Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 20 - Phần 1

HỒI THỨ HAI MƯƠI

Tây Định Vương sai dụ hàng Chiêu Vũ

Ký lục Hồ sa lưới mắng Hào Man.

Nói tiếp chuyện năm Kỷ Hợi (1659) tháng hai, ngày mười hai, tướng Đàng Ngoài là Phú quận công Trịnh Căn sai văn quan là tiến sĩ Tuấn Đức viết bức thư khiêu khích. Thư viết:

“Khâm sai tiết chế Trịnh súy phủ gử bức thư đến người anh em họ ngoại là Nguyễn lệnh công hiểu rõ:

Đại phàm trời người đều cùng một lí, hiểu thấu đạo lí thì phận được yên. Gần đây lệnh công nghe lời xúi bẩy, gây hấn ở chỗ biên thùy, hao dân tốn của, động binh kết oán liên miên. Trong lúc trận mạc giao tranh, mạnh yếu hơn thua không phân biệt được. Huống chi sinh linh khốn khổ, vì việc binh, gan óc bết đất, thật là đáng thương. Nay lệnh công cử sự như thế là muốn thu gồm lãnh thổ, cứu vớt muôn dân, hay là có ý định xâm lăng thôn tính? Hơn nữa lại càn bậy tự phong tước lớn, không đếm xỉa đến thiện ý của tiên vương nộp cống vật, dâng lòng thành, nước nhỏ thờ nước lớn. Vả chăng thứ bậc cao thấp, danh phận lớn bé đều là lí đương nhiên của trời đất, đạo người không thể vượt qua được. Lệnh công đã biết như thế thì phải hiểu cho thấu lẽ, giữ phận cho thật yên. Lệnh công há không biết điều đó chăng? Kế sách ngày nay không gì hơn là khôi phục nghiệp cũ của tiên vương, giản việc binh cách, ai yên cõi nấy, để cho dân chúng được yên vui cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống. Như thế há không phải là sự nghiệp to to lớn hay sao? Lệnh công hãy lượng xét, chớ nên nghi ngờ. Nay thư.”

Tiết chế Thuận Nghĩa và đốc chiến Chiêu Vũ xem xong thư, cả giận nói:

- Quận Phú trẻ ranh, miệng còn hơi sữa mà dám chọc phạm đến chúa thượng của ta chăng?

Hai tướng ỉm việc thông báo về triều, rồi viết ngay thư bài bác họ Trịnh. Ngày mười tháng ba sai đội trưởng Triều Thạch đem qua bờ bắc đến bến đò Phù Thạch đưa cho lính tuần bên Trịnh để chuyển cho Trịnh Căn. Quận Phú bóc ra xem thấy lời thư đáp rằng:

“Tiết chế các doanh quân Nam là Hổ uy đại tưởng Thuận quận công đáp thư đến Trịnh súy phủ biết rõ:

Trộm nghe: Đạo trời có âm dương, âm dương hòa thì đạo trời thuận. Đạo người có cương có nhu, cương nhu có kiềm chế thì đạo người được đúng. Thưở xưa Minh Khang vương[472] nhớ ơn trước mà phân ranh chia đất, kính trọng nghĩa tình. Tiên vương ta[473] giữ lễ giáo tín nghĩa, lấy việc cống nộp để tỏ lòng thành, Nam Bắc kết thân, Tấn Tần hòa hiếu. Dân chúng nhờ vậy được vui sống trong cõi yên gió bụi. Gần đây Đàng Ngoài mấy bận gây việc đao binh, chuyện cũ thôi không nói. Đến năm Mậu Tý (1648), chỉ vì nghe lời nói xằng của hoạn quan mà bỗng dưng gây hấn xâm lăng. Quân ứng nghĩa bèn dấy lên dương oai chẻ trúc, đuổi hùm hổ chạy dài, quyết tâu công bắt giặc. Đến nay trải đã sáu năm chưa từng một lời đối đáp. Nếu có ý được đất Lung, dòm đất Thục thì còn đợi gì đến ngày nay? Nay thế lực mạnh yếu, trí dũng vụng khéo ra sao hầu đã phân biệt rõ. Chỉ vì luôn năm dùng binh, hao sức tốn của, nghĩ thương xót dân lành. Nghĩ đến điều ước trước bèn lui về cho quân lính nghỉ hơi dưỡng sức, gìn giữ cõi nhà. Gần đây tiếp được thư của súy phủ, lời ý chân thành sâu sắc, xét kĩ mọi việc trước sau, khiến lòng vui khôn xiết. Mọi việc chỉ do nơi súy phủ, động tĩnh cương nhu ra sao thì chúng tôi sẽ tùy theo mà đáp ứng. Ngũ hành lấy thổ (đất) làm chủ, ngũ thường lấy chữ tín làm đầu. Lời nói chân thành từ chốn xa, mong súy phủ hãy xét. Nay thư.”

