Giấc mơ Trung Quốc - Chương 05 - Phần 04

Cuối thập niên 30 thế kỷ XX, Mỹ mới bắt đầu dần dần thay đổi tư tưởng chiến lược. Tháng 2 năm 1938 Mỹ sửa đổi “Kế hoạch da cam”, ngoài việc giữ tư tưởng cơ bản tác chiến tấn công Nhật trên Thái Bình Dương vốn có, đã sơ bộ đánh giá sự đe dọa của Đức và Ý đến từ bên kia bờ Đại Tây Dương. Tháng 2 năm 1939, Roosevelt đề nghị Quốc Hội tăng cường cả thảy 16 căn cứ hải quân, trong đó số căn cứ ở vùng Thái Bình Dương thì gấp 3 lần số căn cứ tại vùng Ca-ri-bê. Điều đó phản ánh tư tưởng chiến lược coi Thái Bình Dương là trọng điểm vẫn chưa triệt để thay đổi. Chỉ tới khi tháng 3 năm 1939, Đức chiếm toàn bộ Tiệp Khắc rồi nêu yêu cầu lãnh thổ đối với Ba Lan, sau đấy tháng 4 năm 1939 Uỷ ban Liên hợp Lục Hải quân Mỹ mới đề xuất bản báo cáo vạch ra: nếu cả hai đại dương đồng thời có đe dọa thì nên giữ thế thủ trên Thái Bình Dương, giữ đủ số quân đội, lấy Hawaii làm căn cứ địa, bảo vệ “Tam giác chiến lược” (Hawaii - Alaska - Panama). Điều đó có ý nghĩa là tư tưởng cơ bản tấn công Nhật trên Thái Bình Dương đã bị hủy bỏ, trở thành bước ngoặt chuyển biến tư tưởng chiến lược của quân đội Mỹ.

Trên cơ sở đó, tháng 6 năm 1939 Ủy ban Liên hợp Lục hải quân Mỹ ấn định một kế hoạch tác chiến mới - “Kế hoạch cầu vồng”, đặt ra 5 tình huống cho cuộc chiến tranh có thể xảy ra trên hai đại dương và ấn định 5 phương án tương ứng. Trong đó, phương án “Cầu vồng số 5” giả thiết Mỹ, Anh, Pháp liên hiệp tác chiến, đồng thời với việc bảo đảm an toàn cho Tây bán cầu, sẽ sớm đưa quân Mỹ tới Đại Tây Dương và xuất quân tại châu Âu và châu Phi để hiệp đồng Anh và Pháp áp dụng chiến lược tấn công Đức và Ý. Trên Đại Tây Dương sẽ giữ thế phòng ngự chiến lược cho tới khi đánh bại các nước khối Trục châu Âu thì mới triển khai phản công chiến lược đánh Nhật trên Thái Bình Dương. “Cầu vồng số 5” gần giống nhất với kế hoạch chiến tranh Mỹ đã thi hành trên thực tế trong Đại chiến Thế giới lần II, đánh dấu sự dần dần hình thành tư tưởng chiến lược “Châu Âu thứ nhất”. Mãi cho tới tháng 1 năm 1941 khi Bộ Tham mưu hai nước Anh và Mỹ kết hợp nhau ấn định kế hoạch “ASC-1” thì phương châm đại chiến lược “Châu Âu thứ nhất” mới được chính thức xác định.

Sự chỉ đạo chiến lược của Mỹ thể hiện trên chiến lược quân sự, tính dự kiến về chiến tranh, tính kiên quyết trong chuẩn bị chiến tranh đều rất mạnh, hơn nữa còn có thể căn cứ theo sự biến đổi tình thế quốc tế mà kịp thời thay đổi đối tượng tác chiến, kịp thời điều chỉnh phương châm chiến lược, qua đó nắm quyền chủ động chiến lược. Thành công của chiến lược quân sự Mỹ đã phát huy tác dụng đặc biệt đối với thành công trỗi dậy của nước Mỹ.

Giấu mình chờ thời: chậm xuất đầu lộ diện

Trong nghệ thuật trỗi dậy của Mỹ có một điểm là “Giấu mình chờ thời [nguyên văn tiếng Trung Quốc: Thao quang dưỡng hối] đặc sắc Mỹ”, tức là cho dù hiện nay đã có điều kiện ưu việt để làm lãnh tụ thế giới thì cũng chưa vội xuất đầu lộ diện và đứng mũi chịu sào.

