Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 21 - Phần 1

Chương 21

Thế trận.

Thế trận mà Quân đoàn 4 và các Quân đoàn 1, 2, 8, và Đoàn 282 đang đứng ở vào thời điểm những ngày giữa tháng 4 năm 1975 là một thế trận được tích tụ của bốn nghìn năm dồn lại, tạo thành đỉnh cao của một thế trận hôm nay.

Trong cuộc kháng chiến ba mươi năm (1945 - 1975), dưới sự lãnh đạo kiên cường đầy bản lĩnh, mưu trí và sáng tạo của Đảng và Bác Hồ, quân và dân ta đã hai lần tạo ra một thế trận có ý nghĩa bước ngoặt. Bằng cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là trận tiêu diệt lớn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” dẫn tới Hiệp địch Giơ-ne-vơ, nửa nước được giải phóng, tạo một hậu phương lớn - nhân tố thường xuyên hậu thuẫn cho tiền tuyến miền Nam tiếp tục cuộc trường chinh lần thứ hai - cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Cuộc đồng khởi năm 1960, cuộc tiến công nổi dậy Xuân 1968, cuộc tiến công chiến lược năm 1972, cùng một lúc trên ba hướng bắc Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ.

Và sau cùng là một “Điện Biên Phủ trên không” - một sự kiện giọt nước làm tràn cốc nước diễn ra liên tục mười hai ngày đêm trên bầu trời thủ đô Hà Nội và một số nơi khác đã dẫn tới Hiệp định Paris, tạo ra một thế trận mà chính tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu, tay sai của đế quốc Mỹ đã thừa nhận có nhiều khoản trong Hiệp định này bất lợi cho chúng.

Mở đầu nhiệm vụ tạo đỉnh cao thế trận vào giữa tháng 4 năm 1975 là chiến dịch Tây Nguyên với trận thắng “điểm huyệt” Buôn Ma Thuột gây phản ứng dây chuyền làm rối loạn, đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch, tạo thời cơ nhảy vọt của cuộc tổng tiến công và nổi dậy.

Sau chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi, trên cơ sở theo sát sự phát triển của tình hình, sự phân tích chính xác của các dữ kiện, ngày 18/8/1975, Bộ Chính trị khẳng định cuộc tiến công chiến lược đã diễn ra ngay trong năm 1975, mở đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên và quyết định hoàn thành giải phóng miền Nam trong năm 1975 (từ kế hoạch hai năm rút xuống một năm).

Thấy trước sự thất bại không thể tránh khỏi của địch ở Huế - Đà Nẵng, ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị nhận định: thời cơ chiến lược lớn đã đến. cần phải tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu hành động táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không dự kiến kịp và không kịp trở tay để thực hiện quyết tâm hoàn thành giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa.

Ngày 31 tháng 3, từ nhận định thời cơ chiến lược đã chín muồi, Bộ Chính trị ấn định thời điểm cuối cùng giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất là trong tháng 4 không thể chậm.

Đi theo các tư tưởng chỉ đạo kể trên là kế hoạch chiến lược do Quân ủy Trung ương soạn thảo đã được Bộ Chính trị thông qua để chỉ đạo các chiến trường thực hiện.

Tháng 3 năm 1975 có thể nói là một tháng kỳ diệu trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Một tháng có những bước tiến thần tốc, với bốn cuộc họp của Bộ Chính trị(1) và Quân ủy Trung ương, sự chỉ đạo thực tiễn của Đảng phát triển lên một đỉnh cao mới, đó chính là nguyên nhân tạo ra đỉnh của một thế trận hôm nay.

(1) Tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị bốn lần họp bàn, thảo luận, ra các quyết định về chủ trương, chỉ đạo tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam.

- Cuộc họp ngày 11/3/1975.

- Cuộc họp ngày 18/3/1975.

- Cuộc họp ngày 25/3/1975.

- Cuộc họp ngày 31/3/1975.

Bấy giờ là hạ tuần tháng 4 năm 1975, mùa mưa đang tới gần, cái mùa mà địch rất mong đến nhanh. Còn ta thì có đủ điều kiện, cả thế và lực để tới đích cuối cùng vẫn trong tiết trời mùa khô. Tất cả lực lượng nằm trong đội hình chiến dịch tiến công mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã có mặt ở năm hướng chính: đông, đông nam, bắc, tây bắc và tây nam, chỉ cách Sài Gòn trên dưới bốn mươi đến năm mươi ki-lô-mét.

