Cuộc Chiến Tranh Bắt Buộc - Phần II - Chương 2

Theo kế hoạch, trung đoàn bộ binh 31 được tăng cường đại đội Tăng - Thiết giáp, đại đội lựu pháo 105 mm, đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu - theo trục đường đất đỏ tiến thẳng lên phía bắc dãy núi Phnôm Mê Lai. Trung đoàn bộ binh 812 tiến công trên hướng chủ yếu từ hướng Nam lên, đánh chiếm cao điểm 318, phát triển xuống dãy núi Cao Mê Lai. Hai trung đoàn sẽ hợp điểm tại chân núi phía bắc Phnôm Mê Lai - nơi có mục tiêu chủ yếu là Tổng hành dinh của Chính phủ phản động Campuchia vừa mới được thiết lập sau khi chạy về đây.

Trời nắng gay gắt, các khe suối vùng này đều cạn kiệt. Trên hướng chủ yếu, vì có trục đường đất đỏ, trung đoàn bộ binh 31 tổ chức chở nước đi theo để tiếp tế cho bộ đội (tuy rằng cũng rất hạn chế). Hậu cần phải lấy nước từ Khum-cốp cách 7 km, rồi dùng xe stéc chở ra phía trước. Còn trên hướng thứ yếu, nước hoàn toàn nằm trên vai bộ đội. Ngoài mỗi người một bi đông, anh em còn phải mang sau lưng một ống tre dài khoảng 4 tấc đựng nước. Song với thời tiết nắng nóng, bộ đội phải vận động nhiều thì với một lượng nước mang theo như vậy đã không thể bù đắp được lượng nước trong người đã mất đi trong ngày. Vì vậy khi trung đoàn bộ binh 31 tiến công lên Phnôm Mê Lai, đánh chiếm toàn bộ các mục tiêu thì trung đoàn bộ binh 812 vẫn còn ở cách xa hàng 2-3 km; không thể tiến lên được; nhiều đồng chí khát nước, bị ngất, phải chuyển về phía sau. Hướng tiến công của trung đoàn bộ binh 812 không thành công.

Trong trận này, ta đã tiêu diệt được 150 tên địch, thu 87 khẩu súng các loại, trong đó có một khẩu pháo phòng không 37 mm, 17 xe ô tô, hàng chục tấn đạn dược, lương thực va quân trang, quân dụng khác. Có một điều rất hy hữu là trong số vũ khí, xe cộ thu được đó có cả số vũ khí và xe ô tô của Quân đoàn 3 - bị địch thu được trong trận phục kích trên đường tàu hỏa gần núi Thơm, núi Tóc - và một khẩu ĐKZ75 của trung đoàn bộ binh 31 - bị địch thu ở Khum-cốp. Như vậy là chiều ngày 3-4-1979, lần đầu tiên quân ta đã làm chủ hoàn toàn căn cứ Cao Mê Lai của địch. Căn cứ này về sau bị địch chiếm lại và chúng ta còn đánh chiếm lại nhiều lần nữa, mà tôi sẽ nói rõ hơn ở những phần sau.

Trên các hướng khác của chiến dịch, quân ta đã giải phóng được thủ đô Phnôm Pênh, tiến lên U-đông, rồi Công Pông Chơ Năng, Pua Xát và các tỉnh tây nam Campuchia. Tại Công Pông Chơ Năng, địch chống trả quyết liệt, nhiều xe tăng của ta bị bắn cháy và bị trúng mìn của địch.

Toàn bộ địch dồn về phía tây Campuchia, nơi có núi non hiểm trở và có những con đường qua biên giới Thái Lan - như khu vực Lách, Tà Sanh, Pailin… Trong đó có Tà Sanh, nơi tập trung đầy đủ, toàn bộ bộ sậu của một Chính phủ phản động Campuchia Dân chủ gồm Pôn Pốt - Iêng Xa-ri - Khiêu Xamphon, với một một lực lượng khá lớn bộ binh, xe tăng, pháo binh và nhiều trang bị khác.

