Giấc mơ Trung Quốc - Chương 04 - Phần 02

II. TÍNH CÁCH TRUNG HOA LÀM NÊN “HIỆN TƯỢNG TRUNG QUỐC”

“Quốc gia bá đạo” tất nhiên sẽ thể hiện các “hiện tượng bá đạo” như “cường quyền”, “xâm lược”, “chiếm lĩnh”, “thực dân” - đó là biểu hiện của bản chất quốc gia bá đạo. “Trung Quốc vương đạo” thể hiện “hiện tượng Trung Quốc” - đó là sự thể hiện của tính chất quốc gia Trung Quốc, như Trung Quốc “cao thượng”, văn minh”, “từ thiện”.

Quốc gia Anh ngữ có cả đống, quốc gia Hán ngữ chỉ có một

Trong 6 ngôn ngữ làm việc của Liên Hợp Quốc có 5 ngôn ngữ đều không phải là ngôn ngữ chính thức của một quốc gia mà là ngôn ngữ chính thức của nhiều quốc gia. Theo thống kê, Anh ngữ là ngôn ngữ chính thức của 45 quốc gia trên thế giới. Các quốc gia như Anh, Mỹ, Canada, Australia, New Zealand v.v. đều lấy tiếng Anh làm tiếng mẹ đẻ.

Toàn thế giới có 200 triệu người nói tiếng Pháp, trong đó chỉ có 60 triệu là người Pháp; hơn 20 nước dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức.

Toàn thế giới hiện nay có 110 triệu người nói tiếng Đức; có 3 quốc gia dùng tiếng Đức làm ngôn ngữ chính thức duy nhất, đó là Đức, Áo (Austria), Lích-ten-xten (Liechtenstein).

Toàn thế giới có 350 triệu người nói tiếng Tây Ban Nha, hơn 20 quốc gia dùng tiếng Tây Ban Nha làm ngôn ngữ chính thức.

Ngôn ngữ chính thức của Liên Xô là tiếng Nga; sau khi Liên Xô tan rã thành 15 quốc gia, có 4 nước dùng tiếng Nga làm ngôn ngữ chính thức, đó là Nga, Belarus, Kazakhstan và Kirghistan.

Hiện nay, chỉ có một quốc gia dùng Hán ngữ làm tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ chính thức, đó là Trung Quốc.

Trên thế giới này từ xưa tới nay chỉ có một quốc gia dùng Hán ngữ làm ngôn ngữ chính thức. Điều đó nói lên quốc gia ấy xưa nay chưa bao giờ xâm lược nước khác, chưa bao giờ bành trướng bản thân. Còn mấy chục quốc gia Anh ngữ trước kia đều là quốc gia bị đế quốc Anh chinh phục và chiếm làm thuộc địa, trước tiên bị người Anh chiếm lĩnh, sau đó chiếm hữu.

Xưa nay Trung Quốc chưa bao giờ xây dựng “Trung Quốc ở ngoài nước”

Sự trỗi dậy của các quốc gia phương Tây trước sau đều gắn liền với xâm lược nước ngoài, bành trướng, thực dân, buôn bán nô lệ da đen. Đoàn thám hiểm của nhà hàng hải Bồ Đào Nha Henry năm 1411 mang từ châu Phi về hơn chục nô lệ da đen. Đây là mở đầu nạn buôn bán nô lệ do người châu Âu tiến hành trực tiếp từ châu Phi. Sau đó công việc thám hiểm của ông tiến hành đồng thời với việc chiếm thuộc địa và buôn bán nô lệ. Phát hiện thấy vùng đất nào là chiếm lĩnh vùng đó; đoàn thám hiểm in dấu chân ở đâu, nơi ấy tức là đường biên giới quốc gia Tây Ban Nha. Đặc biệt năm 1481 sau khi vua Bồ Đào Nha[8] là Joao II lên ngôi bèn tuyên bố xây dựng “Đế quốc Bồ Đào Nha ở ngoài nước”. Nhưng Trung Quốc xưa nay chưa từng xây dựng “Trung Quốc ở ngoài nước”, không có lịch sử xây dựng “Trung Quốc quốc ngoại”.

