Cuộc Chiến Tranh Bắt Buộc - Phần II - Chương 3

Bộ tư lệnh và cơ quan Khu vực 4 đóng bên cạnh Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận 479 ở thị xã Xiêm Riệp; Sở chỉ huy và cơ quan sư đoàn bộ binh 196 được bố trí gần Sở chỉ huy và cơ quan sư đoàn bộ binh 309 của ta tại cua chữ “V” đường số 10. Sau khi tổ chức ra các đoàn chuyên gia quân sự thì các đoàn chuyên gia quân sự của ta được bố trí bê cạnh cơ quan các cấp của Bạn, như đoàn chuyên gia quân sự khu vực 4 được tổ chức vào đầu năm 1984 - do đồng chí thiếu thướng Trần Văn Đối làm đoàn trưởng, đồng chí đại tá Hồ Đình Quỳ làm đoàn phó, chuyên gia tham mưu trưởng, đồng chí thiếu tướng Phùng Đình Ấm và đại tá Phan Cảnh làm trưởng, phó đoàn chuyên gia chính trị. Không những các đoàn chuyên gia quân sự và dân sự từ Quân khu xuống đến các tỉnh và thành phố được tổ chức một cách hoàn chỉnh, mà ngay từ cuối năm 1979 và đầu năm 1980, ta đã phái ra một đội ngũ cán bộ đông đảo, tổ chức ra các đội công tác len lỏi xuống những phum, xã ở các vùng sâu, vùng xa để giúp Bạn xây dựng cơ sở chính quyền và lực lượng vũ trang, giúp Bạn tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Nhà nước cách mạng Campuchia.

Khi các sư đoàn chủ lực của Bạn được thành lập và lực lượng vũ trang địa phương được hình thành và phát triển, chúng ta đã kịp thời tổ chức hệ thống chuyên gia từ các sư đoàn xuống đến tận các đơn vị cơ sở. Các đoàn chuyên gia đóng bên cạnh Bộ tư lệnh khu vực 4 của Bạn; các đoàn chuyên gia cấp Tỉnh, cả về quân sự lẫn chính trị như đoàn 7704, 7705 được bố trí cạnh Ủy ban Nhân dân và Bộ chỉ huy quân sự hai tỉnh Bát Tam Băng và Xiêm Riệp. Nêu lên vấn đề này để chứng tỏ rằng Đảng, Nhà nước và quân đội ta rất quan tâm đến công tác giúp Bạn một cách toàn diện.

Về công tác giúp Bạn xây dựng cơ sở chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Bởi vì những người lãnh đạo chân chính, những chiến sĩ cách mạng, những nhà yêu nước đã bị chế độ độc tài Pôn Pốt thủ tiêu gần như hầu hết trong 2 năm cầm quyền. Mặt khác, trong cuộc tổng tiến công vừa qua, kẻ địch tan rã và trà trộn trong dân thành những phần tử hai mặt khống chế chính quyền non trẻ của Bạn. Nhân dân Campuchia tuy căm thù chúng nhưng trình độ dân trí còn thấp và luôn bị khống chế, đe dọa. Vì vậy mà khi tổ chức chính quyền cơ sở các cấp thì biết trao trách nhiệm cho ai. Vả lại, trong công tác vận động quần chúng của bộ đội ta cũng gặp không ít khó khăn do ngôn ngữ bất đồng. Song có một điều, chúng ta xác định rằng đại bộ phận nhân dân là tốt. Nếu khơi dậy được tinh thần dân tộc và mối quan hệ đoàn kết lâu đời giữa nhân dân hai nước thì nhất định chúng ta sẽ thành công.

Tôi xin kể ra đây một câu chuyện có tính hài hước, nhưng lại là sự thật, sự thật nói lên tình cảm truyền thống của nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia; đặc biệt là tấm lòng của người dân Campuchia vừa mới được giải phóng đối với bộ đội Việt Nam.