[472] Tức Trnh Kiểm.

[473] Chỉ Nguyễn Hoàng.

Phú quận công xem kĩ bức thư thấy ý tứ có phần ngạo ngược lại càng tức giận bội phần, bèn sai tiến sĩ Tuấn Đức lấy danh nghĩa của trấn thủ Quảng quận công viết tờ hiểu dụ đáp lại. Khoảng chập tối ngày hai mươi bảy buộc thư vào đuôi tên lửa, sai lính bắn vào trong đồn Khu Độc. Lính tuần bắt được thư đem trình lên đốc chiến Chiêu Vũ. Thư viết:

“Tướng triều đình là đô đốc Quảng quận công phúc thư cho các người cầm đầu trong lũy tổ quạ[474] đều biết:

“Đại phàm lễ không điều gì lớn hơn phận, phận không gì lớn hơn danh. Cho nên cần phải chính danh phận rồi mới ổn định việc khen chê. Bữa qua đây thấy bức thư của mấy người cầm đầu trong lũy nói đến việc biến loạn, phải trái khen chê lộn phèo. Đối với bên Trịnh ta thì quá lời dìm nén, đối với họ Nguyễn bên ấy thì quá lời tâng bốc. Thế chẳng phải là để cho người đời bàn tán chê cười cho là không thích đáng hay sao? Nay lấy việc của chúa Trịnh và họ Nguyễn đem ra mà so sánh thì biết rõ:

Ngày trước, khi Trang Tông Dụ hoàng đế mới dấy lên ở nguồn sông Mã, Minh Khang thái vương đảm đương việc nước, xoay càn khôn. Bấy giờ Chiêu Huân Tĩnh Công chiêu tập nghĩa binh cùng hiệp sức phò vua Lê. Nhưng bên trong thì ngấm ngầm tiếm đoạt, phải chết độc bởi trời. Dù đạo trời như thế, nhưng tiên Thái vương vẫn làm trọn nghĩa tình, nhớ công ơn ngoại gia nuôi dưỡng, giúp tâu vua cho Cẩn Nghĩa công[475] được vào làm trấn thủ châu Ô, khiến cho được tự giữ vẹn toàn. Cẩn Nghĩa công đã kính thuận hòa mục với Triết vương[476] từng giúp việc dẹp trừ họ Mạc thu phục kinh thành, đến cửa khuyết bày tỏ lòng trung để cùng giữ gìn phú quý. Nhưng cuối cùng lại rắp tâm gây loạn, tự ý bỏ về trấn cũ. Vả lại Cẩn Nghĩa công còn là con cháu bậc huân thuần, thực là bề tôi xương cốt. Tiên Triết vương đối đãi như tình thân tim phổi, không nỡ dùng búa rìu trừng phạt. Chúa Trịnh ta lượng bao dung như biển cả, há lại không biết lòng trời đất hay sao? Chỉ một lòng trung phò giúp vua Lê, ngôi trời không tơ hào dòm ngó.