[8] Sách Trung Quốc in nhầm là Tây Ban Nha, người dịch sửa lại cho đúng với lịch sử.

Vì sao người Trung Quốc không xây dựng “Trung Quốc ở ngoài nước”? Không phải do Trung Quốc không có năng lực hàng hải và năng lực chinh phục, mà do Trung Quốc không có ý muốn bành trướng. Ở phương Tây, các quốc gia hàng hải lớn hễ phát hiện vùng đất mới là chiếm lĩnh ngay, còn Trung Quốc thì phát hiện nhưng không chiếm lĩnh, phát hiện rồi lại có quan hệ hữu hảo. Trên các vấn đề Tây Tạng, Tân Cương của Trung Quốc, các quốc gia phương Tây còn tung hỏa mù công kích Trung Quốc. Trên mạng Interrnet có lưu hành rộng rãi bài viết của một thanh niên Trung Quốc phản bác luận điệu của phương Tây. Người thanh niên Trung Quốc 21 tuổi ấy du học tại Canada, anh làm một video clip có tên “Tây Tạng xưa kia, hiện nay, sau này mãi mãi là một bộ phận của Trung Quốc”, nhằm nói với mọi người một sự thực: nếu người phương Tây từ tất cả các nơi ở châu Mỹ, châu Đại Dương, châu Phi, châu Á đều cuốn gói rút về châu Âu thì Trung Quốc sẽ rút khỏi Tây Tạng; nếu không thì chớ nên bàn các vấn đề ấy với chúng tôi. Nếu phương Tây thật sự có thể làm thế thì một nửa số quốc gia châu Âu hiện có sẽ biến khỏi trái đất này.

Người Trung Quốc “lá rụng về cội”, người Anh Quốc “bén rễ bốn biển”

Người Trung Quốc khi rời tổ quốc ra đi bao giờ cũng nghĩ rằng mình khó có thể bỏ quê nhà mà sẽ “lá rụng về cội”. Nhưng người Anh khi rời nước mình thì sẽ dựng nhà mới tại địa điểm tốt trên vùng đất mới chiếm lĩnh ở ngoài nước, thành lập một quốc gia mới do họ làm chủ. Người Anh gieo hạt khắp nơi ở ngoài nước, bén rễ bốn biển. Vào các triều đại nhà Hán, thời kỳ Tam Quốc, đời nhà Tùy, đầu thế kỷ XIII Trung Quốc đều có những con đường tơ lụa, gồm con đường tơ lụa trên đất liền và con đường tơ lụa trên biển. Trung Quốc có các khám phá lớn về địa lý sớm hơn nhiều so với người châu Âu, nhưng người Trung Quốc có “khám phá lớn” mà không có “chiếm lĩnh lớn”.

Cũng là sự di chuyển dân nhưng Trung Quốc không có “Giấc mơ Trung Quốc ở ngoài nước” mơ ước xây dựng quốc gia mới ở bên ngoài biên giới. Còn người châu Âu thì dùng uy lực của tàu chiến súng lớn để thực hiện “Giấc mơ thực dân ở ngoài nước” hết lần này đến lần khác. Sự trỗi dậy của châu Âu được thực hiện bằng cách đưa hơn 60 triệu người di cư ra ngoài nước, thành lập các thuộc địa ở khắp nơi. Nước Anh di dân ra ngoài nước, khai thác các thuộc địa, lập nên nhiều “Nước Anh ở ngoài nước”. Còn người Trung Quốc thì trước sau đều ở trên đất nước mình, dựa sức mình để giải quyết các vấn đề của mình. Chính quyền Trung Quốc không tổ chức di cư một lượng lớn dân ra ngoài nước; tuy rằng vì nhiều lý do, Trung Quốc có 60 triệu người Hoa ở ngoài nước nhưng xưa nay họ chưa từng vì mẫu quốc mà lập thuộc địa ở ngoài nước, xưa nay chưa bao giờ lập một “Trung Quốc ở ngoài nước”.

