Tất cả có hơn mười tên, mỗi tên phụ trách một phần việc, hậu cần, chỉ huy bộ binh, xe tăng, lực lượng phản kích, chỉ thiếu có Pi-rốt chỉ huy pháo binh đã tự sát sau khi cụm cứ điểm Him Lam bị mất. Tất cả đều học quân sự cơ bản qua trường võ bị Xanh-xia nổi tiếng của nước Pháp, đều trong quân ngũ lâu năm qua nhiều chiến trận. Đờ Cát-xtơ-ri được xếp loại tá có hạng, trước khi điều lên Điện Biên Phủ đã chỉ huy một trong bảy binh đoàn cơ động chiến lược của quân Pháp ở chiến trường Bắc Bộ, từng chạm trán với chúng tôi ở Vĩnh Yên, Phúc Yên trong chiến dịch Trung Du hồi cuối năm 1950 đầu năm 1951.

Đại tá La-gơ-le bạn thân của Đờ Cát, cũng dòng dõi quý tộc, tham gia chiến tranh thế giới thứ hai, từng chết hụt ở sa mạc Sahara, cưỡi một con lạc đà với khẩu súng trong tay, đâu phải sinh ra để thành con người chiến bại, sang Đông Dương ba lần và bây giờ bị bắt ở Điện Biên Phủ.

Còn Bi-gia đã chỉ huy tám trăm quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ vào sáng ngày 20/11/1954, khi vừa mới tan sương mù. Bi-gia cũng được xem là thành viên của ban tham mưu mặc dầu cấp bậc thấp nhất, nhưng được Đờ Cát tin cậy, phong cho cái chức “tổng chỉ huy các lực lượng phản kích”.

Con “người hùng” này có cái may mắn, chục năm sau được nhận chức Bộ trưởng Quốc phòng Pháp. Tuy nhiên những gì là thảm kịch ở Điện Biên Phủ, Bi-gia vẫn không quên, vẫn kể rất đầy đủ khi nhà báo Mai-kơn Mắc-lia đến ngỏ ý định viết thiên ký sự “Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày”. Từ sau đợt hai của chiến dịch bắt đầu, quân sĩ hoang mang, những trận phản kích giảm dần, thì tổng chỉ huy các lực lượng phản kích Bi-gia thường ngày chi còn làm một việc chỉ huy trấn an tư tưởng: “Tôi vẫn nói cho binh sĩ tôi, chúng ta cố giữ lâu được một ngày nữa. Rồi người Mỹ sẽ đến!”

Và Bi-gia kể tiếp cái ý định cố gắng tuyệt vọng cuối cùng rút sang Lào định thực thi vào sáng 7 tháng 5 như sau: “Chúng tôi nhặt nhạnh vài vị chỉ huy tiểu đoàn và bàn đến việc tháo chạy. Họ nói: Không, không còn cái giá nào lúc này nữa đâu. Chúng tôi có thể chết xứng đáng. Chúng tôi làm sao mà có thể ra khỏi đây nổi một trăm mét thôi! Đờ Cát-xtơ-ri báo cho Hà Nội: ‘Thế là hết!’ Na-va trả lời qua máy vô tuyến điện thanh: ‘Đừng giơ cờ trắng, chỉ ngừng chiến đấu thôi!’”

Như vậy, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi vào lúc 17 giờ ngày 7/5/1954, khi Trung đoàn 209 chúng tôi tiến vào sở chỉ huy trung tâm Mường Thanh, bắt sống tướng giặc Đờ Cát-xtơ ri cùng toàn ban tham mưu của ông ta.

Lòng chảo Điện Biên Phủ bị hun nóng suốt năm mười lăm ngày đêm nay bắt đầu nguội vào lúc thời điểm đã chuyển vào hoàng hôn, mặt trời ngả dần sang phía tây - sắp khuất sau những dãy núi và chuyển sang bóng đêm quen thuộc. Nhưng đêm nay là đêm hội chiến thắng. Từ khắp nơi, các đơn vị đổ về Mường Thanh, đủ thứ thắp sáng để mừng chiến thắng.

Mường Thanh tấp nập, chật ních những người. Hàng binh kéo ra, quân ta đổ vào, cả sở chỉ huy của tướng Đờ Cát đầy ắp người cũng như ngoài cánh đồng Điện Biên còn nguyên những khẩu pháo đang nằm rải rác.

Nhưng mắt tôi vẫn dán mãi vào lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” do chiến sĩ Nguyễn Văn Minh dưới sự chỉ huy của Tạ Quốc Luật đại đội trưởng đại đội 360 vừa cắm lên nóc hầm Đờ Cát đang bay phần phật bởi một cơn giông bất chợt.