Bên họ Nguyễn các người, Tĩnh công Nguyễn Kim trước đã không biết tự răn về việc mặc áo vàng[477], sau lại ngông cuồng tự gia thăng vương tước. Cẩn Nghĩa công Nguyễn Hoàng đã không xin mệnh vua mà trở về bản trấn, sau lại tráo trở trăm chiều. Theo sự việc mà đánh giá, dùng nghĩa lý mà xét đoán, ai là người giữ tín nghĩa, ai là người mất tín nghĩa đó chăng? Các ngươi chẳng biết đầu đuôi khúc nhôi, như thế một là giầy mũ đảo ngược, trên từ ái mà dưới ác ngược; một nữa là lấy nghịch tâm báo nước, trời phải mượn tay kẻ trung thần mà dẹp trừ đi. Sao lại còn chối cãi xằng bậy để manh tâm bội phản? Các đời thánh chúa dẹp trừ hung đồ, gươm giáo đầy đất, vương nghiệp sáng ngời giữa trời cao biển rộng, kẻ thần thuộc phải theo về. Thế mà cha con quận Thụy[478] lại làm phản gây việc hiềm thù, binh đao đối địch. Đến nỗi bọn Văn Nham, Thạch Xuyên gậy họa ở trong, rồi thông ra tố cáo. Triều đình phải sai bộ Đăng, quận o vào tuyên chỉ dụ để dẹp yên, khiến cho cõi miền nhờ đó được bảo toàn. Đã không biết công việc của sứ bộ sai đi để làm việc gì[479], lại bảo triều đình dùng mưu trai cò lôi kéo nhau để ở giữa ngư ông thu lợi. Há chẳng phải là lấy lòng dạ tiểu nhân để đo lòng quân tử hay sao? Lại nữa là chuyên quyền việc binh bị tiền tài mà bỏ bễ nghi thức dâng nộp thuế cống, chống cự chiếu mệnh mà lỗi đạo phiên thần, cương thường vứt đất, tội ác đầy trời. Khổng Tử nói: “Nhiễu hiền hại dân thì phải trừng phạt, ngoan cố bất phục thì phải dẹp trừ.” Vì thế tiên thánh vương vâng mệnh hoàng thượng đem quân vào trách hỏi việc thiếu thuế, đâu có phải bụng dạ tham lam? Cất quân hỏi tội, có gì là quá đáng? Tự mình không sai trái, làm sáng tỏ mối giềng, cứu sinh dân trong vòng nước lửa. Thế mà các ngươi dám nói là vì tham tàn bạo ngược mà phải dấy nghĩa quân, làm những điều sai phép. Vì mưu toan gây hấn mà tung bủa phao vu, không lấy làm hổ thẹn về lời ni quá đáng sao?

Nay thánh chúa ta vâng nhận cơ nghiệp lớn, vẹn toàn đạo hiếu trung, thay trời đánh phạt, thì kẻ nghịch khôn đường trốn tội, giáo trời chỉ đến thì bốn phương yên bình. Tiểu dân chờ mong mà kẻ quyền hào thì lo sợ, kẻ gần thì vui mà người xa tìm đến. Ngu xuẩn thay bọn con cháu họ Nguyễn các ngươi chỉ biết bo bo một chút trí mọn, ngồi trong nhà cột chạm mà yên vỗ dân chúng một miền, quên ơn sâu nghĩa nặng của tiên vương ta, cha con nối nhau theo thói bất thần phục, đem quân đánh tớng trấn thủ, quấy nhiễu dân biên thùy, vào đất người mà cướp vườn người, thu vét cả trâu bò gia súc. Nói là phò Lê mà lại phản vua Lê, không gì xấu xa hơn nữa. Nhưng dân châu Ô nhỏ yếu, phải tăng số bắt thêm quân, hiếp bức trẻ già phải đi đắp hào lũy. Thế là chỉ biết họa mà không biết tránh họa, trước sau cũng phải chuốc bại vong. Các ngươi không biết điều đó mà chỉ muốn lấy sức cứng mạnh xô đẩy thế vận để đề cao cho mình. Thế là không biết cái thời của hào “lục tam” ở quẻ Bỉ[480] nói về sự chuốc nhục cho mình. Lại không dưng đem quân qua lại nơi biên ải, thế là không hiểu cái thế thua kém ở quẻ Sư[481]. Thế mà nói thắng trận Kỳ Hoa, đánh ruổi ra bảy huyện, thi có khác nào thua to ở Hương Bộc mà tan chạy ở Đại Nài? Nếu cho rằng vì dân mà đắp lũy chặn đường thì có khác gì đi giật lùi mà lại mong tiến tới? Khoe khoang cho lắm, bất tất phải nhiều lời. Lên cao mà nhìn lại mới biết cái thế vãng phục (qua lại) không cùng. Không có nhà chép sử, lấy ai mà phân biệt đúng sai? Chỉ thấy sử quan chép việc năm Đinh Mão (1627) quận Thụy chiếm cứ Hóa châu không về kinh triều cống, vua phải sai chúa Trịnh đem quân vào đóng ở Bố Chính, Nhật Lệ để răn đe. Năm Bính Thân (1656) con cháu họ Nguyễn lại xâm chiếm cướp bóc các thôn dân ở miền Nam hà[482], vua lại sai các tướng họ Trịnh đem quân vào đánh cho thua to ở vùng Hương Bộc, Đại Nài. Ghi như thế không những cốt để chính danh phận ở đương thời, mà còn để công bố việc khen chê cho hậu thế. Đến ngàn năm sau dư luận khen chê vẫn rất rõ ràng. Những kẻ gian hung đại tặc mà không dám làm sự tiếm đoạt cung là do đó. Còn như các ngươi rườm lời tô vẽ cũng không tránh được tội ác ghi vào sử sách, muôn lời khéo léo cũng không trốn được tội ác phản nghịch. Họ Nguyễn đã thế, các người khác làm sao thoát khỏi? Phàm lập thân không gì lớn hơn cương thường, sửa mình không gì bằng trung hiếu. Vì trung là để thờ vua, hiếu là để thờ cha. Cha ông các người là bề tôi nhà Lê, ăn lộc nhà Lê. Sao các người không theo chính đạo của cha ông để được hưởng ơn lộc dài lâu đời đời, hướng chỗ sáng để nêu danh tước? Nay ta vâng mệnh triều đình đem quân trấn giữ biên ải Bắc hà, cậy nhờ oai trời mà đuổi loài hổ báo, trước chuyển máy thần mà sau mới phải dùng nanh vuốt, bất tất phải nhiều lời. Phải quyết một trận để dẹp trừ nghịch tặc chốn biên phương, khôi phục cõi bờ xưa của các đời chúa trước. Nay phúc thư cho các ngươi biết rõ.”