Nếu Mậu Thân 1968, cũng từ năm hướng tiến vào Sài Gòn với năm mục tiêu tương tự trong nội đô cần phải tiến công tiêu diệt, hỗ trợ lực lượng nội đô nổi dậy trong thế trận cài răng lược ta địch xen kẽ nhau, thì giờ đây, phía trước là mục tiêu tiến công, còn phía sau là một vùng giải phóng sạch bóng quân thù nối thông ra tận thủ đô Hà Nội. Từ hậu phương miền Bắc, ta có thêm một con đường xuyên Việt đã được định hình từ lâu mang cái tên quen thuộc trong tâm tưởng mọi người: quốc lộ 1A Hà Nội - Huế - Sài gòn. Nhưng giờ đây con đường thênh thang đó chưa thông trọn vẹn, mới qua Xuân Lộc, tới Dầu Dây, nhờ đó mà khối lượng chi viện từ hậu phương vào được tăng nhanh(2) đáp ứng yêu cầu của trận quyết chiến lịch sử.

(2) Phục vụ cho trận đánh cuối cùng, hậu phương miền Bắc đã huy động 17.674 ô tô các loại, 32 tàu biển, 130 toa xe lửa và hàng trăm lần chiếc máy bay vận tải đưa người và vũ khí vào Nam Bộ: 115.000 quân, 90.000 tấn hàng (có 37.000 tấn vũ khí, 90.000 tấn xăng dầu). Riêng 11 ngày chuẩn bị nước rút (từ 15 đến 26 tháng 4) đã chuyển 24.000 tấn vũ khí 25.000 tấn lương thực, thực phẩm, 1.000 tấn thuốc, 1.000 tấn xăng dầu. Hậu cần B2 trong những ngày cuối cùng đã huy động 4.000 xe ô tô vận tải các loại, 656 thuyền máy, ca nô, 1.736 xe đạp thồ, thành lập 15 bệnh viện dã chiến, 17 đội điều trị (tổng số 10.000 giường) để phục vụ chiến đấu.

Từ cuối tháng 12 năm 1974 đến trung tuần tháng 4 năm 1975, do ý thức được trách nhiệm của khối chủ lực Miền, cùng với nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương, Quân đoàn 4 liên tục xốc tới chấp nhận hy sinh, mất mát đóng góp xứng đáng của mình vào các trận tiến công tiêu diệt sinh lực, tạo thế, mở ra một vùng giải phóng rộng lớn, liên hoàn, kéo dài từ toàn bộ tỉnh Phước Long, Bình Long qua bắc Tây Ninh, Dầu Tiếng, Chơn Thành; từ Mỏ Vẹt đến La Ngà, Xuân Lộc qua Hoài Đức, Tánh Linh, từ quốc lộ 1 đến nam lộ 2, Bà Rịa hình thành bàn đạp bao vây Sài Gòn từ nhiều hướng; đông, đông nam, bắc, tây bắc... xứng đáng vị trí Đông Nam Bộ là chiến trường chủ yếu, trực tiếp đánh vào sào huyệt cuối cùng của địch là Sài Gòn.

Từ mảnh đất còn khét mùi thuốc súng, những nấm mộ của cán bộ, chiến sĩ ngã xuống sau trận chiến đấu chưa kịp mọc cỏ, Quân đoàn 4 tiến hành chuẩn bị chiến đấu - là khu vực thị xã Xuân Lộc.

Ngày 21 tháng 4 thị xã này được giải phóng, cũng là ngày Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 họp bàn nhiệm vụ tiếp theo. Có nghĩa là chúng tôi không có một phút được xả hơi, vì ngay khi Quân đoàn đang tiến hành đợt tiến công cuối cùng vào thị xã Xuân Lộc, thì đã được Bộ chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ mới.

Trước hết Quân đoàn di chuyển sở chỉ huy từ bắc sông La Ngà chuyển xuống tây bắc Long Thành, để tiện việc trinh sát thực địa, tổ chức điều hành toàn bộ lực lượng đặc công của mình xuống cùng với đặc công Miền ém giữ các cầu phục vụ nhiệm vụ mà Quân đoàn được giao là cắt đứt đường 15 tiến vào Sài Gòn theo hai trục đường: xa lộ Biên Hòa(3) - Sài Gòn và Cát Lái - Nhà Bè.