Chuyện kể rằng: Có một đơn vị bộ đội Việt Nam trên đường hành quân qua một phum nhỏ. Mùa khô trời nắng nóng, anh em hỏi dân làng: “Nước ở đâu?”. Đồng bào ở đây không biết tiếng Việt Nam nên có nhiều người nói “Ót-che” (nghĩa là không biết). Anh em ta hỏi ở đâu cũng đều được trả lời như thế. Có mấy đồng chí hơi bực mình: “Tức thật! Tức thật!”. Đồng bào nghe nói tiếng “tức” (trong tiếng Campuchia nghĩa là nước), liền cho người đưa nước đến cho bộ đội. Nhưng ở đây, người thì đông mà nước lại rất hạn chế. Một anh lính quê khu tư nói một câu bâng quơ: “Người “đôông” ra ri mà được từng nớc nác, thì ai uống ai nhịn đây!” (Tiếng phổ thông có nghĩa là: Người đông thế này mà được từng ấy nước thì ai uống ai nhịn đây). Đồng bào nghe bộ đội nói tiếng “đôông” (trong tiếng Campuchia “đôông” nghĩa là nước dừa), liền cho người lên hái dừa cho bộ đội. Mỗi gia đình mang đến mấy trái, cả thôn tập trung lại được số dừa xếp thành đống. Bộ đội ta cười hả hê, có anh chàng quê miền trong nói như tuyên bố: uống “chết” bỏ. Bà con ở đây nghe tiếng “chết” (tiếng Campuchia “m’chếch” có nghĩa là chuối), tưởng bộ đội Việt Nam muốn ăn chuối, nên những buồng chuối chín lại được mang ra. Nhân dân vui mừng ngồi nhìn bộ đội Việt Nam ăn uống no nê như những đứa con xa về thăm cha mẹ vậy… Còn biết bao câu chuyện cảm động trước tấm lòng của đồng bào Campuchia dành cho bộ đội Việt Nam chúng ta trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất nước chùa tháp này.

Từ đây, trên chiến trường, mỗi đợt truy quét địch ngoài địa hình hoặc mỗi lần đi đến các phum, sóc làm công tác vận động quần chúng, bộ đội ta luôn sát cánh cùng bộ đội và nhân dân Campuchia cùng chiến đấu và công tác bên nhau. Đây là những biểu tuợng của mối liên minh chiến đấu Việt Nam - Campuchia; là hình ảnh “anh bộ đội Cụ Hồ” trong lòng quân và dân nước Bạn.

Tôi nhớ, sau cuộc tổng tiến công, sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi cơ động đến đóng quân và hoạt động trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng. Trong những ngày ấy, địch lùa dân chạy theo chúng vào rừng, nhiều người đã lả đi vì đói, vì khát, vì ốm đau, bệnh tật. Bộ đội ta vừa truy kích địch vừa khiêng cáng những người dân kiệt sức trở về phía sau, bón cháo cho từng người, tổ chức khám bệnh, cho thuốc, nhường cơm, sẻ áo cho họ trong lúc khó khăn. Có nhiều người dân cảm động quá, nói không nên lời: “Bộ đội Việt Nam tốt quá, đã cứu nhân dân chúng tôi lần thứ 3. Chúng tôi nhớ ơn bộ đội Việt Nam suốt đời!” - Đó là câu nói thường gặp ở nhân dân Campuchia.

Sau hai tháng thành lập Mặt trận 479, từ ngày 14 tháng 4 đến 14 tháng 6 năm 1979, trên phạm vi hai tỉnh Xiêm Riệp và Bát Tam Băng, ta đã giúp Bạn tổ chức học tập cho 14.921 người dân, xây dựng chính quyền hoàn chỉnh được 129 phum, 12 xã và một thị trấn (Si-sô-phôn) gồm 83.000 dân, xây dựng 339 du kích xã, lựa chọn được 1.153 du kích phum, 66 ủy viên xã.

Trên hướng của đoàn 72 (phiên hiệu của sư đoàn bộ binh 309 trong năm 1979 - 1980) đảm nhiệm đã tổ chức học tập cho 11.600 lượt người. Tổ chức chính quyền được 26 phum, 26 đội du kích (330 người), trang bị 130 súng; bầu được 52 ủy viên phum: huyện Sầm Rông 20 phum, huyện Chông Can 6 phum.