Sau khi đánh chiếm được Cao Mê Lai. Trung đoàn bộ binh 31 được giao nhiệm vụ chốt giữ mục tiêu này. Trung đoàn bộ binh 812 và Quân đoàn 3 cơ động lên đường số 10 từ Bát Tam Băng đi Pailin. Đội hình của sư đoàn bb9 lúc này trải ra rất rộng với chính diện trên 50 km, chiều sâu gần 100 km: Trung đoàn bộ binh 31 ở Phnôm Mê Lai, trung đoàn bộ binh 812 ở khu vực đường số 10 thuộc huyện Pailin, trung đoàn bộ binh 96 ở Bà Văn-Tà-hen dọc trục đường 58, Sở chỉ huy sư đoàn và trung đoàn pháo binh 36 ở thị xã Bát Tam Băng.

Giữa tháng 4, tuy chưa chuyển mùa, nhưng Bát Tam Băng đã được đón nhận những cơn mưa. Trời thường hay mưa vào buổi chiều, buổi trưa vẫn nắng nóng. Tuy nhiên, những cơn mữa hiếm hoi đó cũng đã làm dịu bớt cái khí hậu nóng bức khắc nghiệt đối với vạn vật nơi đây. Bộ đội ta rất thích thú căng áo mưa, hoặc vải bạt ra để hướng nước mưa; sau khi uống no nê, số nước còn lại cho vào bi đông, ống tre để dự trữ. Ở đây, nước còn quý hơn vàng, nhiều khi cũng phải hy sinh vì “nước”.

Gần cuối tháng 4 năm 1979, toàn bộ quân địch trên chiến trường thuộc về các Quân khu: Đông Bắc, Đông Nam và Quân khu Đông cùng với Chính phủ Trung ương phản động chạy về Tà Sanh. Nơi đây là vùng rừng núi liên hoàn từ Pailin, tỉnh Bát Tam Băng kéo dài xuống phía nam đến các tỉnh Pua Xát - Công Pông Chơ Năng; phía tây giáp biên giới với Thái Lan. Trong một trận quyết chiến (có thể hiểu đây là trận quyết chiến chiến dịch), Quân đoàn 3 của ta được tăng cường một lực lượng của trung đoàn 812 sư đoàn bộ binh 309 phối hợp với lực lượng vũ trang của Bạn, đã tấn công mục tiêu cuối cùng tại vùng rừng núi Tà Sanh, tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch, thu toàn bộ xe tăng, pháo binh và nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng; còn có cả tài liệu và con dấu của Chính phủ phản động. Trong trận đánh này, Ta Mok, Bí thư kiêm Tư lệnh Quân khu 405 (Tây Nam) bị thương cụt chân. Sau này y là Tổng Tham mưu trưởng của Pôn Pốt và là một kẻ cực kỳ tàn ác. Sau khi chiếm được Tà Sanh, cơ quan 870 (thường vụ Trung ương Đảng Campuchia) chạy qua Thái Lan, trong đó có bộ 3 Pôn Pốt - Iêng Xa-ri - Khiêu Xamphon và các quan chức của Khơme đỏ như Nuôn Chia, chủ tịch Quốc hội; Vôn Vét, phó Thủ tướng phụ trách kinh tế; Xon Xen, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Hen, chánh văn phòng Trung ương Đảng.

Kết quả cuộc tổng công kích giải phóng Campuchia từ ngày 22-12-1978 đến ngày 17-1-1979 lực lượng vũ trang ra đã tiêu diệt 12.000 tên địch, bắt sống 8.000 tên, gọi hàng 3.200 tên, phóng thích tại chỗ hàng ngàn tên khác (vì không có điều kiện giam giữ trong quá trình tiến công). Ta đã chớp nhoáng, bất ngờ đánh vỡ thế trận của địch, buộc chúng phải tháo chạy khỏi các thành phố, thị xã, thu toàn bộ cơ sở kinh tế và quốc phòng của địch ở các thành phố, thị xã, sân bay, bến cảng, trên các trục giao thông chiến lược quan trọng; giải phóng 1,5 đến 2 triệu dân Campuchia; đập tan bộ máy thống trị của chế độ Pôn Pốt từ Trung ương đến cơ sở.

Ngày 8-1-1979, Chính phủ cách mạng Campuchia ra công khai.