(3) Xa lộ Biên Hòa do Mỹ mở vào các năm 1955 - 1959, phí tổn lên tới ba trăm triệu đô la Mỹ. Đường mở vì mục đích quân sự, mặt đường rộng láng nhựa nhăn, nền đường rắn, kiêm cả đường băng cho một số máy bay hạ cánh, cất cánh.

Thời gian thật gấp! Nhưng đối với Quân đoàn 4 thời gian càng gấp rút hơn. Ngày 21 tháng 4 giải phóng Xuân Lộc, ngày 24 tháng 4 bắt đầu vào trận. Chỉ có sáu ngày chuẩn bị với bao công việc phải làm, không cho phép chậm, vì từ đây cuộc chiến đấu hiệp đồng trên quy mô lớn, một khâu nào đó không khớp là ảnh hưởng chung đến toàn cục.

Quân đoàn đang bắt tay vào việc triển khai thực hiện nhiệm vụ thì đêm 21 tháng 4, Bộ chỉ huy chiến dịch điện cho Quân đoàn 4 không thực hiện phương án cũ, chuyển sang hướng đánh chiếm Trảng Bom, Biên Hòa, tiến vào Sài Gòn theo trục đường 1. Hướng đường 15 và xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn giao cho Quân đoàn 2. Cũng là vào Sài Gòn nhưng theo hướng khác, thế là phấn khởi rồi! Nhưng công việc chuẩn bị thì coi như trở về điểm xuất phát ban đầu. Nỗi lo không phải riêng một ai, tất cả các đồng chí thành viên trong Bộ tư lệnh. Không ai thắc mắc vì sao lại thay đổi nhiệm vụ mà lo các công việc phải chuẩn bị gần như đi từ A đến Z!

Bộ tư lệnh và Đảng ủy Quân đoàn phải qua một đêm trắng bàn bạc, trao đổi để kịp sáng 22 tháng 4 ra sở chỉ huy tiền phương của Bộ chỉ huy chiến dịch tại Giá Rai báo cáo tình hình và thông qua quyết tâm chiến đấu với trung tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng tham mưu trưởng kiêm Phó tư lệnh chiến dịch và là chỉ huy trưởng mặt trận phía đông, gồm có Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2.

Biết anh Tấn đã vào đây, thực tế đang điều hành nhiệm vụ chiến đấu trên mặt trận phía đông qua các bức điện do anh ký tên. Nhưng tôi vẫn háo hức muốn đến thật nhanh để gặp anh.

Xe vừa chuyển bánh, tôi nhắc đồng chí lái xe:

- Tăng tốc! Để kịp giờ làm việc.

Sau tiếng rú ga, chiếc xe U-oát vọt tiến lấy đà rồi lướt nhanh đều đều trên con đường mà quang cảnh giống như vùng trung du quen thuộc Phú Thọ, Hà Bắc. Khác chăng đây là vùng mới ra khỏi chiến tranh, chỉ bắt gặp cảnh đồn bốt địch đổ nát, làng mạc, đồng ruộng bỏ hoang, cỏ mọc lút đầu; dân cư từ các khu đồn, ấp chiến lược lũ lượt kéo nhau trở về quê cũ.

Anh Tấn đây rồi! Tôi reo thầm như vậy khi nhìn thấy anh đang đi đi lại lại trong căn lán dã chiến. Hai chúng tôi ôm nhau, tần ngần ngắm nhìn nhau với bao kỷ niệm xưa cũ lại hiện về như một cuốn phim lướt qua trước mặt.

Khi còn là trung đoàn trưởng trung đoàn Sơn La, là tư lệnh Khu 10, đại đoàn trưởng Đại đoàn 312, anh luôn luôn tạo thuận lợi cho cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Và giờ đây anh cũng vậy, anh vẫn dành thời gian thể hiện đầy đủ trọng trách của một trong những người giữ vai trò chủ chốt trong việc dự thảo kế hoạch chiến lược phục vụ hội nghị Bộ Chính trị họp tháng 10 và tháng 12 năm 1974 thảo luận, ra nghị quyết về kế hoạch hai năm giải phóng hoàn toàn miền Nam. Hiểu rõ ý đồ của các bước đi, hiểu nghệ thuật chỉ đạo chiến lược và các chiến dịch kế tiếp nhau (chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng) và bây giờ là chiến dịch Hồ Chí Minh, nên trong khi thông qua quyết tâm của Quân đoàn, anh kết hợp trao đổi để cấp dưới hiểu thêm những vấn đề cần thiết trước khi bắt tay vào thực hiện.

