Giấc mơ Trung Quốc - Chương 05 - Phần 03

Bản thiết kế “chủ nghĩa thế giới” của Roosevelt: đỉnh cao của đại chiến lược Mỹ

Lý tưởng và bản thiết kế “chủ nghĩa thế giới” của Roosevelt[6] trước ngày kết thúc Thế chiến II là giai đoạn bốn và hình thái thứ tư của đại chiến lược Mỹ.

Sau Thế chiến I, chiến lược đi ra thế giới của Wilson gặp trắc trở. Nhưng nỗ lực của Wilson rốt cuộc là một thử nghiệm của nước Mỹ. Tiến trình Thế chiến II đem lại cơ hội rất tốt cho việc Mỹ xây dựng bá quyền thế giới. Sau năm 1943, Roosevelt tỏ ý rõ ràng là “quyền lực mà nước Mỹ đã giành được - quyền lực đạo nghĩa, chính trị, kinh tế và quân sự” “đem lại cho nước Mỹ trách nhiệm lãnh đạo cộng đồng quốc tế và theo đó là cơ hội cũng đến”. Trước khi Thế chiến II kết thúc, tập đoàn lãnh đạo Mỹ với đại diện là Roosevelt và Hull[7] từng đưa ra một số ý tưởng và biện pháp sau này được sử gia Arthur Meier Schlesinger Jr gọi là “chủ nghĩa thế giới”. Họ cho rằng chiến tranh đã làm cho cơ cấu thế quân bình truyền thống của châu Âu bị phá hoại nặng, cần phải dựa vào Mỹ, Liên Xô và Anh Quốc để duy trì trật tự thế giới. Mỹ nên và có thể ở trong thế giới này, thông qua tổ chức Liên Hợp Quốc để giữ gìn kết cục an ninh tập thể thay cho thế quân bình và phạm vi thế lực của các nước lớn, bảo đảm địa vị lãnh tụ thế giới của Mỹ.

[6] Roosevelt ở đây là Franklin Roosevelt, 1882-1945, Tổng thống Mỹ thứ 32, làm Tổng thống 4 nhiệm kỳ liền (1933-1945), được coi là Tổng thống tốt nhất nước Mỹ.

[7] Hull tức Cordell Hull, 1871-1955, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ 1933-1943, người đảng Dân chủ, ủng hộ New Deal của Roosevelt, chống Nhật xâm lược Trung Quốc, góp phần xây dựng Liên Hợp Quốc; giải Nobel Hoà bình 1945.

Thời kỳ đầu sau chiến tranh, hoài bão “chủ nghĩa thế giới” của Roosevelt và sắc thái mê hồn của “chủ nghĩa lý tưởng” của ông vẫn là nguyên tắc cơ bản trong chính sách ngoại giao Mỹ. Tới đầu năm 1946, ý kiến về tính chất thế giới sau chiến tranh và phương châm của Mỹ đối với Liên Xô đã dần dần hình thành. Luồng ý kiến chủ yếu ở Mỹ cho rằng Liên Xô đã từ bạn đồng minh trong chiến tranh trở thành đối thủ tranh giành bá quyền thế giới, Liên Xô đã không còn là bạn hợp tác mà là đối tượng cần ngăn chặn.

Quỹ tích phát triển đại chiến lược của Mỹ sau ngày lập quốc là một quá trình tiến theo thời gian. Đây là một quá trình đi từ chiến lược độc lập ngoại giao nhà nước đến chiến lược bá quyền khu vực châu Mỹ của chủ nghĩa Monroe, rồi đến chiến lược đế quốc biển xông ra khỏi châu Mỹ tiến ra ngoài nước, cuối cùng vào sau Thế chiến II đạt tới đỉnh cao của mình trong chiến lược “chủ nghĩa thế giới” lấy xưng bá toàn cầu làm mục tiêu. Trong quá trình đó đại chiến lược Mỹ thích ứng với nhu cầu nước Mỹ trỗi dậy, dẫn dắt thực hiện sự trỗi dậy của nước Mỹ. Thành công trỗi dậy của nước Mỹ cũng là thành công của tư tưởng chiến lược Mỹ.