Đoàn 59 (phiên hiệu của sư đoàn bộ binh 302 trong năm 1979 - 1980) trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đã củng cố 12 cơ quan xã, 113 phum, phát động nhân dân tố giác và bắt 74 tên địch, ra trình diện 174 tên khác.

Đoàn 75 (phiên hiệu của sư đoàn bộ binh 5 trong năm 1979 - 1980) đã xây dựng được cơ quan ở 10 phum (xã Công Pông Soai được 7 phum), bầu được 14 ủy viên, tổ chức học tập cho 3861 lượt người dân.

Toàn tỉnh Xiêm Riệp có 92 xã, tính từ đầu giải phóng, ta đã xây dựng chính quyền được 33 xã. Tỉnh Bát Tam Băng có 101 xã, đã xây dựng được 14 xã.

Tính chung trong hai năm 1979 - 1980, sư đoàn bộ binh 309 đã giúp nhân dân Bát Tam Băng 43 tấn lúa giống, 16.702 tấn gạo cứu đói, giúp nhân dân sản xuất 68.574 ha lúa, tặng 6.232 bộ quần áo, xây dựng và sửa chữa 62 trường học với 638 lớp, 6.070 trẻ em được đến trường. Cán bộ chiến sĩ của sư đoàn bộ binh 309 còn vận động, quyên góp được một số tiền đủ để mua sách vở cho các em đến trường, xây dựng được 32 trạm xá phum với 420 giường bệnh; đã khám và phát thuốc và điều trị cho 2.117 người. Ta đã thành lập ra 55 đội công tác. Phối hợp với 55 đội công tác là các tổ tự quản ở 9 xí nghiệp, nhà máy của Bạn. Các tổ chức quần chúng này đã sát cánh cùng chúng ta tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Mặt trận, giúp chính quyền, cơ sở hoạt động. Sư đoàn còn tổ chức, xây dựng và huấn luyện quân sự cho 3 tiểu đoàn, 8 đại đội bộ binh tỉnh, huyện. Nhiều đơn vị, cá nhân trong lực lượng vũ trang địa phương của Bạn trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đã độc lập tác chiến, hoặc hợp đồng chiến đấu với ta đạt hiệu suất chiến đấu tốt cụ thể là:

Đội du kích xã Xưa thuộc huyện Mông-côn Bô-rây, tỉnh Bát Tam Băng được thành lập tháng 6 năm 1979 có 20 người do đồng chí Út Sơn làm xã đội trưởng. Đội du kích này đã đánh 5 trận, diệt 6 tên địch, thu 178 súng. Có trận đã đánh lui nhiều đợt phản kích của địch đông gấp nhiều lần.

Đội du kích xã Chòm Nom, cũng thuộc huyện Mông-côn Bô-rây có 30 người, do đồng chí Leng Loóc làm xã đội trưởng. Trong một tháng đội du kích đã đánh 4 trận - trong đó có 2 trận phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam, diệt 8 tên, bắt 45 tên (có 3 tên chỉ huy), thu 16 súng.

Đội du kích xã Lô-via cũng thuộc Mông-côn Bô-rây, có 25 người, do đồng chí Sơn Pon làm xã đội trưởng, đã đánh một số trận, diệt 5 tên, bắt 16 tên, thu 37 súng.

Đội du kích xã Chang Ha, huyện Si-sô-phôn diệt 5 tên, bắt 3 tên thu 3 súng.

Hoặc là đội du kích xã Sơ-rai Chnăng, ngày 23 tháng 7 đã đánh lui một lực lượng địch khoảng 70 tên, có cối 82 mm và 12,7 mm yểm trợ tấn công vào một phum, đội du kích xã này đã diệt được 5 tên, bắn bị thương 5 tên khác, thu 1 khẩu AK và bảo vệ được nhân dân ở đây, và còn nhiều đội du kích các xã khác thuộc địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đều đã đánh được địch, bảo vệ được cơ sở chính quyền cách mạng và nhân dân địa phương.