Cuộc tổng tiến công đã kết hợp chặt chẽ giữa quân sự, chính trị và ngoại giao, đã phát huy sức mạnh tổng hợp, bước đầu đã giành được thắng lợi cả về quân sự, chính trị có tính quyết định. Ta đã đánh bại một bước âm mưu chiến lược của các nước thù địch mà trực tiếp là đội quân tay sai - tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xa-ri - Khiêu Xamphon.

Tiếp theo cuộc tiến công đại quy mô, nhằm giải phóng toàn bộ đất nước Campuchia, từ ngày 18 tháng 1 đến cuối tháng 6 năm 1979, ta đã tiến hành nhiều chiến dịch quy mô nhiều sư đoàn, có sự phối hợp của một bộ phận không quân, hải quân tiến công những căn cứ chiến lược của tàn quân Pôn Pốt được tập hợp lại, trọng điểm là vùng rừng núi phía tây - tây bắc và vùng đồng bằng xen kẽ với miền núi phía đông và đông bắc; mở các đợt hoạt động liên tục, truy quét có trọng điểm, kết hợp phát động quần chúng trên một diện rộng.

Kết quả về tác chiến: Từ ngày 18 tháng 1 đến ngày 30 tháng 5 năm 1979, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 77.600 tên. Trong đó có:

- 29.550 tên bị tiêu diệt.

- 26.750 tên bị bắt làm tù binh.

- 4.000 tên ra hàng.

- 17.000 tên tan rã ra trình diện.

- Ta đã thu được (thống kê chưa đầy đủ):

+ 105.000 súng các loại. Trong đó có: 151 khẩu pháo từ 105 mm đến 130 mm, 72 khẩu pháp Phòng không 37 mm.

+ 80 xe tăng, xe thiết giáp.

+ 1.200 xe ô tô.

+ 78 tàu hải quân loại nhỏ.

+ 500 tấn đạn các loại.

+ 1.200 máy thông tin VTĐ.

+ 28.000 tấn lúa, 500 tấn muối (số này đã cấp phát cứu đói cho dân).

+ Phá hủy 105 xe tăng, xe thiết giáp.

+ 160 xe ô tô.

+ 20 chiếc tài hải quân và nhiều trang thiết bị quân sự khác.

Ta đã tiêu diệt 19 trong tổng số 24 sư đoàn địch, thu hồi toàn bộ kho tàng tài sản và phương tiện chiến tranh của chúng.

Trong công tác phát động quần chúng, xây dựng Chính quyền cách mạng, tính đến ngày 30 tháng 5 năm 1979 đã xây dựng được 98% số phum, 60% số xã, 83% số huyện, với 3,6 đến 4,1 triệu dân được quản lý.

Hầu hết nhân dân Campuchia đã được phát động đều nhận thức rõ tội ác của bọn Pôn Pốt, nhận rõ sự giúp đỡ của Việt Nam, ủng hộ bộ đội Việt Nam. Bước đầu Chính quyền cơ sở các cấp đã phát huyện được chức năng chăm lo đời sống cho nhân dân, tổ chức lao động sản xuất, giúp nhau trong khó khăn, được nhân dân tín nhiệm.

Cũng trong thời gian trên, ta đã giúp Bạn xây dựng được một số binh đoàn chủ lực, hình thành được hệ thống quân sự địa phương, các bộ chỉ huy quân sự tỉnh và thành phố xuống đến Ban chỉ huy quân sự huyện và du kích phum, xã và đã hoạt động cùng với bộ đội Việt Nam có hiệu quả.

Số lượng dân quân du kích đạt 1,3% dân số (đạt 75% so với chỉ tiêu đề ra cho cả năm 1979).

Trong công tác giúp Bạn ổn định đời sống, Nhà nước ta, quân đội ta đã huy động một lực lượng vận tải liên tục giúp Bạn đưa nhân dân về quê cũ, đưa được trên 50.000 dân bị địch bắt, lùa vào các vùng rừng núi Carđanonl - Kravanh, tận tình cứu đói, chữa bệnh cho trên 3.000 người từ đông bắc Kô-kông về Cam-pốt - Tà Keo.