Sau ngày 7/5/1954 lịch sử, tôi vinh dự được Bộ chỉ huy Mặt trận cử làm trưởng đoàn chiến sĩ thi đua của Mặt trận về báo cáo thắng lợi vĩ đại này với Đảng, Chính phủ và Bác Hồ kính yêu.

Chúng tôi mang theo về các thứ huân chương, lon thiếu tướng của Đờ Cát, một lá cờ Pháp đã rách, một cái máy thu thanh nhỏ Đờ Cát đã dùng. Khi ra trận thì đi bộ, mang vác nặng nề, trèo đèo lội suối, luồn rừng vất vả, khi về thì rong ruổi “ngựa xe” - một chiếc xe tải quân sự do đồng chí Thông lái, cũng đã sướng lắm rồi. Tuy vậy cũng phải mất ngót tuần lễ chúng tôi mới về tới hậu phương Việt Bắc.

Dọc đường, lúc nào tôi cũng nghĩ về gặp Bác thì báo cáo với Bác điều gì. Hình ảnh Bác gọi lên báo cáo kế hoạch tiến công Đông Khê trong chiến dịch Biên Giới lại hiện về.

Vừa đến cơ quan Tổng cục Chính trị, anh Nguyễn Chí Thanh tổ chức đón đoàn chúng tôi rất trọng thể, có dựng cổng chào, kết hoa trên đường vào cơ quan. Và anh bố trí cho chúng tôi được nói chuyện ngay với Bác qua điện thoại.

Tôi vui sướng và thực sự hồi hộp:

- Báo cáo Bác, cháu phụ trách đoàn chiến sĩ thi đua từ mặt trận Điện Biên Phủ về mừng sinh nhật Bác.

- Ai bảo các chú bày vẽ việc này? - Bác nghiêm nghị hỏi.

Tôi đang ấp úng không biết trả lời thế nào thì đầu dây bên kia Bác đã gỡ bí:

- Chú Hoàng Cầm đấy phải không?

- Vâng ạ! Thưa Bác, cháu là Hoàng Cầm đây ạ!

- Các chú ở trên đó có đói không?

- Báo cáo Bác, không đói nhưng thiếu ạ!

Bác hỏi tiếp:

- Có khổ không?

Anh Nguyễn Chí Thanh đứng gần, vui vẻ nhắc tôi “cứ nói thật với Bác là khổ lắm”.

- Báo cáo Bác, có khổ ạ!

Bác xen vào:

- Các chú có thuốc lào hút không?

- Báo cáo, có ạ!

Xin lưu ý bạn đọc về chuyện thuốc lào ở Điện Biên Phủ, tuy không phải là vấn đề cơ bản trong chiến đấu, nhưng lại là một nhu cầu thực tế không thể thiếu. Bộ đội ta lúc ấy đa số nông dân, nhiều người nghiện thuốc rất nặng, mà nghiện thì “đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”. Không có thuốc hút, người cứ bần thần, chẳng muốn làm gì.

Hiểu nhu cầu tuy nhỏ nhưng không thiếu ấy, Chính phủ và Bác đã chỉ thị cho cơ quan cung cấp ở hậu phương chú ý lo cho bộ đội khoản thuốc lào gửi lên mặt trận, cùng với súng đạn, gạo muối và thuốc men, nhưng do chiến đấu kéo dài, cảnh thiếu thuốc hút vẫn là vấn đề “thời sự” được nhắc đến hàng ngày.

Từ đầu dây bên kia, giọng Bác chậm rãi, thân mật, ân cần:

- Bác được tin các chú về thăm Bác, nhưng hôm nay Bác bận họp Hội đồng Chính phủ, chưa gặp được; các chú cứ nghỉ ngơi cho khỏe, chờ họp xong Bác cháu ta sẽ gặp mặt càng vui.

Những điều Bác nói sao mà gần gũi, cảm động đến thế.

Do yêu cầu nhiệm vụ, tôi phải về trước, nên không được gặp Bác. Nhưng sau đó tôi có nhận được huy hiệu của Người gửi tặng.

Sau này, vào dịp Tết dương lịch năm 1964, Bác về thăm Sư đoàn 312, tôi có báo cáo với Bác rằng sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi được Bộ chỉ huy Mặt trận giao nhiệm vụ dẫn đầu đoàn chiến sĩ thi đua về chúc thọ Bác. Bác gật đầu:

- Hôm đó Bác đang bận họp, nên chỉ nói chuyện với chú qua điện thoại.

Tôi thật không ngờ! Một câu chuyện nhỏ đã qua mười năm, mặc dầu bận trăm công nghìn việc mà Bác vẫn nhớ rành rọt như vậy.

Còn tôi vẫn tâm niệm những lời dạy bảo ân cần của Bác qua các chiến dịch, trong chiến công bắt tướng Đờ Cát, đã có lời Bác dạy - quyết tâm không bao giờ thừa đối với bất cứ một trận chiến đấu, một chiến dịch nào.