Anh nói:

- Chiến dịch Hồ Chí Minh ta đánh địch có phòng ngự, nhưng trong thế chúng đang tan vỡ về chiến lược. Ta đột phá tuyến phòng ngự từ xa, kết hợp vu hồi, hình thành bao vây, trọng điểm là thủ đô ngụy quyền, rồi kết hợp đột phá tiêu diệt quân địch phòng ngự với thọc sâu, lấy thọc sâu là chính, đánh chiếm những mục tiêu then chốt để dứt điểm toàn bộ.

Điều anh nói thêm, làm rõ tư tưởng chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch này đã giúp chúng tôi đỡ rối trong việc xây dựng kế hoạch chiến đấu cụ thể, biết tập trung vào các nội dung trọng tâm, khắc phục được thời gian hạn hẹp, bảo đảm được yêu cầu chung.

Sau khi anh phê chuẩn quyết tâm chiến đấu của Quân đoàn, tôi chỉ có một đề nghị: vì đội hình chiến đấu của chúng tôi còn cách vùng ven từ mười lăm đến hai mươi ki-lô-mét trong khi địch tập trung quân đông, phải qua nhiều địa hình phức tạp, xin cấp trên cho nổ súng trước ngày 27 tháng 4, có như thế mới cùng một lúc thực hiện đồng loạt đánh vào nội đô đúng ngày N của chiến dịch.

Anh Tấn nói:

- Quân đoàn 2 cũng có chung điều kiện như vậy. Tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Hoàng Cầm, nhưng còn phải xin ý kiến cấp trên.

Tám giờ sau khi trở lại Quân đoàn, đang căng thẳng cùng với các anh trong Bộ tư lệnh triển khai chuẩn bị công việc chiến đấu thì anh Tấn điện xuống báo tin Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh chấp thuận cho cánh quân phía đông nổ súng trước ngày N-1 (tức ngày 26 tháng 4). Đọc xong điện của anh, tôi nhẹ nhõm thở phào, cất được một mối lo, đầu óc bớt căng.

Chiều 23 tháng 4, Bộ tư lệnh và Đảng ủy Quân đoàn họp bàn kế hoạch triển khai cụ thể. Chúng tôi dành nhiều thời gian trao đổi để thấy hết những khồ khăn, bàn biện pháp chủ động khắc phục.

Đúng là trên hướng tiến công của Quân đoàn, tuy địch không có chính diện rộng nhưng có chiều sâu gần sáu mươi ki-lô-mét theo trục đường 1 với nhiều cụm phòng ngự dày đặc; nhất là sau khi quân khu 1, quân khu 2 thất thủ, trong bọn tướng cầm đầu quân đội ngụy xuất hiện hai khuynh hướng: nhiều tên cho tình hình xấu đi nhanh chóng, cộng sản đang uy hiếp mạnh Sài Gòn, vì vậy cần tập trung lực lượng co cụm lại quanh ven đô để giữ Sài Gòn. Nhưng Thiệu và một số tên tướng khác (trong đó có Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh quân đoàn 3) thì phản đối co cụm.

Số này cho rằng có thể giữ vững vùng còn lại, cần tiến hành phòng thủ từ xa, tập trung lực lượng phản kích lấy lại một số nơi để mở rộng thế đứng phòng thủ. Trước hết địch dồn sức mạnh cho Xuân Lộc, địch co về giữ khu vực Trảng Bom - Hố Nai, Biên Hòa - Long Bình, Long Thành - Nước Trong và các cầu trên sông Đồng Nai với lực lượng hơn hai sư đoàn, trong đó, một phần hai là lực lượng dự bị.

Không có cách nào khác, muốn tới mục tiêu cuối cùng, mọi cuộc chiến đấu phải diễn ra trên trục đường 1. Không tiêu diệt được địch, không đập vỡ các cụm, các tuyến phòng ngự của địch, không thể tiến vào nội đô.