Văn hóa Mỹ không phải là văn hóa “phi chiến lược”

Cụ Nữu Tiên Chung chuyên gia chiến lược học nổi tiếng viết trong “Nghiên cứu chiến lược” như sau: Người Mỹ coi trọng kỹ thuật mà không coi trọng tư tưởng, coi trọng quản lý mà không coi trọng chiến lược. Bởi vậy, văn hóa chiến lược Mỹ là một loại văn hóa “phi chiến lược”.

Ông còn nêu lên bối cảnh độc đáo của sự hình thành văn hóa chiến lược Mỹ: một, từ ngày dựng nước tới nay nước Mỹ về địa lý luôn cách ly với thế giới bên ngoài, đây cũng là căn nguyên của chủ nghĩa biệt lập. Hai, trong quá trình khai sơn phá thạch, các vấn đề người Mỹ phải đối mặt đều là vấn đề đời sống hiện thực bức thiết, hình thành tâm trạng ăn xổi ở thì chỉ cầu lợi trước mắt. Ba, Mỹ là nước không có truyền thống lịch sử lâu đời, cho nên trên dưới cả nước đều phổ biến thiếu ý thức lịch sử. Bốn, xã hội Mỹ là xã hội công nghiệp hóa cao độ, hầu như người Mỹ đều là kỹ sư cả, vì thế đối với bất kỳ vấn đề nào đều muốn tìm kiếm giải đáp có tính kỹ thuật.

Kiểu nhận thức nói trên [của Nữu Tiên Chung] không phù hợp với thực tế quá trình chiến lược Mỹ.

Văn hóa chiến lược của một quốc gia trước hết thể hiện trên sự theo đuổi chiến lược của quốc gia đó. Mục tiêu của người Mỹ có tính chiến lược rất mạnh. Những người thực dân Mỹ đầu tiên đến Tân đại lục đều có lý tưởng là muốn xây dựng trên mảnh đất mới này một quốc gia mới khác với Cựu đại lục truyền thống, mong muốn có thể dựa theo ý chỉ của Thượng Đế xây dựng một thành phố trên đỉnh núi, trở thành hình mẫu của thế gian. Tri thức mà người Mỹ ban đầu cần tìm kiếm gồm hai mặt: một là hướng lên Thượng Đế theo đuổi tín ngưỡng siêu việt tinh thần; hai là hướng về đời sống thế tục theo đuổi việc tìm kiếm kinh nghiệm và các tri thức lý trí về sự huyền diệu của thế giới vật chất. Một quần thể chiến lược và mục tiêu chiến lược như vậy đã quyết định việc họ tất nhiên phải tôn sùng và sáng tạo nền văn hóa chiến lược.

Văn hóa chiến lược Mỹ sau ngày dựng nước đã có nhiều sáng tạo ảnh hưởng sâu sắc tới thế giới. Thí dụ sáng tạo chiến lược trong cuộc cách mạng độc lập Mỹ, sáng tạo chiến lược trong cuộc chiến tranh thống nhất nước Mỹ, sáng tạo chiến lược “Chính sách Mới” của Roosevelt, thiết kế thế giới sau Thế chiến II của người Mỹ, dù trên mặt nội chính hoặc ngoại giao đều có rất nhiều sáng tạo đi đầu lịch sử, xuất sắc trên thế giới. Dấu vết chiến lược và quỹ tích đại chiến lược Mỹ đều nói lên Mỹ là một nước lớn chiến lược, cường quốc chiến lược. Văn hóa chiến lược của một quốc gia, tính chiến lược của văn hóa quốc gia chủ yếu thể hiện trên sự thực hiện chiến lược, tư duy chiến lược và việc giải quyết các vấn đề chiến lược lớn của quốc gia đó. Quốc gia nào không xuất sắc về chiến lược thì không thể là quốc gia trỗi dậy thành công. Tuy là nước có lịch sử ngắn nhất trong số các nước lớn trỗi dậy, nhưng quá trình thực hiện chiến lược hưng quốc của Mỹ rất đặc sắc. Tuy là quốc gia tôn sùng kỹ thuật, chú trọng thực dụng nhưng Mỹ cũng là một quốc gia chiến lược phát triển tốt. Tuy có khuyết điểm chỉ cầu lợi trước mắt nhưng Mỹ cũng có ưu điểm biết suy tính trước sau. Bởi vậy, văn hóa Mỹ không phải là văn hóa “phi chiến lược”.