Ngày nay, nhiều quốc gia Anh ngữ trên thế giới tuy từ lâu đã không còn là một quốc gia nữa, song do mối quan hệ huyết thống khăng khít giữa các quốc gia đó với nhau nên họ thường dễ liên kết thành liên minh, đặc biệt khi dưới sự thúc đẩy của những lợi ích chiến lược chung nào đó thì nhân tố ấy sẽ nẩy mầm. Ngày 5 tháng 3 năm 1946 trong bài “Diễn thuyết Bức màn sắt” nổi tiếng, Churchill từng kêu gọi xây dựng mối quan hệ đặc biệt giữa Anh với Mỹ, nhằm thực hiện sự thống trị thế giới của các dân tộc nói tiếng Anh, “Không có sự liên hợp anh em của các đồng bào dân tộc Anh ngữ mà tôi nói, thì sẽ không thể nào thực hiện được việc ngăn ngừa chiến tranh một cách hữu hiệu và tiếp tục phát triển tổ chức thế giới”.

Trung Quốc xưa nay chưa từng có kế hoạch lớn chinh phục thế giới

Trong thế giới cận đại, tất cả các nước lớn trỗi dậy đều đưa ra và thực thi kế hoạch chiến lược xâu xé thế giới, bá quyền thế giới. Từ cổ xưa Trung Quốc đã là một nước văn minh, lễ nghĩa, nhân nghĩa, thành tín, một nước phòng ngự. Bởi vậy, khái niệm “thiên hạ” của người Trung Quốc xưa nay chưa từng vượt ra ngoài cương thổ Trung Quốc. Tầng lớp tinh anh trong các triều đại Trung Quốc bao giờ cũng nói trời nói đất trong quốc gia của mình, định sách lược tác chiến trong lều trại của mình, lôi kéo hoặc chia rẽ. Từ đế quốc Tần cho tới nước Trung Quốc Mới, trong tư duy chiến lược của dân tộc Trung Hoa xưa nay chưa có tư duy chinh phục hoặc thống trị thế giới.

Trung Quốc chưa sản sinh ra loại cương lĩnh chiến lược và kế hoạch chiến lược chinh phục thế giới như kiểu “Tờ sớ Tanaka” từng ra đời tại Nhật Bản, trong đó viết: “Nếu muốn chinh phục thế giới trước tiên phải chinh phục Trung Quốc; nếu muốn chinh phục Trung Quốc, trước tiên phải chinh phục Mãn Châu Mông Cổ”.

Trung Quốc chưa hề đẻ ra loại cương lĩnh và kế hoạch có tên “Tác phẩm bí mật mưu đồ hùng vĩ của Hoàng đế Đức” (tên gốc là “Cuộc tác chiến của Trẫm”) lấy thống trị thế giới làm mục tiêu, yêu cầu phải “chinh phục Pháp, thần phục Nhật Bản, quyết chiến Mỹ” từng ra đời tại nước Đức. Ngày 18 tháng 12 năm 1940, mục tiêu chiến lược này của nước Đức lại được cụ thể hóa thành mệnh lệnh tác chiến số 21 tấn công Liên Xô, do Hitler ký, có mật hiệu là “Kế hoạch Barbarossa”. Bản kế hoạch này yêu cầu trước khi kết thúc chiến tranh với nước Anh phải đánh tan Liên Xô bằng một cuộc viễn chinh chớp nhoáng; sau khi đánh tan Liên Xô và giải quyết xong vấn đề nước Anh sẽ cùng Nhật Bản “quét sạch thế lực của bọn Anglo-Saxon tại Bắc Mỹ”. Dự kiến lực lượng lính thủy đánh bộ hùng mạnh sẽ xuất phát từ các căn cứ tại Greenland, Băng Đảo (Iceland), quần đảo Azores và Brazil đổ bộ lên bờ biển Đông Bắc Mỹ; xuất phát từ quần đảo Aleutian và quần đảo Hawaii đổ bộ lên bờ biển phía Tây nước Mỹ. Vì thế Bộ Thống soái quân đội Đức không những đã ấn định kế hoạch tường tận cho cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô mà còn ấn định kế hoạch xâm lược dài hạn thống trị thế giới tấn công Anh và Mỹ.

Trung Quốc chưa hề đẻ ra loại kế hoạch chiến lược như “Di chúc của Peter I” từng xuất hiện tại nước Nga; trong đó Đại đế Peter[9] nói dân tộc Nga mãi mãi được ánh sáng của thần thánh soi đường và được thần thánh phù hộ, có sứ mạng thống trị toàn bộ châu Âu. Ở thời đại châu Âu là trung tâm thế giới thì chinh phục và thống trị châu Âu cũng tức là chinh phục và thống trị thế giới.