Nhà nước ta đã huy động và vận chuyển hàng vạn tấn hàng hóa sang để giúp đỡ nhân dân Campuchia. Trên chiến trường, bộ đội ta đã thu gom hàng vạn tấn lương thực, cấp cho hàng triệu người dân bị địch bỏ đói, kiệt sức trong các căn cứ. Các đơn vị ta đã phát động phong trào tiết kiệm, bớt một phần lương thực, giúp dân 3.000 tấn gạo và cung cấp phương tiện đưa họ về quê sinh sống. Chữa bệnh cho hàng triệu lượt người dân. Trong các bệnh xá, bệnh viện của ta trên chiến trường, có lúc chiếm đến 1/2 tổng số thương bệnh binh là người dân Campuchia, phần nhiều là cụ già, phụ nữ và trẻ em, tổ chức được trên 100 bệnh xá huyện và bệnh viện tỉnh; trên 1.000 đội y tế đi phát thuốc chữa bệnh cho dân. Nhận trên 1.000 trẻ mồ côi để chăm sóc, nuôi dưỡng. Mở trên 350 trường học, lớp học cho trên 3 vạn trẻ em, học sinh đến trường. Và còn làm nhiều việc khác nữa…

Chiến dịch tổng tiến công thắng lợi, đất nước Campuchia đã được giải phóng.

Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang

Cho đến bây giờ, chưa ai phân biệt “ranh giới” giữa cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia. Chỉ biết rằng, trong 10 năm, kể từ mùa Xuân năm 1979, lực lượng vũ trang ta chiến đấu liên tục, không ngừng. Từ những trận đánh mở đầu của thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chống địch xâm lấn lãnh thổ đến cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn đất nước Campuchia rồi bắt tay giúp Bạn xây dựng lại chính quyền và lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương. Sứ mạng lịch sử mà Đảng và Nhà nước ta đã trao cho nhân dân ta, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt đã kết thúc vẻ vang vào cuối tháng 9 năm 1989. Đó là ngày mà cả thế giới chứng kiến Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia lưu luyến tiễn đưa quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam rút về nước.

Có thể hiểu cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam được bắt đầu từ sự xâm nhập lãnh thổ Việt Nam, do bọn phản động Pôn Pốt - Iêng Xa-ri phát động, chúng đã gây cho nhân dân ta sống dọc biên giới những tổn thất nặng nề, buộc lực lượng vũ trang ta phải chiến đấu bảo vệ, sau đó là những trận chiến đấu đầu tiên diễn ra trên đất đối phương. Những đòn trừng phạt của ta vẫn chưa đủ mạnh buộc nhà cầm quyền Campuchia lúc bấy giờ nhụt chí, mà trái lại chúng tiếp tục đẩy cuộc chiến tranh biên giới ngày càng mở rộng hơn. Vì vậy, chúng ta đã phải tiến hành một chiến dịch tổng tiến công quy mô lớn đến tận sào huyệt, giải quyết tận gốc mối nguy cơ này cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau khỏi phải bận tâm.

Còn nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia có thể hiểu được bắt đầu từ sự ra đời của Mặt trận Dân tộc cứu nước Campuchia. Theo yêu cầu của Bạn, chúng ta đã tiến hành cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1979, giải phóng hoàn toàn Campuchia và ở lại để giúp Bạn xây dựng chính quyền, lực lượng vũ trang.

Hai nhiệm vụ - hai giai đoạn kế tiếp nhau, liên quan mật thiết với nhau: Hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, tạo cơ sở ban đầu để thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Ngược lại khi nhà cầm quyền phản động Campuchia lúc bấy giờ chống lại nhân dân Việt Nam, nhân dân Campuchia thì tất yếu Mặt trận Dân tộc cứu nước Campuchia ra đời, để phối hợp với quân và dân hai nước chống kẻ thù chung.

Như vậy, theo yêu cầu của Bạn là hành lang pháp lý để chúng ta giúp Bạn làm cuộc Cách mạng từ đầu. Xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang của Bạn lớn mạnh cũng là để bảo vệ vững chắc và toàn vẹn lãnh thổ trên một nửa đất nước ta. Đó là hai phạm trù khác nhau, nhưng cùng một mục đích là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực Đông Nam Á. Nói một cách khác là chúng ta đang thực hiện 2 nhiệm vụ: nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế trên quan điểm giúp Bạn là tự giúp mình.