Nghệ thuật “trỗi dậy rẻ tiền” của Mỹ

Sự trỗi dậy của Mỹ có đặc điểm là tốc độ nhanh, giá thành thấp, trả giá nhỏ, nếu so với tình hình một số nước lớn trả giá đắt để tiến hành trỗi dậy nhưng kết quả là “trỗi mà không dậy được” thì có thể nói sự trỗi dậy của Mỹ là trỗi dậy giá rẻ nhất.

Hoàn cảnh địa lý được thiên nhiên ưu đãi là một nhân tố quan trọng khiến nước Mỹ có thể trỗi dậy một cách rẻ tiền. Hầu như mỗi người đến Mỹ lần đầu đều cảm thấy choáng ngợp trước hoàn cảnh thiên nhiên của nước này. Nước Mỹ ở giữa hai đại dương lớn nhất thế giới, lãnh thổ rộng hơn 9,3 triệu kilômet vuông, có những con sông dài dọc ngang đất nước, những cánh rừng um tùm, những đồng bằng màu mỡ, những đồng cỏ bao la, các hồ nước phân bố khắp nơi, khoáng sản dồi dào, và tài nguyên biển giàu có ẩn giấu trong hai đại dương. Nước Mỹ chiếm hết mọi “địa lợi”. Lenin từng nói, nước Mỹ “ở vào địa vị an toàn nhất xét về điều kiện địa lý”. Trong lịch sử loài người không có bất kỳ nước lớn nào sau khi lập quốc lại có thể bỏ ra chi phí ít như thế vào công việc đảm bảo an ninh quốc gia, hơn nữa trong một thời gian dài như vậy không phải lo lắng về việc an ninh quốc gia bị các thế lực bên ngoài xâm phạm. Kể từ năm 1865, sau khi chấm dứt cuộc chiến tranh Nam Bắc, trên đất liền nước Mỹ chưa hề xảy ra chiến tranh quy mô lớn. Trong 120 năm từ cuộc chiến tranh chống nước Anh cho tới khi xảy ra vụ Trân Châu cảng, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Mỹ hầu như chưa bị đe dọa lần nào. Chỉ có sau khi xuất hiện các loại vũ khí sát thương quy mô lớn như vũ khí hạt nhân thì khoảng cách an toàn của nước Mỹ mới bị mất đi, các vụ tập kích khủng bố lại làm lung lay phòng tuyến tâm lý “bến cảng an toàn” của người Mỹ.

Sở dĩ sự trỗi dậy của Mỹ là trỗi dậy rẻ tiền, không những là nhờ sự ưu việt về hoàn cảnh địa lý mà điều quan trọng hơn là do trong quá trình trỗi dậy, nước Mỹ đã thể hiện một kiểu “trỗi dậy trí tuệ”, “trỗi dậy nghệ thuật”, “trỗi dậy thông minh”. Dĩ nhiên sự trỗi dậy của Mỹ cũng là một kiểu “trỗi dậy ma lanh”, thậm chí trên một số mặt còn là sự trỗi dậy bỉ ổi và tàn nhẫn. Người ta có những ý kiến khác nhau về vấn đề tính nghệ thuật hoặc tính ma lanh của sự trỗi dậy ấy.

Nước Mỹ vừa giỏi “trỗi dậy” lại vừa giỏi “ngăn chặn”

Quá trình nước lớn trỗi dậy hầu như bao giờ cũng là một quá trình ngăn chặn và đột phá ngăn chặn. Trong lịch sử thế giới cận đại, trong cuộc giành giật quốc gia quán quân, có ba thí dụ thành công điển hình có thể đột phá sự ngăn chặn của quốc gia quán quân già lão mà trỗi dậy trở thành quốc gia quán quân mới như sau: một là Hà Lan đột phá sự ngăn chặn của Tây Ban Nha để xây dựng đế quốc thương mại; hai là nước Anh đột phá sự ngăn chặn của các quốc gia đại lục châu Âu (gồm Hà Lan, Pháp, Tây Ban Nha) để xây dựng đế quốc công nghiệp; ba là Mỹ đột phá sự ngăn chặn của Anh, trở thành đế quốc mạnh nhất thế giới.