Sau khi trao đổi cặn kẽ các vấn đề chủ yếu, một lần nữa quán triệt chỉ đạo của Bộ chỉ huy chiến dịch và những ý kiến hướng dẫn của anh Lê Trọng Tấn, chiều ngày 23/4/1975, Bộ tư lệnh và Đảng ủy Quân đoàn họp, hạ quyết tâm lần cuối: tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực phát huy sức mạnh đột kích của cơ giới và xe tăng, nhanh chóng đập vỡ và chọc thủng tuyến phòng thủ Biên Hòa, đánh chiếm hai cầu trên sông Đồng Nai, mở cửa đột kích vào Sài Gòn, đánh chiếm các mục tiêu quy định trong nội thành. Trước mắt tiêu diệt lực lượng còn lại của sư đoàn 18 và trung đoàn 5 thiết giáp ngụy, đánh chiếm yếu khu Trảng Bom, không cho địch co cụm về Biên Hòa, mở đường cho đội hình lớn của quân đoàn thọc sâu vào Sài Gòn.

Về sử dụng lực lượng, Quân đoàn quyết định: Sư đoàn 341 đánh chiếm Trảng Bom, mở đường số 1, sau đó chiếm sở chỉ huy sư đoàn 3 không quân và sân bay Biên Hòa. Sư đoàn 6 được tăng cường Trung đoàn 209 (sư đoàn 7) đánh chiếm căn cứ trung đoàn 3 ngụy và tiểu khu Biên Hòa. Hai Sư đoàn 341 và Sư đoàn 6 sẽ mở cửa lớn cho quân đoàn tiến vào Sài Gòn. Sư đoàn 7 là binh đoàn thọc sâu, hành quân bằng cơ giới thọc thẳng vào Sài Gòn, đánh chiếm các mục tiêu thuộc địa bàn quận 1. Nhưng đánh như thế nào? Đây cũng là vấn đề được nêu ra trao đổi. Căn cứ vào thời gian, vào đặc điểm địa hình và vào hình thái bố trí của địch(4) không thể tiến công theo đội hình nhiều thê đội thay phiên nhau làm nhiệm vụ trước mắt, tiếp sau, mà phải tiến hành đồng thời, xen kẽ hỗ trợ nhau, bảo đảm phối hợp chung giữa các hướng chiến dịch.

(4) Khu vực phòng ngự chính của địch:

- Dọc theo quốc lộ số 1 từ Bầu Cá - Trảng Bom đến Long Lạc Hố Nai do lực lượng còn lại của sư đoàn 18, trung đoàn 5 và một bộ phận lữ đoàn 3 thiết giáp phòng ngự.

- Đông Nam Biên Hòa do một bộ phận lữ đoàn 468 thủy quân lục chiến, trường thiết giáp và lực lượng bảo an Long Thành đảm nhiệm.

Khu Long Bình, tiểu khu Biên Hòa, căn cứ sư đoàn 3 không quân Biên Hòa do lữ đoàn 3 thủy quân lục chiến, lữ đoàn dù 2 và bảo an, lực lượng bảo vệ các hậu cứ, khu kho Long Bình đảm nhận.

17 giờ ngày 26/4/1975, Quân đoàn lệnh cho Sư đoàn 341 nổ súng tiến công khu Trảng Bom; đồng thời theo kế hoạch chung, ở đông nam Trảng Bom, tiểu đoàn công binh trực thuộc quân đoàn triển khai mở đường quân sự làm gấp (gần như song song với đường 1 và đường xe hỏa) xuống tới bắc Hố Nai. Phối hợp với Sư đoàn 341 ở hướng chính diện Trảng Bom, Quân đoàn lệnh cho Sư đoàn 6 theo đường quân sự vừa mở, bất ngờ đánh vào tuyến phòng ngự then chốt Hố Nai do lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến và lữ đoàn 3 thiết giáp phòng giữ, chặn viện từ Biên Hòa ra Trảng Bom; đồng thời chặn đường rút của sư đoàn 18 từ Trảng Bom về, hỗ trợ Sư đoàn 341 hoàn thành nhiệm vụ.