Warren Cohen từng nói: “Lịch sử chuyển biến thế giới thời gian 1913 - 1945 cũng là lịch sử biển đổi vai trò thế giới của nước Mỹ. Châu Âu từng đóng vai trò trung tâm mối quan hệ quốc tế tác động tới các nơi trên toàn cầu, kể cả Mỹ, từ sau Thế chiến I đã đánh mất địa vị bá quyền. Niên đại sau năm 1817 đánh dấu sự trỗi dậy của Mỹ với tư cách là lãnh tụ toàn cầu; cho dù ngay khi không lợi dụng lực lượng quân sự để thực sự phát huy tác dụng lãnh đạo (như thập niên 20 thế kỷ XX) thì Mỹ cũng cung cấp tài nguyên kinh tế và văn hóa để xác định và duy trì trật tự toàn cầu. Thực sự có một trường hợp ngoại lệ là giữa thập niên 30 thế kỷ XX, nước Mỹ né tránh quyền lãnh đạo quốc tế hoặc sự hợp tác quốc tế trên các tầng nấc và lùi về chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa đơn phương; nhưng cho dù vào hồi ấy, sử dụng ngôn từ của Joseph Nye thì vẫn có thể thấy rõ sớm muộn thì nước Mỹ đều sẽ phải nhất định lãnh đạo”.

Khi Thế chiến II sắp thắng lợi, “Roosevelt và các đồng sự hy vọng nước Mỹ sẽ trỗi dậy từ trong chiến tranh, tiến tới trở thành quốc gia mạnh nhất thế giới. Khác với Thế chiến I, sau cuộc chiến tranh này họ quyết tâm phải lãnh đạo thế giới. Lần này họ cần lập ra một trật tự thế giới có thể tăng tiến lợi ích của Mỹ, khiến cho nước Mỹ chẳng những có thể tăng được của cải và quyền thế của mình mà còn có thể phổ cập giá trị quan của mình tới bất kỳ xó xỉnh nào trên thế giới. Mỹ không thể một lần nữa lẩn tránh trách nhiệm nước lớn mà nên cung cấp một kiểu quyền lãnh đạo cần thiết cho việc lập nên trật tự kinh tế quốc tế theo chủ nghĩa tự do - lấy cơ sở là tự do thương mại và hối suất tiền tệ ổn định, tạo dựng sự phồn vinh các dân tộc chưa từng thấy. Nước Mỹ ắt phải lãnh đạo thế giới nhằm ngăn chặn sự sống lại của cường quyền Đức, Nhật, ngăn chặn sự trỗi dậy của các cường quyền khác noi gương đế quốc Hitler và Nhật”.

“Giấu mình chờ thời” mang đặc sắc Mỹ là truyền thống chủ nghĩa biệt lập từng bén rễ sâu ở nước Mỹ. Sức mạnh của truyền thống đó lớn tới mức khi nước Mỹ có đủ lực lượng làm lãnh tụ thế giới, khi một số nhân vật tinh anh Mỹ muốn xuất đầu lộ diện và đứng mũi chịu sào trong cộng đồng xã hội quốc tế, thì họ vẫn gặp trục trặc, trắc trở. “Bi kịch Wilson” xuất hiện sau Thế chiến I là một thí dụ thực tế điển hình.

Sau khi sức mạnh kinh tế Mỹ trở thành quán quân thế giới, nước Mỹ trải qua nửa thế kỷ mới từ “Giấu mình chờ thời” đi lên cương vị lãnh tụ thế giới.

Chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha năm 1898 là một cột mốc quan trọng đánh dấu nước Mỹ từ chủ nghĩa biệt lập chuyển sang nền ngoại giao theo chủ nghĩa thế giới. Năm 1899 Mỹ đề xuất “chính sách mở cửa” về Trung Quốc[9]. Năm 1904 Roosevelt nêu “suy luận” về chủ nghĩa Monroe là hành động tăng cường sự chuyển biến đó.

[9] Chính sách mở cửa, tức Open Door Policy, do Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ John Hay đề xuất năm 1899 để áp dụng cho Trung Quốc khi nước này bị các nước phương Tây bắt nạt và xâm lược. Trung Quốc cho rằng chính sách này nhằm để quân bình lợi ích các nước phương Tây trong việc xâu xé Trung Quốc.