Đặc biệt là đại đội 131, bộ đội tỉnh Bát Tam Băng, trong mùa khô 1979, 1980 đã đánh 15 trận, diệt 79 tên địch, bắt 58 tên, thu 27 súng, 5 lựu đạn. Đại đội đã tổ chức tuyên truyền các chính sách của mặt trận được 16 buổi cho nhân dân, đưa được 20.700 người về quê cũ làm ăn.

Trong phong trào hành động cách mạng đã xuất hiện nhiều gương chiến đấu dũng cảm, tận tụy với công việc được giao, được nhân dân tin tưởng; như đồng chí Sóc Long, trợ lý tham mưu của tiểu đoàn 18 bộ đội tỉnh, trong một trận, một mình đồng chí đã diệt được 6 tên địch; đồng chí Sóc Đen, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 18 luôn luôn gương mẫu trong công tác, dũng cảm trong chiến đấu. Trong trận đánh ngày 20-7-1979, đồng chí đã chỉ huy tiểu đoàn diệt được nhiều địch. Riêng đồng chí đã diệt được một tên, thu 1 súng, sau đó đồng chí bị hy sinh. Hoặc là các đồng chí Mi Khương, cán bộ đại đội 113 gan dạ, dũng cảm, diệt 10 tên, thu 10 súng; đồng chí Non Chăn Rên, đại đội phó đại đội 133 đã diệt được 2 tên, bắt 8 tên, thu 2 súng… và còn rất nhiều, rất nhiều đồng chí cán bộ, chiến sĩ khác thuộc các đại đội 131, 133, 134, 135… đã lập được thành tích trong chiến đấu và công tác.

Được sự giúp đỡ tận tình của các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh 309 quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam trong năm 1979 và 1980 trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng đã có 9 đội du kích xã, 5 đại đội, 1 tiểu đoàn bộ đội tỉnh và gần 100 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh Bát Tam Băng được khen thưởng.

Không chỉ có lực lượng vũ trang các tỉnh Bát Tam Băng đã hoạt động tốt, có hiệu quả, mà trên địa bàn tỉnh Xiêm Riệp cũng có nhiều tập thể và cá nhân tiêu biểu trong phong trào hành động cách mạng. Đội du kích xã Pơ-rây-chơ-rúc thuộc huyện Puốc đã chiến đấu nhiều trận diệt được địch, thu được vũ khí, nội bộ đoàn kết, tích cực trong công tác vận động quần chúng, bảo vệ được Chính quyền cách mạng. Đội du kích xã Soxaddan cũng thuộc huyện Puốc, có nhiều thành tích trong chiến đấu và công tác, phối hợp với quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hoạt động có hiệu quả, và gần 50 đồng chí cán bộ, chiến sĩ thuộc các đội du kích xã và tiểu đoàn 6, 8 Đông Bắc địa phương tỉnh Xiêm Riệp cũng đã được khen thưởng.

Sau này, các đơn vị đã trưởng thành, phát triển lên thành những đơn vị chủ lực mạnh trong lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia.

Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố, chống phá đến cùng của địch, được sự tiếp tay của các thế lực bên ngoài, với âm mưu kéo dài cuộc chiến tranh du kích, tiêu hao lực lượng vũ trang ta và Bạn, hòng lật lại thế cờ, chuyển từ chiến lược cầm cự sang chiến lược phản công và tiến công, với hy vọng nhằm quốc tế hóa vấn đề Campuchia. Trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng lúc bấy giờ, địch tập trung được một lực lượng đáng kể. Trong cuộc chiến tranh giành dân, chúng đã mua chuộc, hù dọa, lôi kéo lên vùng biên giới giữa Campuchia - Thái Lan, thành lập ra các cái gọi là trại tị nạn; nhưng thực chất là để bắt lính, bổ sung cho các đơn vị goi là trung đoàn, sư đoàn của chúng, và lợi dụng “trại tị nạn” để nhận viện trợ từ bên ngoài, rồi bắt nhân dân vận chuyển vũ khí vào nội địa để cung cấp cho bọn phản động chống phá ta và Bạn lâu dài.