[9] Đại đế Peter : 1672-1725, tức Pi-ốt Đại đế nước Nga (1682-1725), Sa Hoàng đầu tiên thực hành cải cách hành chính, phát triển công thương nghiệp và văn hoá giáo dục, xây dựng lục quân và hải quân chính quy, tiến hành bành trướng ra ngoài biên giới.

Tại Trung Quốc cũng chưa hề xuất hiện ý tưởng chiến lược như kiểu “Biến Thái Bình Dương thành ao nhà của nước Mỹ”.

Trung Quốc có “viễn hàng”, châu Âu có “viễn chinh”

Vào cuối đời nhà Minh, Trung Quốc là trung tâm kinh tế của thế giới, tổng sản lượng kinh tế Trung Quốc chiếm 45% của thế giới. Sản lượng sắt thời nhà Minh gấp 2,5 lần đời Bắc Tống, đầu năm Vĩnh Lạc lên tới 9.700 tấn. Hồi ấy Nga là nước sản xuất sắt nhiều nhất châu Âu cũng chỉ có 2.400 tấn. Lực lượng quân sự, nhất là lực lượng hải quân thời nhà Minh cực kỳ hùng mạnh. Sử gia nổi tiếng Needham cho rằng có lẽ hải quân triều nhà Minh giỏi hơn bất kỳ nước châu Á nào, thậm chí vượt qua bất kỳ nước châu Âu nào, tất cả các nước châu Âu liên kết lại cũng chẳng thể địch nổi hải quân triều nhà Minh. Paul Kennedy viết: một phần ba sản lượng sắt thép dùng vào việc sản xuất binh khí của đế quốc Minh. Triều nhà Minh hùng mạnh mà không viễn chinh, vì triều Minh không muốn bành trướng.

Trịnh Hòa, nhà hàng hải lớn triều Minh ngày 11 tháng 7 năm 1405 dẫn một hạm đội quy mô lớn bắt đầu một hành động dũng cảm 7 lần ra biển Tây. Đến năm 1433, hạm đội Trịnh Hòa trong thời gian gần 30 năm đã lần lượt tới Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, xa nhất tới tận Hồng Hải và bờ biển phía Đông châu Phi, hành trình qua hơn 30 nước và vùng lãnh thổ. Trịnh Hòa 7 lần đến 4 biển, nói chung mỗi lần có khoảng 27.000 người đi theo, phải dùng hơn 260 thuyền, trong đó có hơn 60 thuyền quý loại lớn và vừa, những chiếc thuyền quý này có lượng dãn nước ước tính khoảng 1.500 tấn. Trong đời mình, Columbus từng nhiều lần đi biển tới châu Mỹ, lúc ít nhất sử dụng 3 chiếc thuyền, nhiều nhất là 17 chiếc, nói chung lượng dãn nước của mỗi thuyền khoảng 100 - 200 tấn, nhân viên đi theo ít nhất là 90 người, nhiều nhất là 1.200 - 1.500 người. Da Gama[10] trước sau đi biển đến Ấn Độ 2 lần, loại thuyền ông dùng có lượng dãn nước vào khoảng 50 - 120 tấn.

[10] Vasscoda Gama: người Bồ Đào Nha, 1460-1524, nhà hàng hải đầu tiên khám phá tuyến hàng hải từ châu Âu vòng qua Mũi Good Hope đến Ấn Độ (1497-1499), phát hiện ra Ấn Độ, 1524 làm Tổng Đốc Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha.

Trong 30 năm đi biển, quân đội Trung Quốc lần lượt đến hơn 30 quốc gia, chưa từng dùng vũ lực chiếm một quốc gia nào, không thành lập một thuộc địa nào ở ngoài nước mình, chưa từng cướp đoạt của cải của một quốc gia nào mà làm sứ giả hữu hảo thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa, là những chuyến đi biển hòa bình hữu hảo. Về sau những thuộc địa bị các quốc gia thực dân phương Tây từ xa ngàn dặm đến phương Đông chinh phục đều là những nơi Trịnh Hòa mấy chục năm trước từng đi qua. Vì sao Trung Quốc “có viễn hàng [đi biển xa] mà không có viễn chinh”? Đó là do Trung Quốc tuy có lực để bành trướng và chiếm thuộc địa nhưng lại không có ý muốn bành trướng và chiếm lĩnh.