“Nguyên tắc 14 điểm” về việc xử lý vấn đề hòa bình sau chiến tranh do Wilson đề xuất đầu năm 1918, trên thực tế là một bản kế hoạch tranh giành bá quyền, cũng là bản kế hoạch nước Mỹ muốn dẫn dắt và lãnh đạo thế giới. Ba điều khoản quan trọng trong đó đều là điều khoản giành giật bá quyền thế giới: một là hủy bỏ các hiệp ước bí mật, tức là phải ngăn chặn các cường quốc châu Âu bí mật chia chác thế giới sau lưng Mỹ; hai là nhấn mạnh dân tộc tự quyết, tức là muốn làm tan rã hệ thống thực dân cũ của các cường quốc châu Âu; ba là đề nghị xây dựng “Hội Quốc Liên”, đây là ý đồ muốn thao túng hệ thống an ninh quốc tế sau Thế chiến I.

Sự phá sản của bàn kế hoạch tranh giành bá quyền này có nguyên nhân như sau: nước Mỹ hồi ấy tuy đã là cường quốc quân sự, kinh tế nhưng vẫn còn yếu về chính trị quốc tế và ngoại giao, các nước lớn khác trên thế giới chưa sẵn sàng chấp nhận Mỹ lãnh đạo và chủ đạo các công việc thế giới, mặt khác cũng do ý tưởng Mỹ lãnh đạo thế giới còn chưa trở thành dòng chính trong dư luận nội bộ nước Mỹ. Bởi vậy, tuy Wilson đã “thắng chiến tranh” nhưng lại để “mất hòa bình”, tuy đã thiết kế được bản vẽ thế giới tươi đẹp nhưng lại không thể nào thi công được.

Sau Thế chiến II, Roosevelt qua việc xây dựng liên minh chống phát xít đã xây dựng thành công cơ cấu an ninh quốc tế mà Wilson chưa xây dựng được - Liên Hợp Quốc, và thông qua nguyên tắc “5 nước lớn nhất trí” và “Quyền phủ quyết của nước lớn” hình thành từ đó, đã đảm bảo được địa vị chủ đạo của Mỹ tại Liên Hợp Quốc.

Trong Đại chiến Thế giới lần thứ II, các ngành kinh tế Mỹ nhất là ngành công nghiệp quân sự đều phát triển nhanh chóng. Tới năm 1945, thu nhập quốc dân của Mỹ tăng hơn gấp đôi năm 1939, tổng trọng tải của đội tàu buôn lên tới 57 triệu tấn, chiếm 2/3 đội tàu buôn toàn thế giới, lượng vàng và kim loại quý Mỹ sở hữu cũng chiếm 59% toàn thế giới, đồng dollar Mỹ trở thành đồng tiền mạnh thực sự duy nhất trên thế giới hồi ấy. Trong thương mại quốc tế Mỹ cũng chiếm địa vị lũng đoạn. Sức mạnh quân sự Mỹ chẳng những thâm nhập khắp đại lục châu Âu mà còn chiếm cứ nhiều địa điểm chiến lược quan trọng tại các vùng khác trên thế giới. Sự độc quyền về vũ khí hạt nhân càng làm cho Mỹ trở thành cường quốc quân sự có sức răn đe nhất. Sức mạnh quân sự, kinh tế, chính trị của Mỹ sau chiến tranh tạo điều kiện để Mỹ trở thành vai chính trên sân khấu chính trị thế giới và lấp đầy những khoảng trống do các nước châu Âu để lại.

Thế nhưng có sức mạnh chủ đạo thế giới còn cần có quyết sách chiến lược và dã tâm chủ đạo thế giới - điều đó phụ thuộc vào việc nước Mỹ có thoát ra khỏi chính sách “chủ nghĩa biệt lập” hay không. Xét thấy “chủ nghĩa quốc tế” của Wilson sau Thế chiến I từng bị thất bại, để tránh giẫm lên vết xe đổ cũ, chính phủ Roosevelt trong thời gian chiến tranh đã bắt tay chuẩn bị về chính sách và dư luận.