Trong quá trình trỗi dậy của Mỹ, nước Anh chưa có được địa vị thế mạnh nổi trội như Mỹ hiện nay. Đầu tiên Anh không thể ngăn trở sự độc lập của nước Mỹ, sau đó không thể chiếm lại Mỹ trong cuộc chiến tranh năm 1812 (vì Anh lo ngại đại lục châu Âu lại nổ ra chiến tranh lần nữa); tiếp đó, Anh lại không thể làm tan rã nền kinh tế Mỹ sau chiến tranh. Nhưng điều này cũng không thể coi là các cường quốc châu Âu như Anh đã vì thế mà thừa nhận sự trỗi dậy của Mỹ mà họ vẫn chờ dịp áp chế Mỹ. Có thể nói, cuộc đấu tranh ngăn chặn và chống ngăn chặn xuyên suốt trong quá trình nước lớn trỗi dậy, mà quá trình trỗi dậy của nước Mỹ là quá trình không ngừng đột phá sự ngăn chặn của Anh.

Nước Mỹ trỗi dậy trong sự ngăn chặn đã thể hiện đầy đủ “trí tuệ kiểu Mỹ”, “khôn ngoan kiểu Mỹ”, sự “xảo quyệt kiểu Mỹ” và “bỉ ổi kiểu Mỹ”. Từ ngày có tình trạng cạnh tranh quốc gia trên phạm vi thế giới, Mỹ là nước trả giá ít nhất - cái giá phải trả cho sự trỗi dậy (cuộc chiến giành giật bá quyền) thấp nhất, cái giá dùng để giữ gìn bá quyền (cuộc chiến bảo vệ bá quyền) cũng là nhỏ nhất. Xét về nội dung trực tiếp thể hiện, hai cuộc Thế chiến là sự tranh giành giữa Anh Quốc, một quốc gia bá quyền thế giới già lão, với nước Đức, kẻ thách thức mới; nhưng nếu xét về giá trị và ý nghĩa của kết cục cuối cùng thì hai cuộc Thế chiến đó đã thực hiện sự thay đổi bá quyền giữa Mỹ với Anh, nước Mỹ nghiễm nhiên có thể không tranh giành mà lại được hưởng, hoặc nói đấu tranh ít mà thu lợi lớn. Đó là một nghệ thuật cạnh tranh cao siêu nhường nào! Trong thời gian 1898 - 1920 Mỹ chẳng những giành được quyền chủ đạo khu vực châu Mỹ mà còn thực hiện được sự hòa giải có tính lịch sử với quốc gia bá quyền Anh, rốt cuộc quốc gia bá quyền hiện thực đã liên kết đồng minh với quốc gia bá quyền tương lai. Sau Đại chiến Thế giới lần II Mỹ đi lên vị trí quốc gia bá quyền rồi lại tiến hành một cuộc chiến bảo vệ bá quyền kéo dài nửa thế kỷ với Liên Xô. Đối với Mỹ, thực chất của cuộc chiến tranh lạnh là một cuộc chiến bảo vệ bá quyền. Tôn Tử nói “không cần giao chiến mà có thể hàng phục được toàn bộ kẻ địch”; nước Mỹ nghiễm nhiên có thể “không cần giao chiến mà có thể hàng phục được quốc gia khác”, một nước “dùng chiến tranh lạnh để khuất phục nước khác”, làm nên kỳ tích cạnh tranh chiến lược nước lớn trong lịch sử thế giới cận đại.

Nước Mỹ có hai thành công chiến lược: một là thành công thực hiện nước lớn trỗi dậy; hai là thành công ngăn chặn hữu hiệu nước lớn trỗi dậy thách thức địa vị bá quyền của mình (tức ngăn chặn được Liên Xô). Mỹ là quốc gia vừa giỏi trỗi dậy lại vừa giỏi ngăn chặn, xứng đáng là tấm gương trên cả hai mặt “thực hiện nước lớn trỗi dậy” và “ngăn chặn nước lớn trỗi dậy”.