Từ cuối năm 1980 trở đi, chỉ trên hướng chính diện khoảng 50 - 60 km vùng biên giới tỉnh Bát Tam Băng, từ Phnôm Mê Lai xuống đến Nam thị trấn Pailin, chúng đã xây dựng được 5 căn cứ, với hàng vạn dân, gồm: căn cứ Cao Mê Lai, Sơ-đa, bắc Ô-đa, Com Riêng, Tà Sanh - Sầm Lốt. Riêng căn cứ Cao Mê Lai, cuối năm 1979, sư đoàn bộ binh 309 bàn giao lại cho sư đoàn bộ binh 5 chốt giữ. Nhiều lần địch tấn công, gây sức ép, ta và địch giành đi, giật lại mấy lần, nhưng cuối cùng địch đã chiếm lại được. Nơi đây là văn phòng Trung ương 3 phái Campuchia phản động lập ra để quan hệ với một số nước bên ngoài và kéo dài cuộc chiến tranh. Chúng đã tổ chức và khôi phục lại các đấu sư đoàn, như sư đoàn bộ binh 320 có các căn cứ ở Sơ-đa-Ô-đa, sư đoàn bộ binh 415 ở Com Riêng - Pailin, sư đoàn bộ binh 221 ở Tà Sanh - Sầm Lốt, sư đoàn bộ binh 519 ở Đăng-cum và các đơn vị khác.

Từ những căn cứ này, chúng thiết lập ra các hành lang vận chuyển chủ yếu là vũ khí, đạn dược, mìn vào sâu trong nội địa, đến Biển Hồ. Còn lương thực thì chúng bắt ép dân ở trong nội địa cung cấp. Các hành lang này, địch thường lợi dụng sơ hở của ta ở những nơi tiếp giáp giữa 2 đơn vị, như hành lang Nam Phnôm Mê Lai - là nơi tiếp giáp giữa sư đoàn bộ binh 5 và sư đoàn bộ binh 309. Hoặc ở cả những nơi tiếp giáp giữa các trung đoàn trong một sư đoàn. Tình trạng này còn kéo dài mãi đến mùa khô năm 1984.

Ngoài những căn cứ trên tuyến biên giới phía tây tỉnh Bát Tam Băng, phía bắc, đông bắc Si-sô-phôn (như Đăng-cum, Ăm-pin) và các nơi khác, địch còn thiết lập các căn cứ lõm trong nội địa, nhất là xung quanh Biển Hồ.

Đến đây, bạn có thể hỏi là vì sao năm 1979, trong cuộc tổng tiến công, ta đã đánh tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xa-ri và đã giải phóng hoàn toàn đất nước Campuchia, nay vẫn còn tồn tại nhiều căn cứ lớn, nhiều đơn vị địch như thế?

Xin thưa: Đó là một thực tế! Với một đội quân phản động hàng vạn tên, lại được các thế lực thù địch với ta nuôi dưỡng. Trong một thời gian rất ngắn, với sức mạnh tiến công như vũ bão của các binh đoàn bộ đội ta, kẻ thù đã chủ động tháo chạy để bảo toàn lực lượng. Trên chiến trường lúc bấy giờ, sinh lực của chúng bị tiêu diệt không bao nhiêu. Với bản chất ngoan cố của kẻ thù, chúng lại tập hợp lại với âm mưu tiến hành một cuộc chiến tranh du kích lâu dài với ta. Vả lại, đánh một kẻ địch tháo chạy trong điều kiện trên đất đối phương, địa hình rừng núi và nhất là núi liền núi, sông liền sông với nước láng giềng Thái Lan thì lại càng không dễ. Không lại trừ việc quân ta áp dụng phương thức tác chiến trong từng giai đoạn có lức chưa thật phù hợp với tình hình cụ thể về địa hình và đối tượng tác chiến.

Một vấn đề không kém phần quan trọng, có ảnh hưởng đến hiệu suất chiến đấu trên chiến trường mà ở các phần sau tôi xin được đề cập một cách cụ thể hơn: Đó là công tác nắm địch trong quá trình tiến công giải phóng Campuchia và cả trong quá trình giúp Bạn của những năm sau này.