Sau vụ Trân Châu cảng, chính phủ Mỹ thành lập Ủy ban Tư vấn chính sách đối ngoại sau chiến tranh, do Bộ trưởng Ngoại giao Cordell Hull và Thứ trưởng Ngoại giao Sumner Welles làm chánh, phó chủ tịch, nhằm ấn định chính sách bố trí trật tự thế giới sau chiến tranh. Tại hội nghị ba nguyên thủ (Mỹ, Anh, Liên Xô) họp trong thời gian chiến tranh, Roosevelt đã chuyển hóa các chính sách đó thành sự thu xếp cụ thể sau chiến tranh, cố gắng biến đồng minh thời chiến thành cơ chế hợp tác thu xếp thế giới sau chiến tranh do Mỹ chủ đạo. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hull và những người khác đã cố gắng làm cho công chúng Mỹ tin rằng việc tham gia thu xếp trật tự kinh tế quốc tế sau chiến tranh và khôi phục cơ chế buôn bán tự do nhiều bên là điều không thể thiếu được đối với sự duy trì phồn vinh kinh tế Mỹ sau chiến tranh. Bộ trưởng Tài chính Henry Morgenthau đề xuất với Thượng viện là Mỹ cần xây dựng một hệ thống thế giới nhằm sao cho “các doanh nhân có thể tiến hành buôn bán quốc tế và đầu tư quốc tế theo nguyên tắc thương mại”.

Khi chiến tranh chấm dứt, ở Mỹ vẫn có những người chủ trương không nên can thiệp vào công việc của châu Âu. Đúng là chính phủ Mỹ từng có một thời gian định thu hẹp lực lượng Mỹ tại châu Âu, song tình hình suy yếu của các quốc gia Tây Âu đã khiến cho các nhà quyết sách Mỹ đi tới nhận định: hoặc là mặc kệ Tây Âu xảy ra các rối loạn chính trị, kinh tế nghiêm trọng, qua đó đe dọa hệ thống chủ nghĩa tư bản thế giới, hoặc là xuất đầu lộ diện tiến hành can thiệp với quy mô lớn. Sức mạnh của Mỹ và lợi ích chiến lược toàn cầu của Mỹ đã làm cho nước này lựa chọn sự can thiệp. Vì thế mà có “Hiệp định tài chính Anh - Mỹ” tháng 12 năm 1945 và các biện pháp khác viện trợ châu Âu.

Nước Mỹ cảnh giác như thế nào với những cái “bẫy chiến lược”

Nước Mỹ có một đặc điểm quan trọng là luôn luôn giữ được sự cảnh giác chiến lược cao độ đối với các thế lực nước ngoài. Truyền thống chiến lược này bắt đầu từ nhà lãnh đạo khai quốc công thần Washington.

Washington nói: phải luôn luôn cảnh giác với mọi âm mưu quỷ kế của nước ngoài

Trong diễn văn từ biệt năm 1796, Washington từng nhắc nhở nhân dân Mỹ như sau: “Nên xoá bỏ phản cảm thâm căn cố đế có nguồn gốc từ lâu với một số quốc gia cá biệt cũng như tình cảm tốt đẹp mạnh mẽ đối với các quốc gia khác, không có gì quan trọng hơn điều này... để đối phó với mọi âm mưu quỷ kế của các thế lực nước ngoài... một dân tộc tự do nên luôn luôn giữ tinh thần cảnh giác”. Câu nói này của Washington là lời khuyên bảo chân thành tình sâu nghĩa nặng đối với nhân dân Mỹ, là lời cảnh báo đầy ý thức phòng xa, cũng là kết tinh trí tuệ chiến lược của bậc công thần khai quốc, là tổng kết kinh nghiệm cuộc đời đấu tranh của Washington.

Theo quan điểm của Washington, các thế lực nước ngoài đều có âm mưu quỷ kế; một dân tộc tự do chẳng những phải có tinh thần cảnh giác đối với các âm mưu đó mà còn phải thêm hai chữ “luôn luôn”, phải lúc nào cũng giữ được cảnh giác, một phút cũng không được lơ là, buông lỏng.

Dĩ nhiên không thể chỉ dùng quan điểm của “Thuyết âm mưu” để xem xét các thế lực nước ngoài và các vấn đề quốc tế, nhưng cũng không thể chỉ dùng quan điểm của “Thuyết phi âm mưu” để xem xét. Thế giới này có âm mưu quỷ kế, vì vậy ắt phải cảnh giác, hơn nữa, phải như Washington yêu cầu người Mỹ - lúc nào cũng cảnh giác.