Việc nghiên cứu kinh nghiệm của Mỹ trỗi dậy dưới cường quyền hay là tìm hiểu biện pháp Mỹ từng dùng cường quyền để áp chế sự trỗi dậy đều có ý nghĩa đối với việc suy nghĩ về nghệ thuật trỗi dậy của Trung Quốc. Trung Quốc cần tham khảo trí tuệ và nghệ thuật “trỗi dậy kiểu Mỹ”, ngăn cản sự xảo quyệt, bỉ ổi và tàn khốc của trỗi dậy kiểu Mỹ, tạo dựng một mô hình mới nước lớn trỗi dậy văn minh nhất thế giới - về tính chất trỗi dậy là sự “trỗi dậy phi bá quyền”, về đạo đức trỗi dậy là sự trỗi dậy cao thượng, trên con đường trỗi dậy là “trỗi dậy hòa bình”, trên mặt trí tuệ trỗi dậy là “trỗi dậy một cách nghệ thuật”.

Hạ thấp giá thành: không tự làm khổ mình

Nước lớn trỗi dậy cần có tài nguyên chiến lược, nhưng một nước lớn dù lớn đến đâu đi nữa thì tài nguyên chiến lược nó có thể sử dụng thậm chí có thể dùng để cá cược, cũng là hữu hạn. Tiêu hao lớn nhất về tài nguyên chiến lược của một quốc gia là tiêu hao “nội đấu” và tiêu hao “ngoại tranh”. Nhưng chính là trên cả hai mặt “nội đấu” và “ngoại tranh”, nước Mỹ đều có thể hạ thấp một cách hữu hiệu sự tiêu hao tài nguyên, tiết kiệm đáng kể tài nguyên. Tuyệt chiêu tiết kiệm tài nguyên chiến lược của Mỹ là “không tự hành hạ mình” trên quốc tế cũng như trong nội bộ nước mình. Tocqueville từng nói: “Hơn 60 năm qua... tất cả các nước châu Âu nếu không bị chiến tranh phá hoại thì cũng bị các tranh chấp nội bộ làm cho lụn bại. Trong toàn bộ nền văn minh thế giới chỉ có nhân dân Mỹ được bình yên vô sự. Hầu như toàn bộ châu Âu đều bị các cuộc cách mạng làm cho trời long đất lở, nhưng nước Mỹ thì lại chẳng xảy ra sự rối loạn như vậy”.

Warren Cohen cũng nói: “Tại các nước khác, ít nhất là ở nhiều quốc gia trong đó, các biến đổi chính trị gây ra xung đột giai cấp và sự đối kháng về phân phối kinh tế, gây ra sự mất ổn định mà người Mỹ cho là phi cộng hòa chủ nghĩa. Tình hình quan hệ căng thẳng ấy cũng tồn tại ở nước Mỹ, nhưng nói chung đều được thuyên giảm tương đối. Người Mỹ không thể hiểu nổi sự tương phản ấy, tức 3 - 4 quốc gia như nước Pháp đấu đá với nhau liên hồi kỳ trận mà riêng một nước Mỹ thì lại hộc tốc đi về tương lai”.

So với các nước lớn khác, quá trình trỗi dậy của Mỹ có thời gian trạng thái chiến tranh ngắn nhất, thời gian xây dựng hòa bình lâu nhất; điều này tương phản rõ rệt với nước Anh. Trong thời gian 75 năm (1688 - 1763), đế quốc Anh hầu như có một nửa thời gian đánh nhau. Trong quá trình trỗi dậy, nước Mỹ giành được môi trường phát triển hòa bình lâu dài. Sở dĩ được như vậy, một mặt do nước Mỹ có hoàn cảnh địa lý độc đáo, khiến họ có được sự bảo đảm an toàn thiên nhiên ưu đãi; mặt khác là do từ sau ngày lập quốc, nước Mỹ thi hành chính sách ngoại giao theo chủ nghĩa biệt lập, không “can dự” các công việc của châu Âu. Nhờ thế khi nội bộ các nước lớn châu Âu xảy ra đấu tranh giai cấp long trời lở đất, khi giữa các cường quốc châu Âu xảy ra những cuộc tranh giành đẫm máu thì nước Mỹ lại có thể tập trung công sức tiến về tương lai. Sự tương phản ấy giữa Mỹ với châu Âu đã dự báo châu Âu suy tàn và nước Mỹ trỗi dậy. Qua đấy có thể thấy kiên trì không tự hành hạ mình, hạ thấp sự trả giá vì các biến đổi trong nước và hạ thấp giá thành cạnh tranh quốc tế là một nguyên nhân quan trọng khiến nước Mỹ có thể trỗi dậy với giá thành nhỏ.