Trong cuộc chiến vừa qua diễn ra trên đất nước Campuchia, sau cuộc tổng tiến công có nhiều ý kiến cho rằng: kẻ địch bấy giờ chỉ là một đội quân bại trận, một đám tàn quân không kém. Điều đó hoàn toàn đúng. Bởi vì sau cuộc tổng tiến công đó, ta đã làm sụp đổ hoàn toàn một chính quyền phản động từ Trung ương đến địa phương, sức mạnh về quân sự đã bị suy sụp, tổ chức bị rối loạn, mất hết tính chủ động và lâm vào thế bị động trên chiến trường. Về đối nội thì bị thất bại, bị đại bộ phận nhân dân căm thù đến tận xương tủy. Còn về đối ngoại thì bị cô lập trên trường quốc tế, nguy cơ bị mất chiếc ghế Liên Hiệp Quốc luôn bị đe dọa. Song trong thời điểm hiện tại, với lực lượng còn đông, lại được một số nước bên ngoài viện trợ vũ khí và đám tàn quân đó đã được tập hợp lại thành từng đơn vị hẳn hoi. Bên cạnh đó là khả năng của chính quyền và lực lượng vũ trang của Bạn chưa thể làm chủ được một đất nước vừa mới hồi sinh. Âm mưu của địch, từ năm 1980 trở đi, đã chuyển sang một chiến lược mới: Tiến hành một cuộc chiến tranh du kích lâu dài ở Campuchia. Vì vậy mà quân tình nguyện Việt Nam còn phải tiếp tục làm nghĩa vụ quốc tế là giúp Bạn đánh bại mọi âm mưu của kẻ thù, xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang cho đến khi nào Bạn tự đảm đương được công việc của mình. Và trong 10 năm sau đó, chúng ta đã phải trả giá bằng hàng ngàn sinh mạng cho nghĩa vụ này. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận một cách toàn diện và khách quan. Tất cả đều là có thể.

Đối với sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi, bước đầu trong nghĩa vụ quốc tế, đã đem lại một số kết quả thiết thực: Từ con số “0”, chính quyền cơ sở đã được hình thành và đi vào hoạt động. Lực lượng vũ trang của Bạn tuy còn yếu về khả năng chiến đấu, ít về số lượng, nhưng cũng đã sát cánh cùng bộ đội Việt Nam chiến đấu bảo vệ được chính quyền phum, xã, đến tỉnh. Hoạt động sản xuất của các xí nghiệp trong các huyện và thị xã Bát Tam Băng cũng đã được khôi phục.

Bộ đội ta đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu và công tác trên một địa bàn có tình hình chính trị rất phức tạp, địa hình thời tiết khắc nghiệt của một vùng cực tây bắc Campuchia. Đặc biệt là đã kết hợp được các hoạt động giữa ta và Bạn, chuyển được phương thức hoạt động, vận dụng cách đánh phù hợp với đối tượng và địa hình tác chiến ở phía tây tỉnh Bát Tam Băng này.

Từ phương thức tác chiến hiệp đồng binh chủng, ta đã chuyển sang hoạt động phân tán với những trận phục kích, tập kích, tao ngộ quy mổ nhỏ diễn ra trên các loại địa hình. Hiệu suất chiến đấu trên chiến trường ngày càng cao, đã gây không ít khó khăn cho địch. Trái lại, bộ đội ta càng ngày càng trưởng thành nhiều mặt. Đơn cử một số trận đánh cấp phân đội và dưới phân đội đạt được hiệu suất chiến đấu cao trong những tháng ngày đầu tiên làm nhiệm vụ quốc tế như sau:

- Ngày 29-5-1979, trong một trận đánh vận động ngoài địa hình, tiểu đoàn 3 trung đoàn bộ binh 812 diệt gọn một tiểu đoàn địch, diệt tại chỗ 83 tên, thu gần 50 súng các loại tại huyện Mung, phía nam tỉnh Bát Tam Băng.

- Ngày 15-7-1979, đại đội 11, tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn bộ binh 812 diệt gọn một đại đội địch, diệt tại chỗ 35 tên, thu 22 súng cùng ở khu vực trên.