Sự ra đời của mặt trận 479

Từ khi có những diễn biến phức tạp trên biên giới Tây Nam, rồi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thực sự đã xảy ra. Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng nước ta đã quan tâm một cách sâu sắc đến những biến cố xảy ra trên hai đầu đất nước.

Để tập trung lãnh đạo các lực lượng vũ trang và nhân dân ở các tỉnh phía nam. Ngay từ những ngày đầu cuộc tổng tiến công vào Campuchia mùa Xuân năm 1979, Bộ Chính trị và Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng nước ta đã tổ chức ra Sở chỉ huy tiền phương, nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của đất nước trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.

Sở chỉ huy tiền phương Bộ Quốc phòng đặt tại sân bay Tân Sơn Nhất. Sau khi Campuchia được giải phóng, Bộ tư lệnh tiền phương chuyển sang Thành phố Phnôm Pênh và gọi là Bộ tư lệnh Mặt trận 719 (hoặc Bộ tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia) do Thượng tướng Lê Đức Anh đứng đầu.

Cuộc tổng tiến công như vũ bão của quân ta đã đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xa-ri, đất nước Campuchia được giải phóng; nhưng kẻ thù vẫn còn đó. Đội quân đông đảo của chúng tan rã ra thành từng mảng và đang được tập hợp lại dưới sự hà hơi tiếp sức và điều khiển của các thế lực bên ngoài, hòng khôi phục lại chính quyền, để giành lại tất cả những gì đã mất. Bên cạnh đó, chính quyền và lực lượng vũ trang Cách mạng Campuchia vừa mới hình thành, chưa đủ sức để quản lý đất nước, nhân dân đang bị kìm kẹp, tứ tán khắp nơi.

Phải xây dựng lại đất nước Campuchia từ đầu, từ con số 0. Đó là trách nhiệm đặt ra hết sức nặng nề đối với quân tình nguyện Việt Nam ta trên đất nước này.

Đứng trước tình hình đó, để bảo vệ thành quả Campuchia Campuchia vừa mới giành được, theo yêu cầu của Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục ở lại để giúp nhân dân Campuchia xây dựng lại đất nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

- Giúp Bạn đưa dân về quê, cứu đau, cứu đói, phục hồi sản xuất.

- Cùng với Bạn xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương.

- Cùng với Bạn tiếp tục chiến đấu để loại bỏ nguy cơ phục hồi chế độ diệt chủng phản động của kẻ địch.

Một loạt chủ trương, biện pháp đã được ta và Bạn đặt ra, bao gồm: Hiệp định liên minh chiến đấu Việt Nam - Campuchia được ký kết; các Bộ tư lệnh Mặt trận, các đoàn chuyên gia quân sự và dân sự lần lượt được tổ chức trên chiến trường; các đơn vị lực lượng vũ trang Cách mạng Campuchia được thành lập và nhiều công việc khác nữa.

Ngày 14-4-1979, Bộ tư lệnh Mặt trận 479 được thành lập. Tư lệnh đầu tiên của Mặt trận 479 là thiếu tướng Bùi Thanh Vân và Chính ủy - đại tá Lê Thanh. Tiếp đến là Bộ tư lệnh các Mặt trận 579, 779, 979 được thành lập. Các đoàn chuyên gia quân sự địa phương như đoàn 7701 (Công Pông Thơm), đoàn 7702 (Công Pông Chàm), đoàn 7703 (Xvây-riêng), 7705 (Xiêm Riệp), đoàn 7706 (Prây Veng). Tại tỉnh Bát Tam Băng đoàn chuyên gia quân sự 7704 cũng đã được thành lập, do đại tá Đỗ Huy Trường làm Đoàn trưởng. Khi đồng chí Đỗ Huy Trường về Cục nghiên cứu nhận công tác khác, thì đại tá Phạm Thành Hưng về thay cà đại tá Nguyễn Ngọc Doanh làm Đoàn phó chính trị đoàn chuyên gia.

Quán triệt quan điểm “giúp bạn là tự giúp minh”, toàn thể cán bộ chiến sĩ Mặt trận 479 nói riêng và quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia nói chung đã làm hết sức mình với một tình cảm chân thành, một động cơ trong sáng.