[475] Cẩn Nghĩa công là tên thụy của triều Lê - Trịnh ban cho Nguyễn Hoàng sau khi Nguyễn Hoàng mất.

[476] Tức Trịnh Tùng.

[477] Chỉ việc phạm thượng nhà vua.

[478] Tức Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên.

[479] Đây chỉ việc Trịnh Tráng sai Đăng quận công Nguyễn Khải đem quân vào cửa Nhật Lệ để hỗ trợ cho cuộc phản biến do Nguyễn Phúc Hiệp cầm đầu ở Đàng Trong.

[480] Tên một quái (quẻ) trong Kinh Dịch, nói về sự khó khăn bế tắc trong quá trình phát triển của sự vật.

[481] Tên một quẻ trong Kinh Dịch, nói về lợi hại trong việc hành quân.

[482] Đây chỉ bảy huyện ở phía nam sông Lam: Kỳ Hoa (tức Kỳ Anh), Thạch Hà, Thiên Lộc (tức Can Lộc), Nghi Xuân, La Sơn (tức Đức Thọ), Hương Sơn, Nam Đàn, nay đều thuộc tỉnh Hà Tĩnh.

Đốc chiến Chiêu Vũ xem xong thư bừng bừng nổi giận, không tiếc lời nhục mạ kẻ sất phu dùng lời lẽ quá quắt. Rồi đó Chiêu Vũ đem bức thư đến trưng phủ của tiết chế Thuận Nghĩa gọi họp các tướng cùng xem xét. Bấy giờ bọn các tướng Phù Dương, Đại Thắng, Vân Long, Hùng Uy đều hết sức tức giận, ai nấy vùng dậy vén áo xắn tay trỏ về phía Bắc, không ngớt xỉ mắng bọn quan quân họ Trịnh. Tiết chế Thuận Nghĩa xuống lệnh cho quân tiến đánh để bắt quận Phú đền tội.

Đốc chiến Chiêu Vũ nói:

- Chưa nên đánh vội. Bọn chúng dùng văn từ phúc đáp thì ta cũng lấy thư trát trả lời, để bọn chúng khỏi chê cười Nam triều ta ít hiểu biết văn ương nghĩa lí, chỉ quen cậy vũ dũng hơn thua.

Tiết chế Thuận Nghĩa cho là phải, bèn cùng nhau dùng tên của cai cơ Hùng Uy viết thư phúc đáp. Đến ngày tám tháng tư cho buộc thư vào đuôi tên lửa, bắn vào trong lũy Đồng Hôn. Quân Trịnh nhặt thư trình lên Phú quận công Trịnh Căn[483]. Đến ngày mười bốn, tiết chế Thuận Nghĩa và đốc chiến Chiêu Vũ lại sai lấy danh nghĩa của cai cơ Hùng. Uy viết thư bắn vào trong lũy Đồng Hôn. Thư viết:

“Đại tướng Nam triều là chưởng cơ Hùng Uy hầu đáp thư cho bọn ngu Quảng đều nên nghe biết:

Từng nghe: Lời nói đúng thì có thể làm thành luật pháp, việc làm đúng thì có thể làm thành quy tắc. Không như thế thì không thể coi là chuẩn mực được. Nay bọn quận Quảng các người chỉ tu sức lời nói để che giấu lỗi lầm, phô tốt đẹp để che tì vết. Đều là lời nói rỗng tuếch, không đáng bàn đến. Ta hãy tạm nói vài lời đã đáp lại.