“Bẫy Bismarck” và “Thống kê của De Gaulle”

Trong cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, “âm mưu quỷ kế của các thế lực nước ngoài” như Washington nói là thứ thường thấy không bao giờ không có.

“Bẫy Bismarck” trong cuộc cạnh tranh Pháp - Đức thế kỷ XIX là một thí dụ điển hình. Trong chiến tranh Phổ - Pháp thời gian 1870 - 1871[10], Phổ thắng Pháp, Hoàng đế Pháp bị bắt làm tù binh. Nhưng nội bộ nước Phổ xảy ra sự chia rẽ sâu sắc về chính sách đối với Pháp. Đại sứ Đức tại Pháp nhiệm kỳ đầu tiên là Harry von Arnim chủ trương khôi phục chế độ hoàng đế của Pháp. Nhưng xuất phát từ mục đích chiến lược muốn Pháp trở nên bị cô lập, rối ren và suy yếu để sau này khó có thể cạnh tranh với Đức, Bismarck chủ trương khôi phục nền cộng hòa Pháp. Bismarck cho rằng một chính quyền cộng hòa không ổn định sẽ ở vào trạng thái cô lập bị cách ly trong một châu Âu mà chế độ quân chủ chiếm địa vị thống trị. Năm 1872, trong một bản tấu trình, Bismarck viết: “Đối với châu Âu vương triều liên hợp, quả núi lửa Paris (chính quyền cộng hòa không ổn định) không có chút nguy hiểm nào, nó sẽ tự cháy tự tắt”. Bismarck kiên trì để Pháp lập chế độ cộng hòa, để Pháp như một quả núi lửa không ổn định suốt ngày phun ra dân chủ, rơi vào tình trạng rối ren mất ổn định - đây là trạng thái lý tưởng có lợi nhất cho nước Đức. Nhưng Arnim ngoan cố kiên trì ý kiến của mình, cuối cùng ông này bị cách chức và bị tố cáo phạm tội phản quốc.

[10] Chiến tranh Phổ - Pháp: diễn ra trong thời gian 6/1870 – 5/1871, do Pháp tuyên chiến trước, kết thúc bằng thắng lợi của Phổ, đem lại sự thống nhất Đế chế Đức dưới sự cai trị của vua Wilhelm I và đánh dấu sự sụp đổ của hoàng đế Pháp Napoléon III và Đệ nhị đế chế Pháp, sau đó được thay bằng nền cộng hoà thứ III. Vùng Alsace-Lorraine bị Phổ chiếm cho đến khi Thế chiến I kết thúc. Hồi ấy Bismarck đang là Thủ tướng phục vụ triều đình hoàng đế Phổ Wilhelm I.

Bảy mươi năm sau âm mưu của Bismarck, De Gaulle tiến hành phân tích thống kê vạch ra một cách rõ ràng nguyên nhân thất bại của Pháp. Ông cho rằng thất bại chiến lược của Pháp có một nguyên nhân quan trọng là trước chiến tranh nội bộ nước Pháp diễn ra tình trạng các đảng phái đấu tranh gay gắt với nhau, chính phủ thay xoành xoạch làm cho nhà nước rệu rã kiệt sức. Chính là chế độ nghị viện của nền Cộng hòa thứ III dẫn tới “Trong 65 năm 1875 - 1940, nước Pháp đã thay đổi 102 khoá chính phủ mà nước Anh chỉ mới thay đổi có 20 khoá chính phủ, nước Mỹ chỉ mới thay có 14 nhiệm kỳ Tổng thống”. De Gaulle nhiều lần thấy bất cứ Thủ tướng nào mới nhậm chức liền phải hứng chịu vô số các đòi hỏi quá khắt khe và lời phê bình, “Cho dù cố gắng hết sức cũng vẫn chẳng thể ứng phó nổi, càng chưa nói tới việc nắm tình hình toàn cục. Nghị viện quyết không ủng hộ Thủ tướng, họ chỉ làm những việc kín đáo hãm hại Thủ tướng và từ bỏ Thủ tướng. Các bộ trưởng là kẻ địch chính trị của Thủ tướng. Dư luận báo chí và lợi ích đảng phái đều coi Thủ tướng là đối tượng dĩ nhiên để oán trách. Mọi người đều biết Thủ tướng chỉ có thể tại chức trong một thời gian rất ngắn, Thủ tướng cũng là người đầu tiên biết chuyện ấy”.