Trong cuộc tổng tiến công vừa qua, chúng ta đã gặp rất nhiều những người dân Campuchia yêu nước và chúng ta đã tiếp nhận họ vào đội ngũ. Nhiều người đã giúp đỡ bộ đội Việt Nam trong công tác vận động quần chúng, đưa dân trở lại phum - sóc, giúp ta tuyên truyền chính sách của mặt trận và giúp ta truy đánh, truy quét địch lẩn trốn. Nhiều người, sau này, đã trở thành những cán bộ cao cấp của Đảng nhân dân Campuchia, của Chính phủ và quân đội Cách mạng Campuchia.

Tôi còn nhớ: Năm 1979, trong lúc truy đánh, truy quét địch, chúng tôi đã gặp đồng chí Côi-bun-tha, một thanh niên mới lớn, một nạn nhân của chế độ diệt chủng ppo. Đồng chí nhất mực đi theo bộ đội Việt Nam, cùng sống và chiến đấu. Đồng chí đã học tập được rất nhiều ở bộ đội Việt Nam. Dần dần, sau những năm 1980, đồng chí đã trở thành sư đoàn trưởng của sư đoàn bộ binh 196, sát cánh cùng sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi - đảm nhiệm trên một địa bàn trọng yếu ở phía tây tỉnh Bát Tam Băng. Rồi sau đó, đồng chí trở thành chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và đã trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Hoặc đồng chí Sai-xa-mon, trưởng ban cán sự tỉnh, chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bát Tam Băng; hay đồng chí Keo-kim-giang, phó chỉ huy trưởng - tham mưu trưởng tỉnh đội Bát Tam Băng (nay là Đại tướng Tổng tư lệnh các lực lượng Hoàng gia Campuchia) và nhiều đồng chí khác nữa.

Tình hình trên chiến trường Campuchia trong những năm đầu thập niên 80 còn hết sức phức tạp. Trong cuộc tổng tiến công vào Campuchia mùa Xuân năm 1979, địch đã đề ra ba mục tiêu chiến lược là “Rút lui chiến lược: 1979-1980,” “Cầm cự chiến lược 1981-1983” và và “Phản công chiến lược: sau năm 1983”.

Trước sức mạnh tiến công của quân ta, ngay từ năm 1979, để bảo toàn lực lượng, địch đã chủ trương chiến lược là “rút lui”. Tư tưởng này đã thành phương châm từ chiến lược đến chiến dịch và chiến thuật cũng như thủ đoạn chiến đấu của binh lính trên chiến trường - “Địch tiến, ta lùi”. Do đó khi chúng ta tiến công hàng loạt căn cứ, thị trấn và thành phố trên các Quân khu Đông Bắc, Đông và Đông Nam của địch, lực lượng của chúng bị tiêu diệt không bao nhiêu. Tháo chạy là hành động để bảo toàn lực lượng trước sức mạnh tiến công của ta.

Tháng 4 năm 1979 cơ bản ta đã giải phóng toàn bộ Campuchia. Sau năm 1979, địch đã chuyển sang “Chiến lược cầm cự” với mục tiêu trong 3 năm chúng sẽ làm chủ các vùng rừng núi, nông thôn, đồng bằng để tiến tới bao vây thành thị. Giai đoạn này chúng đã kéo dài cuộc chiến tranh du kích với ta, nhằm tiêu hao lực lượng ta, làm cho ta “sa lầy” trên chiến trường Campuchia, buộc ta phải co vào các thị trấn, thị xã và các thành phố lớn để tạo thời cơ “phản công chiến lược”, hoặc lấy cứ để quốc tế hóa vấn đề Campuchia, buộc quân đội Việt Nam phải rút về nước.

Để phục vụ cho ý đồ đó, ngay từ khi đất nước Campuchia được giải phóng, bọn phản động Pôn Pốt - Iêng Xa-ri - Khiêu Xamphon được các thế lực bên ngoài giúp sức, chúng đã lập nên cái gọi là ”trại tị nạn” nằm dọc biên giới Campuchia - Thái Lan và ở những vùng rừng núi để tập trung lực lượng, nhận viện trợ của nước ngoài và duy trì cuộc chiến tranh du kích lâu dài với ta và chính quyền cách mạng Campuchia.