- Ngày 13-8-1979, với cách đánh luồn sâu vào sau căn cứ của trung đoàn bộ binh 905 thuộc sư đoàn bộ binh 320 của đich ở Ô-đa, tiểu đoàn 8 thuộc trung đoàn bộ binh 31 đã tiêu diệt 39 tên, thu 37 súng.

- Ngày 28-11-1979, cũng tại khu vực Ô-đa, tiểu đoàn 6 trung đoàn bộ binh 96 đã đánh một trận vận động tập kích vào đội hình địch đang co cụm ngoài căn cứ, diệt trên 30 tên, thu 37 súng các loại.

Không những cấp cơ sở tiểu đoàn, đại đội chiến đấu có hiệu suất cao, mà kể cả một số trận như trận phục kích bằng mìn, chỉ có một tổ 3 đồng chí thuộc tiểu đoàn 3 trung đoàn bộ binh 812 cũng diệt được 11 tên, thu 6 súng. Và rất nhiều trận đánh khác được thực hiện trong những năm sau đó. Tình hình trên chiến trường lúc này quả là nóng bỏng.

Lực lượng tác chiến của Mặt trận 479 vẫn chưa có gì thay đổi lớn; nhưng trên hướng sư đoàn bộ binh 309 (tức là địa bàn phía tây tỉnh Bát Tam Băng) thì có một ít thay đổi: sư đoàn bộ binh 341 được rút về nước, thay vào đó là trung đoàn bộ binh 250 của Quân khu 5 được điều sang nằm trong đội hình sư đoàn bộ binh 309. Cũng cần nói qua một số nét về trung đoàn này: được thành lập vào ngày 22-11-1968, trung đoàn bộ binh 250 là một trung đoàn chủ lực của Quân khu 5. Trong chiến tranh giải phóng, chống sự xâm lược của Đế quốc Mỹ, trung đoàn làm nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, tiếp vận. Địa bàn chủ yếu là các tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc và tỉnh Quảng Đức cũ. Tuy chưa có một bề dày liên đoàn như các trung đoàn khác, nhưng với thành tích trong công tác bảo đảm chiến đấu và đánh địch, trung đoàn cũng đã dược tặng thưởng một huân chương Quân công hạng 3 và nhiều huân chương chiến công các loại. Trung đoàn có đại đội 9, tiểu đoàn 3 được tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời chống Mỹ.

Trước khi chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ, trung đoàn bộ binh 250 trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đắc Lắc và được điều sang Mặt trận 479, trở thành một trong ba trung đoàn thuộc biên chế chính thức của sư đoàn bộ binh 309 vào tháng 12 năm 1979. Trung đoàn bộ binh 250 có sở trường đánh vận động và có khả năng hoạt động độc lập trên một hướng. Người chỉ huy đầu tiên của trung đoàn trong những ngày đầu làm nhiệm vụ quốc tế là Thái Văn Hòa - trung đoàn trưởng - và Nguyễn Đình Củng - chính ủy trung đoàn. Cuối năm 1980, do yêu cầu nhiệm vụ hai đồng chí Thái Văn Hòa và Nguyễn Đình Cùng đi nhận nhiệm vụ khác, đồng chí Trịnh Ngọc Huấn và Trần Sỹ Mỹ được điều về đây với cương vị là trung đoàn trưởng và chính ủy trung đoàn.

Đồng chí thiếu tá trung đoàn trưởng Trịnh Ngọc Huấn là một người rất nhanh nhẹn. Năm 1976 khi tôi đang công tác tại trườn Quân chính Quân khu 5, đồng chí là học viên lớp bổ túc cán bộ tiểu đoàn. những kỷ niệm giữa tôi với đồng chí là những lần đồng chí “quậy tới bến” ở trong lớp và những lúc đi dã ngoại ngoài thao trường, rồi anh em lại xa nhau; bây giờ mới được gặp lại. Còn đồng chí thiếu tá - Chính ủy trung đoàn Trần Sỹ Mỹ thì đã sống và công tác với tôi trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền Trung. Những năm làm nhiệm vụ đánh giao thông trên đường Quốc lộ 19, rồi đánh địch nống lấn sau hiệp định Paris ở vùng Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Lúc đó, tôi là tiểu đoàn trưởng, đồng chí là chính trị viên cùng ở tiểu đoàn 6, trung đoàn bộ binh 12 thuộc sư đoàn 3 Sao Vàng. Đồng chí là một cán bộ chính trị có nhiều kinh nghiệm và cũng là một cán bộ có “số đào hoa” nhất trong đội ngũ cán bộ cùng lứa với chúng tôi hồi đó. Tôi cũng rất bất ngờ khi gặp lại đồng chí tại chiến trường này - nơi có cái tên “cua chữ V” đường số 10 huyện Pailin.