Năm 1433 trong chuyến viễn dương lần thứ 7, Trịnh Hòa ốm chết. Do sự nghiệp đi biển xa của ông bị nhiều đại thần phản đối hoàng đế mới lên ngôi của triều Minh ra lệnh: “Đình chỉ việc đưa thuyền quý đi các phiên quốc Tây Dương”. Từ đó sự nghiệp hàng hải của Trung Quốc bị hoàn toàn bãi bỏ, thuyền quý của Trịnh Hòa bị bỏ xó tại cảng Thái Thương và dần dần bị mục nát. Không những thế, Binh Bộ triều Minh còn đốt hết các xưởng đóng thuyền và tất cả tài liệu, bản vẽ Trịnh Hòa từng bỏ nhiều năm ra để làm.

Thế kỷ XV trong lịch sử thế giới là thời gian quan trọng để loài người đi từ thời đại lục địa sang thời đại biển; hồi ấy Trung Quốc có lực lượng biển mạnh nhất nhưng lại kiên quyết rút ra khỏi biển cả. Hegel từng xúc động nói: “Người Trung Quốc quay đầu lại, xoay lưng về phía biển”. Khi người Trung Quốc quay lưng lại với biển thì người châu Âu lại xông ra biển, mở đầu các khám phá địa lý lớn của thời đại biển, chiếm nhiều thuộc địa đất rộng và cướp đoạt tài nguyên ở ngoài nước.

Paul Kennedy còn vạch ra: “Trong tất cả các nền văn minh thời kỳ trước cận đại, không có nền văn minh quốc gia nào phát triển hơn, tiên tiến hơn văn minh Trung Quốc”. Paul Kennedy cho rằng nhân tố chính khiến Trung Quốc tụt hậu thuần túy là tính bảo thủ của tầng lớp quan lại sùng bái học thuyết Khổng Tử. Tất cả các quan lại quan trọng đều quan tâm ủng hộ và phục hồi quá khứ, chứ không phải là sáng tạo tương lai sán lạn hơn trên cơ sở bành trướng và buôn bán ra ngoài nước, điều đó đã gây nên sự chán ghét của tầng lớp chủ chốt và tư bản tư nhân trong toàn bộ đế quốc. Sự phê phán của người phương Tây về việc người Trung Quốc từ bỏ biển cả chẳng phải là từ một mặt khác chứng minh không bành trướng, không cướp đoạt, không chiếm thuộc địa là khuynh hướng ý thức chủ yếu của Trung Quốc hồi đó đấy ư?

Có mấy quốc gia tuyên bố không sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên?

Có bao nhiêu quốc gia tuyên bố không sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên?

Hiện nay, trên thế giới có 8 quốc gia hạt nhân công khai (cộng thêm Triều Tiên); nhiều nước có vũ khí hạt nhân nhiều hơn Trung Quốc; cũng có rất nhiều nước ít vũ khí hạt nhân hơn Trung Quốc, nhưng cho tới nay, quốc gia tuyên bố không sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên thì chỉ có một, đó là Trung Quốc.

Mỹ là nước có vũ khí hạt nhân sớm nhất thế giới, là nước sử dụng vũ khí hạt nhân trước nhất, cũng là nước có số lượng vũ khí hạt nhân nhiều nhất và có kỹ thuật hạt nhân tiên tiến nhất thế giới, có lực lượng quân sự thông thường mạnh nhất thế giới, thế nhưng lại không chịu tuyên bố không sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên. Cho tới nay, Trung Quốc là nước đầu tiên và cũng là duy nhất tuyên bố không trước tiên sử dụng vũ khí hạt nhân. Trên vấn đề vũ khí hạt nhân, Trung Quốc và Mỹ thể hiện tính cách quốc gia khác nhau rất nhiều.