Hàng loạt các “trại tị nạn” được hình thành và xây dựng từ những năm 1980 trở đi. Các “trại tị nạn” ở An-long Veng, Prếch-vi-hia, Đăng-rếch, Ăm-pin, Đăng-cum, Phnôm Mê Lai, Sơ đa, Ô đa, Com Riêng, Tà sanh… đã trở thành những căn cứ quân sự. Từ đây, vừa là nơi tiếp nhận hàng viện trợ, vừa tổ chức huấn luyện quân sự do các chuyên gia nước ngoài chỉ đạo để bằng mọi cách tung lực lượng vào nội địa Campuchia tấn công quân tình nguyện Việt Nam, uy hiếp chính quyền và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia.

Bằng các hình thức “trá hàng”, trong những năm 1980, 1981, 1982 và đầu 1983 chúng đã thâm nhập vào nội địa Campuchia một lực lượng khá lớn và biến thành những phần tử “hai mặt” trong chính quyền và nhân dân Bạn. Đồng thời trong những năm đó, địch tăng cường đánh phá khắp nơi trên địa bàn Mặt trận 479.

Trở lại với tình hình năm 1979, sau khi Quân đoàn 3 rút đi, sư đoàn bộ binh 309 đảm nhiệm khu vực Nam đường số 10, Quân đoàn 4 của ta đã đưa sư đoàn bộ binh 9 lên đứng chân và hoạt động ở khu vực phía tây đường số 5, Ni-mít đi Pôi Pét, Sô-phi.

Trên hai tỉnh thuộc phạm vi hoạt động của Mặt trận 479 là tỉnh Xiêm Riệp và Bát Tam Băng, hiện tại đã có 5 sư đoàn bộ binh quân tình nguyện Việt Nam gồm: sư đoàn bộ binh 309, 317, 5 và 9 tại tỉnh Bát Tam Băng; sư đoàn bộ binh 302 đảm nhiệm phía bắc tỉnh Xiêm Riệp và một phần tỉnh Prếch-vi-hia-nơi tiếp giáp với địa bàn thuộc trách nhiệm của Mặt trận 579.

Về phía lực lượng vũ trang của Bạn, ngoài các tiểu đoàn bộ đội huyện, tỉnh, Bạn đã thành lập trên địa bàn này được 3 sư đoàn. Đó là sư đoàn bộ binh 196 (hoạt động tại huyện Pailin, chủ yếu khu vực Nam đường số 10) sư đoàn bộ binh 179 (hoạt động ở khu vực Đăng-cum, Ăm-pin, Pôi Pét, Sơ-vai - Chếch và Si-sô Phô-sau này là tỉnh Bần-tia Miên-chây), sư đoàn bộ binh 286 cùng với sư đoàn bộ binh 302 ta hoạt động ở khu vực Phnôm Cu-lên (núi Hồng), Chông-can, Ka-ra-lanh và dãy Đăng-rếch. Sau đó, Bạn còn thành lập thêm sư đoàn bộ binh 6, hoạt động tại khu vực Nam-sấp, Bua, Ăm-pin Prăm-đơm.

Như vậy, trên phạm vi hai tỉnh đã có tới 9 đến 10 sư đoàn bộ binh và các tiểu đoàn, lữ đoàn, trung đoàn xe tăng, pháo binh và các lực lượng khác với hàng vạn người. Chúng ta đã giúp Bạn tổ chức các tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn bộ binh và các binh chủng. Cuối năm 1980 và sang năm 1981, các Bộ tư lệnh và cơ quan Khu vực cũng đã được hình thành và bước vào hoạt động. Mặt trận 479 giúp Bạn tổ chức và xây dựng cơ quan Khu vực 4 (sau này goi là Bộ tư lệnh Quân khu 4) do đồng chí Hun-xà-von làm tư lệnh, đồng chí Song-sa-phiếp làm tham mưu trưởng và các đồng chí khác).

Để tạo thắng lợi trong vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang giúp Bạn. Sở chỉ huy và cơ quan thuộc các đơn vị của Bạn được bố trí gần Sở chỉ huy và cơ quan cùng cấp của bộ đội Việt Nam.