Như vậy trên hướng chính diện, trong khi Sư đoàn 341 đang tiến công Trảng Bom - một chốt rất trọng yếu của tuyến phòng ngự tiền duyên, thì Sư đoàn 6 được một tiểu đoàn xe tăng dẫn đầu hai tiểu đoàn cao xạ hỗ trợ trên không tiến theo phía nam (đường quân sự làm gấp mới mở) đánh vào mục tiêu ở phía sau, mang cả yêu cầu vu hồi, chia cắt phía sau Trảng Bom.

Quân đoàn hồi hộp theo dõi sau khi phát lệnh đến quá trình Sư đoàn 6 bước vào chiến đấu! Vì đây là cách đánh gần như chưa gặp bao giờ?

Cuộc chiến đấu ở yếu khu Trảng Bom diễn ra gay go ác liệt ngay từ phút đầu ta nổ súng. Tại đây địch lập nhiều tuyến chống xe tăng, nhiều ổ hỏa lực với mìn chống tăng rải ra một đoạn dài trên mặt đường và hai bên đường. Hai mươi sáu khẩu pháo 105 và 155 ly bố trí thành nhiều trận địa rải rác gần đó để yểm trợ, gây sát thương ta trên dọc đường từ vị trí tập kết tiến vào vị trí tiến công. Ngoài ra địch còn tăng thêm một tiểu đoàn xe tăng được điều tới để tăng đầu tăng bịt các chỗ bị đột phá. Xe tăng ta chọi với xe tăng địch, giằng co suốt đêm 26 rạng ngày 27 tháng 4.

Nhận định khi bị ta đánh mạnh, địch sẽ rút chạy về phía sau, Quân đoàn lệnh cho sư đoàn phải đồng thời có lực lượng đánh chiếm Suối Đìa, lập trận địa chốt chặn để diệt tàn quân địch từ Trảng Bom rút về. Sư đoàn 341 đã linh hoạt xử trí, kết hợp giữa dùng xe tăng dẫn đầu bộ binh với đánh bộc phá mở cửa (có quả bộc phá dùng tới lượng nổ năm ki-lô-gam) đánh vào mục tiêu then chốt - sở chỉ huy yếu khu và sở chỉ huy tiểu đoàn bảo an 368. Đến 8 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4 ta hoàn toàn giải phóng Trảng Bom, tiêu diệt và làm tan rã 2.000 quân địch, đánh hỏng và phá hủy 100 xe tăng, thiết giáp và xe vận tải quân sự, làm chủ đoạn đường 1 dài mười bốn ki-lô-mét từ ngã ba sông Thao đến tây Trảng Bom.

Cùng lúc, Sư đoàn 6 đã tới mục tiêu quy định, nhanh chóng đập tan khu vực phòng thủ suối Ông Hoàng, diệt và làm tan rã trung đoàn 5 thiết giáp địch ở ngã ba Yên Thế, phát triển về phía nam. Nhận được tin vui này, chúng tôi phấn khởi và yên tâm với cách đánh phía trước, phía sau xảy ra đồng thời, đan xen, tạo được hình thái thế trận tiến công có lợi. Khi Sư đoàn 341 giải phóng Trảng Bom, thì Sư đoàn 6 đang phát triển về hướng Hố Nai.

Như vậy là ngày đầu tiến công (27 tháng 4) Sư đoàn 341 và Sư đoàn 6 đã hoàn thành đánh chiếm Trảng Bom - Suối Đìa - Long Lạc. Nhưng chưa vượt được Hố Nai đánh vào Biên Hòa.

Khi tiến công Hố Nai ta đã có lực lượng hai sư đoàn, vì trước đó Sư đoàn 6 đã vòng qua tuyến phòng ngự của địch đánh vào phía sau, kịp thời hợp lực với Sư đoàn 341 sau khi giải phóng Trảng Bom, thành đội hình phát triển về phía Hố Nai - Biên Hòa.

Chúng tôi bồn chồn, lo lắng! Đúng là không cái lo lắng nào trước đó như cái lo lắng lần này. Vì đây là trận đánh lịch sử cuối cùng. Nếu các hướng chiến dịch đã vào đến mục tiêu cuối cùng trong nội đô, hoàn thành giải phóng Sài Gòn mà Quân đoàn 4 vẫn còn loay hoay ở vòng ngoài là không hoàn thành trách nhiệm lịch sử ở vào giờ phút thiêng liêng nhất này?