Bẫy Bismarck để lại di hại cho tới thập niên 50 thế kỷ XX. Nền Cộng hòa thứ IV [Pháp] xác lập năm 1947 thay đổi xoành xoạch chính phủ. Thời gian 1947 - 1958 từng 24 lần thay đổi chính phủ, bình quân thời gian sống của mỗi chính phủ chỉ có hơn 5 tháng, hơn nữa có hai chính phủ chỉ tồn tại đúng một ngày: chính phủ Christian Pineau ngày 17-18 tháng 2 năm 1955 và chính phủ Antoine Pinay ngày 17-18 tháng 10 năm 1957. De Gaulle chủ trương Nghị viện Chế hiến[11] có quyền lập pháp và quyền giám sát chính phủ nhưng không được thay chính phủ nắm chính quyền. Chính phủ nên “có chức, có quyền và ổn định”. Do chính phủ lâm thời chỗ nào cũng bị Nghị viện Chế hiến cản trở níu kéo, ngày 20 tháng 1 năm 1946 De Gaulle tức giận từ chức. Mãi cho tới tháng 9 năm 1958, khi bản hiến pháp nền Cộng hòa thứ V tăng cường đáng kể quyền lực của Tổng thống được thông qua, sau khi được bầu làm Tổng thống nhiệm kỳ thứ nhất, De Gaulle mới có điều kiện để triển khai hoài bão chính trị của mình.

[11] Nghị viện chế hiến (hoặc lập hiến): constituent assembly.

Tích cực đẩy mạnh việc xây dựng nền dân chủ mang đặc sắc Trung Quốc là một nhiệm vụ quan trọng. Nhưng một số thế lực nước ngoài lại cổ xuý Trung Quốc nên thực thi chế độ đại dân chủ kiểu Mỹ, dùng đại dân chủ để làm Trung Quốc rối loạn, trì trệ. Đây là một cái bẫy, một âm mưu. Đối với vấn đề này Trung Quốc cũng phải ghi nhớ lời cảnh báo của Washington là luôn luôn cảnh giác với âm mưu quỷ kế của các thế lực nước ngoài.

Không thể không có tư tưởng đề phòng Mỹ: số phận lịch sử của “Thuyết âm mưu” và “Thuyết cạm bẫy”

Vấn đề chiến lược số một của dân tộc Trung Hoa trong thế kỷ XXI khi hướng ra thế giới là đối mặt với nước Mỹ; đối tượng Trung Quốc cần hợp tác nhất là Mỹ, đối tượng Trung Quốc cần cảnh giác nhất cũng là Mỹ.

Mỹ là quốc gia luôn luôn cảnh giác với mọi âm mưu quỷ kế của các thế lực nước ngoài, và cũng là quốc gia giỏi sử dụng âm mưu quỷ kế, cài cạm bẫy chiến lược. Mỹ từng dùng cạm bẫy chiến lược chạy đua vũ trang để đối phó với Liên Xô. Mỹ là tay cự phách về chiến tranh lạnh, có truyền thống chiến tranh lạnh và tư duy chiến tranh lạnh sâu nặng. Chiến tranh lạnh trên thực tế là cuộc chiến cạm bẫy, cuộc chiến âm mưu, cuộc chiến quỷ kế. Trung Quốc không thể không có tư tưởng đề phòng nước Mỹ.

Để đối phó Trung Quốc, Mỹ có nhiều chỗ có thể đặt cạm bẫy. Họ có thể cài cạm bẫy chính trị, xuất khẩu và đầu tư đại dân chủ vào Trung Quốc, làm cho Trung Quốc rối loạn. Họ có thể cài cạm bẫy kinh tế, gây khủng hoảng tài chính, chiến tranh tài chính, cuỗm lấy những đồng tiền mồ hôi và máu nhân dân Trung Quốc cần cù làm ra mà tiếc rẻ không nỡ tiêu pha. Họ có thể cài cạm bẫy quân sự, tạo điều kiện để Trung Quốc đánh trận thua ở một vùng nóng nào đấy xung quanh Trung Quốc. Họ có thể đặt cạm bẫy ngoại giao, xúi bẩy quan hệ, gây mâu thuẫn, hình thành một liên minh chống Trung Quốc nào đó.