Trai cò giữ nhau: ngư ông được lợi

Con đường trỗi dậy của nước Mỹ được xây dựng trên đống tro tàn do các nước lớn khác cạnh tranh chém giết lẫn nhau để lại. Con đường nước Mỹ trỗi dậy đi lên bá quyền thế giới là con đường trỗi dậy có giá thành rất thấp đối với nước Mỹ, song xét về mặt những tổn thất mà thế giới phải gánh chịu, xét về giá thành mà thế giới phải bỏ ra vì chuyện ấy, thì sự trỗi dậy của nước Mỹ lại là sự trỗi dậy đắt giá nhất. Trong quá trình đó, nước cờ cạnh tranh của Mỹ là vừa dữ dội, vừa gây tổn thất, vừa nham hiểm lại vừa độc ác, vừa quỷ quyệt.

Ngay từ năm 1941, khi Hitler tấn công Liên Xô, Tổng thống Truman ngày ấy còn là thượng nghị sĩ bang Missouri đã nói, nước Mỹ nên áp dụng chính sách giữa Liên Xô và Đức là “Nếu thấy Đức đang thắng trong cuộc chiến này thì ta nên ủng hộ Nga; khi Nga giành được thắng lợi thì ta nên giúp Đức; dùng phương pháp này ta có thể để họ tàn sát lẫn nhau hết mức”.

Các nhà chính trị Mỹ khi tổng kết quyền thuật của Mỹ từng nói: Mỹ là cầu thủ dự bị trên sân thi đấu bóng bầu dục chính trị thế giới, bao giờ cũng ngồi trên hàng ghế dự bị, chờ cho tới khi hai bên thi đấu mệt bã người thì mới vào sân thu dọn tàn cục. Trong hai cuộc Thế chiến, nước Mỹ đều vào cuộc sau cùng. Kẻ sau rốt nhập cuộc chỉ có cống hiến ở chỗ là cọng rơm cuối cùng làm lưng con lạc đà khuỵu xuống nhưng lại thu được chiến lợi phẩm là cả con lạc đà[8].

[8] Là cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đà nhưng lại thu được chiến lợi phẩm là cả con lạc đà: câu này có nguồn gốc từ một ngạn ngữ tiếng Anh: “The last straw on the camel’s back”, có nghĩa là cọng rơm cuối cùng chất lên trên lưng con lạc đà làm nó khuỵu xuống (vì không chịu nổi sức nặng). Đống rơm chất trên lưng lạc đà quá nặng làm nó gãy lưng tất nhiên phải có cọng rơm cuối cùng gây ra tình trạng đó (tương tự: giọt nước tràn ly). Ở đây tác giả ví von công lao của Mỹ đối với hai cuộc Thế chiến chẳng là bao mà chiến thắng Mỹ thu được lại quá lớn. Người dịch cho rằng nước Mỹ có công rất lớn trong hai cuộc Thế chiến, nhất là Thế chiến II, đặc biệt trên mặt trận Thái Bình Dương, Mỹ chiến đấu kiên cường với phát xít Nhật, buộc Nhật đầu hàng, tạo điều kiện cho nhiều nước châu Á giành được độc lập, thoát khỏi chế độ thuộc địa.

Nếu xét về kết quả cuối cùng và ý nghĩa lâ u dài thì hai cuộc Thế chiến trong thế kỷ XX thực ra chỉ phục vụ nước Mỹ mà thôi. Nhìn bề ngoài, hai cuộc đại chiến thế giới ấy là hai lần nước Đức thách thức địa vị bá chủ thế giới, là hai lần nước Anh tiến hành cuộc chiến bảo vệ địa vị bá chủ của mình. Trên thực tế, đó là sự chuyển đổi đường cong Mỹ thay thế địa vị của Anh. Thắng lợi của hai cuộc đại chiến thế giới ấy là thắng lợi của Anh, song đó là thắng lợi của kẻ suy tàn, là thắng lợi đổi lấy bằng hậu quả tăng tốc sự suy tàn của mình, là thắng lợi bi thảm. Trong chiến tranh, Anh đã thắng nước Đức, nhưng trên địa vị quốc gia thì Anh lại là kẻ thua trận, thua Mỹ. Kẻ thực sự thắng trong hai cuộc đại chiến thế giới là nước Mỹ, chính là nước Anh đã dốc toàn lực ra vì Mỹ mà đánh bại Đức; cũng chính là nước Đức đã vì Mỹ mà đánh ngã Anh.