Đã sang ngày 28 tháng 4, như Bộ chỉ huy chiến dịch thông báo, hầu hết các hướng phát triển thuận lợi, các binh đoàn chủ lực đã tới trước cửa ngõ Sài Gòn. Còn ở hướng đông, Quân đoàn 4 chúng tôi vẫn gặp phải khó khăn trong nhiệm vụ phát triển về hướng Biên Hòa, vì địch lập tại đây một tuyến phòng thủ và cũng tại đây “lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, địch cấu trúc các tuyến hào chống tăng(5) để chặn đối phương”.

(5) Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa Xuân. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, trang 287.

Ngoài hầm hào, rào kẽm gai bãi mìn chống bộ binh ở các căn cứ, đồn bốt sẵn có từ trước, địch đã thiết kế những trận địa mới, đào hào, rải mìn chống tăng, đưa các xe tăng M.41, M.48 nằm sâu dưới các ụ đất, các hầm hào có bao cát bao quanh, chĩa nòng pháo về các con đường tiến của xe tăng ta. Ngoài ra địch còn biến các dãy phố, nhà dân, công sở, nhà thờ, trường học, bệnh viện thành trận địa. Chúng chất lên đó những bao cát thành lô cốt, hỏa điểm, thành những ổ đề kháng lợi hại. Chúng đặt súng M.72 hỏa tiễn chống tăng, súng máy 12,7 ly, ĐKZ 57 trên những tháp chuông, cửa sổ nhà tầng, sẵn sàng nhả đạn, chặn đường tiến của ta.

Lực lượng địch ở đây còn khá đông; lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến giữ trục đường Hố Nai - Biên Hoà; số đơn vị còn lại của sư đoàn 18 giữ khu vực Hố Nai - Long Bình; chiến đoàn 318 bảo an giữ khu vực ngã ba HQ Nai - Tam Hiệp. Chúng dựa vào hệ thống trận địa phòng thủ có sẵn để chống ta; chúng trà trộn với dân, lẫn lộn trong dân, dùng dân làm lá chắn, đẩy dân chống lại bộ đội. Cuộc chiến của các đơn vị tiến công đã phức tạp càng trở nên phức tạp, việc phân biệt địch và dân trong lúc chiến sự diễn ra ác liệt thật khó!

Cuộc chiến đấu trong thế giằng co ác liệt, mãi chiều 28 tháng 4 Sư đoàn 341 mới vào đến bắc Hố Nai Một (địa đầu của tuyến phòng thủ then chốt Hố Nai). Nhiều trận đánh diễn ra ngay trong trung tâm thị trấn. Ta vừa đánh vừa tìm cách tách địch ra khỏi dân, tách dân ra khỏi địch để đánh chiếm từng mục tiêu, tạo bàn đạp đánh rộng ra.

Trong khi phía trước Sư đoàn 341, Sư đoàn 6 đang bước vào giai đoạn chiến đấu, vấp phải sự chống trả rất mạnh của lực lượng địch phòng thủ thì Quân đoàn lệnh cho Sư đoàn 7 tiến hành thọc sâu theo đường quân sự làm gấp tiến về phía Suối Đìa. Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn đi cùng với Phó tư lệnh Bùi Cát Vũ trực tiếp chỉ huy đội hình thọc sâu.

Sáng 29 tháng 4, ở sở chỉ huy cơ bản chúng tôi bắt được mẩu đối thoại giữa phụ tá Tổng Tham mưu trưởng(6) với Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh quân đoàn 3 ngụy dưới đây qua đài kỹ thuật.

(6) Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng làm nhiệm vụ Tổng Tham mưu trưởng quân đội ngụy Sài Gòn lúc này là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ban Binh vận Trung ương Cục đưa vào hoạt động theo sự chỉ đạo của ta từ ngày 28/4/1975.

- Xin trung tướng cho biết tình hình.

- Nguy ngập lắm! Việt cộng dùng xe tăng đánh chiếm Trảng Bom, Long Thành, pháo kích Long Bình. Đường 15 bị cắt rồi. Vũng Tàu có lẽ cũng rơi vào tay cộng quân, vì hiện mất liên lạc. Quân đoàn 3 ở Biên Hòa bị bao vây ba mặt. Tôi định di chuyển sở chỉ huy quân đoàn về căn cứ thiết giáp Gò Vấp.