Không những là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân đầu tiên tuyên bố mình không sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên mà Trung Quốc còn tuyên bố không sử dụng vũ khí hạt nhân đối với các nước và khu vực không sở hữu vũ khí hạt nhân. Trung Quốc đơn phương gánh vác nghĩa vụ các nước hạt nhân khác không chịu gánh vác. Trung Quốc không giúp nước khác phát triển vũ khí hạt nhân, chính phủ Trung Quốc nhất quán tuân theo chính sách không chủ trương, không khuyến khích, không làm thế kỷ phổ biến vũ khí hạt nhân.

Trên vấn đề vũ khí hạt nhân, chiến lược hạt nhân của Trung Quốc có tính phòng ngự. Vũ khí hạt nhân của Trung Quốc không dùng để giết người mà là để phòng thân.

Toàn thế giới vui mừng nghe thấy Tổng thống Mỹ Obama đưa ra lời kêu gọi xây dựng “thế giới phi hạt nhân”. Xây dựng thế giới phi hạt nhân là một nhiệm vụ nặng nề. Để xây dựng “thế giới phi hạt nhân” trước hết phải xây dựng một “thế giới các nước hạt nhân tuyên bố không trước tiên sử dụng vũ khí hạt nhân”. Là nước đề xuất thế giới phi hạt nhân, liệu nước Mỹ có thể lấy Trung Quốc làm gương, tuyên bố với toàn thế giới là “Nước Mỹ không sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên” được chăng?

Trung Quốc có “Tám cái không làm” với Mỹ

Cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, “Thuyết Trung Quốc đe dọa” đang bị người ta bàn tán ầm ĩ. Nước khác lo ngại “Trung Quốc đe dọa” còn có thể thông cảm chứ người Mỹ la hét “Thuyết Trung Quốc đe dọa” thì quả là người bình thường không thể tưởng tượng nổi. Tính cách Trung Quốc quyết định việc nước Mỹ sẽ không bị Trung Quốc đe dọa.

Trung Quốc có “Tám cái không làm” với Mỹ, Mỹ cũng có “Tám điều yên tâm” với Trung Quốc.

1. Người Trung Quốc không phải là người Nhật Bản trước năm 1945 - giữa Trung Quốc với Mỹ sẽ không có “Vụ Trân Châu cảng”.

2. Người Trung Quốc không phải là người Đức trong thời gian hai cuộc Thế chiến - Trung Quốc sẽ không dùng vũ lực thách thức thế giới, sẽ không bắn phát súng, quả đại bác trước tiên vào nước Mỹ.

3. Người Trung Quốc không phải là người Nga trước năm 1991 - không cần dùng thủ đoạn chiến tranh lạnh để đối phó với nó, Trung Quốc sẽ không gây chiến tranh lạnh với Mỹ.

4. Tuy lạc hậu hơn Mỹ về kỹ thuật quân sự nhưng Trung Quốc bất kỳ lúc nào cũng không “bắn nhầm” sứ quán Mỹ. Cho nên đại sứ quán Mỹ ở bất kỳ nơi nào trên thế giới đều không cần đề phòng bị máy bay Trung Quốc “bắn nhầm”.

5. Máy bay trinh sát quân sự Trung Quốc sẽ không bay tới bờ biển phía Tây nước Mỹ, gây ra vụ “đâm nhau” với máy bay quân sự Mỹ ở trước cửa nước Mỹ, sẽ không để cho phi công Mỹ bị đâm rơi xuống biển.

6. Giả thử nước Mỹ có vùng nào đó đòi độc lập, đòi ly khai, Trung Quốc sẽ không nhúng tay, không làm “Dự luật quan hệ” với cái vùng đòi độc lập, đòi ly khai ấy của nước Mỹ, càng không bán vũ khí cho họ.

7. Trung Quốc sẽ không thi hành chiến lược “Đông hóa, phân hóa” với nước Mỹ, không thực thi chiến lược “diễn biến hòa bình” với nước Mỹ.

8. Trung Quốc sẽ không tổ chức bất cứ “đồng minh”, “liên minh” nào hữu hình hoặc vô hình nhằm vào nước Mỹ.

Thế nhưng trên tám mặt kể trên, nước Mỹ có thể làm cho Trung Quốc yên tâm được không?.