Bây giờ hai đồng chí bắt đầu đảm nhiệm trọng trách lãnh đạo, chỉ huy trung đoàn bộ binh 250 chiến đấu trên một địa bàn khó khăn nhất, phức tạp nhất mà chúng ta còn có dịp nói đến ở phần sau.

Trước khi trung đoàn bộ binh 250 nằm trong đội hình của sư đoàn bộ binh 309, trung đoàn bộ binh 726 cũng là một trung đoàn của tỉnh Đắc Lắc - trực thuộc đoàn 334 làm kinh tế của Quân khu 5 - đã có mặt trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng và cũng là một trong những trung đoàn được tăng cường, bổ sung cho sư đoàn bộ binh 309. Trước mắt đảm nhiệm hoạt động trên trục đường số 10 thuộc huyện Pailin, thay cho sư đoàn bộ binh 341 rút về nước cùng với Quân đoàn 3. Thời gian này đồng chí trung tá Nguyễn Đình Đức, trung đoàn trưởng, đồng chí trung tá Nguyễn Văn Hiền là chính ủy. Sau này đồng chí Nguyễn Đình Đức được điều sang trung đoàn 812 làm trung đoàn trưởng cùng với đồng chí trung tá Nguyễn Văn Quán, chính ủy, trấn giữ tại thị trấn Pailin. Đồng chí Hà Văn Mẫn được làm chính ủy trung đoàn 726. Nhớ lại những ngày đầu của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam, trung đoàn bộ binh 276 cũng là một trong những trung đoàn bộ binh của Quân khu 5 đã có mặt trên chiến trường Đông Bắc Campuchia. Như trong phần đầu cũng đã nói, từ những kết quả chiến đấu giữ vững trận địa mà trung đoàn bộ binh 276 thực hiện đã tạo điều kiện thuận lợi cho trung đoàn bộ binh 31 tiến công đánh chiếm cao điểm 312 ngày 24-12-1979 tại tỉnh Ratanakiri.

Trong thời gian trung đoàn bộ binh 726 được tăng cường cho sư đoàn bộ binh 309 trên địa bàn tỉnh Bát Tam Băng, trung đoàn cũng là một đơn vị hoạt động tác chiến có hiệu quả, một số trận đạt hiệu suất chiến đấu cao, đã chuyển được phương thức tác chiến phù hợp với đối tượng và địa bàn nơi trung đoàn đảm nhiệm.

Tại huyện Pailin, trên trục đường số 10, ngày 20-6-1979, qua công tác giúp Bạn phát động quần chúng nhân dân, địch đã ra hàng 14 tên, giao nộp cho trung đoàn 7 súng; và cũng trong ngày này, trung đoàn 726 truy quét địch Nam đường số 10 diệt 10 tên, thu 11 súng. Đến ngày 25 tháng 6 tại khu vực Đông Nam “cua chữ V” thuộc huyện Săng Ke, ta diệt 14 tên, thu 8 súng, bắt 1 tù binh.

Đặc biệt ngày 26-7-1979, tại phía nam “cua chữ V”, đại đội 1 tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn bộ binh 726 sau khi diệt 1 tên, thu 1 súng của tổ cảnh giới địch, ta phát hiện một vị trí trú quân của một đại đội đội địch, đại đội 1 của ta nhanh chóng bao vây, chia cắt, tiêu diệt gần hết đại đội địch này, diệt tại chỗ 22 tên, thu 19 súng các loại (có 1 đại liên, 1 súng chống tăng B41), là trận đánh xuất sắc, diệt nhiều địch, thu vũ khí ta không thương vong và chấp hành tốt chính sách.