Tháng 1 năm 2007, giám đốc Ban chính sách ngoại giao của “Trung tâm cải cách châu Âu” Mark Leonard cho rằng năm 2020 là năm ranh giới của thế kỷ XXI, Trung Quốc sẽ thay thế Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nền chính trị toàn cầu sẽ từ chính trị đơn cực chuyển biến thành chính trị đa cực. Chính sách gọi là “cân bằng thế lực” mà Mỹ thi hành có hai vĩ độ: - duy trì địa vị một siêu cường của Mỹ; - tại từng vùng đều dùng phương thức ủng hộ chính quyền dân chủ để duy trì thế quân bình ở vùng đó. Thí dụ tại châu Âu, Mỹ lấy Liên minh châu Âu làm lực lượng cân bằng và ngăn chặn Nga; tại châu Á, Mỹ cùng Australia, Ấn Độ, Nhật kết thành liên minh nhằm ngăn chặn Trung Quốc.

Một nhân sĩ quốc tế cho rằng: thành tựu quan trọng nhất của sức mạnh mềm Trung Quốc là Bắc Kinh có thể phòng ngừa được bất kỳ liên minh quốc tế nào hình thành trên chiến lược ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Thế giới sau này sẽ không có “Liên minh chống Mỹ”. Nhưng thế giới sau này phải chăng nhất định không có “Liên minh chống Trung Quốc”?

Quá trình tiến bộ của văn hóa loài người đi từ văn hóa Hobbes[12] tới văn hóa Locke[13] và văn hóa Kant[14] vừa là một quá trình dài lâu vừa cũng là một quá trình quanh co lắt léo. Trong quá trình đó nếu đánh mất sự cảnh giác đối với các âm mưu quỷ kế của thế lực nước ngoài thì ắt hẳn sẽ thất bại lớn. Bởi vậy, vẫn nên gượng nhẹ đối với sự phê phán “Thuyết âm mưu”, “Thuyết cạm bẫy”. Các phần tử tinh anh càng không được dùng ảo tưởng “Thuyết phi âm mưu” thậm chí “Thuyết Thiên thần” để làm quần chúng nhân dân u mê.

[12] Văn hoá Hobbes: nền văn hoá chịu ảnh hưởng của Thomas Hobbes, (xem chú thích 1 Chương III), nhà triết học chính trị theo chủ nghĩa duy vật máy móc, ủng hộ chế độ quân chủ, đề ra thuyết Khế ước, có ảnh hưởng lớn tới thế giới.

[13] Văn hoá Locke: nền văn hoá chịu ảnh hưởng của John Locke, 1632-1704, triết gia duy vật người Anh, sáng lập chủ nghĩa kinh nghiệm, chứng minh tri thức của nhân loại bắt nguồn từ thế giới cảm tính, là người đầu tiên trình bày toàn diện tư tưởng dân chủ hiến chính, chủ trương chính thể quân chủ lập hiến, có ảnh hưởng lớn tới triết học và chính trị thế giới.

[14] Văn hoá Kant: nền văn hoá chịu ảnh hưởng của triết gia Đức Immanuel Kant, 1724-1804, người sáng lập triết học duy tâm cổ điển Đức, chủ trương tri thức của nhân loại là hữu hạn.

Hãy ghi nhớ lời khuyên chân thành của Washington: “Vì để đối phó với các âm mưu quỷ kế của thế lực nước ngoài, một dân tộc tự do nên luôn luôn giữ tinh thần cảnh giác”. Trung Quốc trước sau như một nên giương cao ngọn cờ lớn “Thuyết hợp tác, “Thuyết hữu hảo”, “Thuyết bạn bè”, tranh thủ được càng nhiều càng tốt sự thống nhất nhận thức của cộng đồng quốc tế. Nhưng Trung Quốc cũng quyết không thể không nghe thấy tiếng chuông cảnh báo của “Thuyết ngăn chặn”, “Thuyết âm mưu”, “Thuyết cạm bẫy”, cần phải luôn luôn giữ tinh thần cảnh giác với các âm mưu quỷ kế của thế lực nước ngoài.