Mô hình Mỹ thay thế Anh thật khôn ngoan, xảo quyệt. Anh trả tiền để Mỹ giành được bá quyền thế giới. Nước Anh thắng hai cuộc chiến tranh có tính thế giới nhưng lại mất đi một đế quốc, mất đi địa vị số một thế giới, đưa Mỹ lên ngôi báu bá quyền thế giới. Trai cò giữ nhau, ngư ông được lợi. Mỹ chính là ngư ông.

Trong sự hợp tác và liên minh với Anh, nước Mỹ đã thay thế địa vị của Anh. Cuộc cạnh tranh chiến lược, giao tiếp chiến lược giữa Mỹ và Anh được thực hiện qua sự hợp tác chiến lược và liên minh chiến lược giữa Mỹ với Anh. Đây là sự may mắn chiến lược của Mỹ, là kỳ tích, là đặc sắc chiến lược.

Chuẩn bị chiến tranh: chớ có ảo tưởng

Dưới sự chỉ đạo của tư duy chiến lược “Không có kẻ địch và bạn bè vĩnh cửu, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh cửu”, trong quá trình trỗi dậy nước Mỹ bao giờ cũng có sự chuẩn bị đầy đủ về chiến tranh, kể cả đối với nước Anh vốn là đồng minh trong Thế chiến I.

Sau Đại chiến Thế giới lần thứ I, Mỹ đứng trước tình hình cạnh tranh bá quyền trên biển với Anh và Nhật. Năm 1919, Hội nghị các tướng lĩnh Mỹ cùng với Bộ Tác chiến Hải quân thảo luận về thái độ mà nước Anh có thể áp dụng. Hội nghị các tướng lĩnh Mỹ cho rằng có tồn tại khả năng Mỹ, Anh xung đột với nhau; khi Anh tác chiến với Mỹ thì Nhật sẽ dứt khoát đứng về phía Anh.

Tháng 3 năm 1920, Mỹ ấn định hai kế hoạch tác chiến: một “Kế hoạch màu da cam” tác chiến với Nhật trên Thái Bình Dương, là sự sửa đổi lần hai bản “Kế hoạch da cam” năm 1911, và “Kế hoạch đỏ - da cam” tác chiến với Anh và Nhật trên Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Qua kế hoạch tác chiến của hải quân Mỹ có thể thấy việc có tồn tại đồng minh với Anh hay không chẳng những ảnh hưởng trực tiếp tới sự bố trí chiến lược của Mỹ và với sự so sánh lực lượng của Mỹ tại vùng Thái Bình Dương, hơn nữa còn ảnh hưởng tới địa vị chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ tất phải chia hạm đội của mình ra sử dụng trên hai đại dương.

Trong báo cáo hàng năm làm trong thời gian 1922 - 1924, Vụ Kế hoạch chiến tranh của Bộ Hải quân Mỹ đều có nhận định như sau: Anh và Nhật vẫn là hai quốc gia có thể tranh giành quyền kiểm soát biển với Mỹ, dẫn đến sự tồn tại điểm đối lập giao chiến giữa Mỹ với hai quốc gia Anh, Nhật hoặc với một quốc gia. Hải quân Mỹ chuẩn bị chiến tranh trước hết với Nhật, thứ hai là với Anh hoặc với sự liên hợp Anh - Nhật.

Xét tình hình quốc tế cuối thập niên 20 - 30 thế kỷ XX, đối tượng tác chiến có khả năng nhất của Mỹ vẫn là Nhật, “chiến tranh màu da cam được coi là cuộc chiến có khả năng xảy ra nhất”, “Da cam” cũng trở thành kế hoạch tác chiến chủ yếu nhất của quân đội Mỹ. Trong hơn 10 năm hoạch định kế hoạch này, tuy có mấy lần sửa chữa song nội dung chính của việc chuẩn bị “đơn độc tiến hành một trận tấn công Nhật trên Thái Bình Dương” thì vẫn không thay đổi.