Bức thư tình cuối - Phần II - Chương 15 - Phần 2

Moria Parker kéo khóa túi xách lại. “Cô muốn làm gì với đống giấy tờ này thì làm. Ông ta có bị treo cổ tôi cũng không quan tâm.”

Cô vẫn chưa hết bàng hoàng khi bước trở lại phía khu trò chơi. Jennifer thả phịch người trên ghế, tảng lờ hai đứa trẻ đang rất thích thú lấy cát chà lên tóc của nhau. Cô đọc lại bức thư lần nữa.

Cô đưa Dorothi Moncrieff về nhà và nhờ bà Cordoza đưa Esme tới tiệm kẹo ngọt. “Mua cho con bé một cái kẹo que hoặc một phần tư kí kẹo mật.” Cô đứng trên cửa sổ nhìn xuống đường, nghe tiếng bước chân của con bé đầy hào hứng trên đường. Đợi cho cả hai đi khuất, cô mở cửa phòng làm việc của Laurence, nơi cô rất hiếm khi bước vào, nơi Esme bị cấm không được bén mảng tới, ông sợ những ngón tay nhỏ bé của nó có thể làm hư những đồ vật quý giá ở đây.

Cô cũng không biết vì sao cô lại vào đây. Cô luôn ghét căn phòng này: những giá sách màu gụ tối tăm, chất chật kín những cuốn sách ông chưa bao giờ đụng tới, mùi xì gà vẫn còn luẩn quẩn trong phòng, cúp lưu niệm và bằng chứng nhận thành tích cô chẳng thể nhận ra như - Doanh nhân Thành đạt của Năm, Xạ thủ Xuất sắc nhất, Thợ săn Hươu vùng Cowbridge 1959, Tay gôn Xuất sắc 1962. Ông ít khi dùng tới căn phòng này: đó chỉ là một nơi để trưng bày, một nơi các ông khách nam có thể tới trú ẩn mỗi khi muốn “trốn thoạt” khỏi người đàn bà của họ, một nơi ẩn náu mỗi khi ông muốn tìm sự bình yên.

Hai chiếc ghế bành to để hai bên lò sưởi, chỗ ngồi của nó hiếm khi lõm xuống. Tám năm rồi lò sưởi này chưa hề nổi lửa. Ở chiếc tủ cạnh đó, những chiếc cốc vại bằng kính hoa văn chưa bao giờ được rót whisky từ bình rượu để cạnh. Các bức tường được trang trí bằng những tấm ảnh chụp Laurence bắt tay với các doanh nhân khác, những nhà chức sắc quyền cao, Bộ trưởng Thương mại Nam Phi, Công tước xứ Edinburgh. Đó là nơi để mọi người chiêm ngưỡng, và cũng là để những người đàn ông hâm mộ ông. Laurence Stirling, một kẻ may mắn.

Jennifer đứng ngay ở khung cửa, cạnh bộ chơi gôn đắt tiền. Ngực cô quặn thắt như có viên đá to và cứng chặn lại, ngay chỗ khí quản nơi không khí có thể lưu thông qua để tới lồng ngực. Cô thấy mình không thể thở. Cô nhặt một chiếc gậy đánh gôn và bước vào giữa phòng. Một âm thanh khẽ thoát ra từ cổ họng cô, như tiếng thở hắt của một người mới chạy xong một quãng đường dài. Cô vung gậy qua đầu, hệt như một cú đánh hoàn hảo, và dùng hết sức lực đập vào bình rượu. Các mảnh vỡ bắn tung tóe khắp phòng, rồi cô lại vung gậy lên, tiếp tục đánh vào tường, vào các bức hình treo trên đó, những chiếc cúp vỡ tan khỏi đế. Cô đập những cuốn sách bọc da, những chiếc gạt tàn thuốc lá bằng thủy tinh dày cộp. Cô đập một cách giận dữ nhưng có hệ thống, cơ thể mảnh khảnh của cô run lên vì tức giận, cơn tức giận ngày càng lớn khi cô đập phá.

Cô phá nát những cuốn sách đang để trên giá, khung ảnh rơi loảng xoảng xuống dưới nền. Cô hạ gậy chơi gôn xuống như đang cầm một chiếc rìu, đập vỡ vụn chiếc bàn kiểu Georgia. Cô vung tới mức tay cô như gẫy đôi, cơ thể cô ướt đẫm mồ hôi, cô thở gấp gáp, dồn dập. Cuối cùng, khi không còn gì để đập nữa, cô đứng giữa phòng, giày cô nghiến lên những mảnh thủy tinh vỡ. Cô gạt một vài sợi tóc vương trước trán khi cô nhìn lại những gì mình vừa làm. Bà Stirling dễ thương, bà Stirling hiền hòa. Điềm đạm, đoan trang. Ngọn lửa trong cô đã tắt.

Jennifer Stirling buông chiếc gậy đã bị cong ngay dưới chân. Rồi cô lau tay vào váy, nhặt một mảnh thủy tinh vỡ và để lại ngay ngắn trên sàn. Cô rời phòng, đóng cửa lại.

Bà Cordoza đang ngồi ở trong phòng bếp cùng Esme. Jennifer thông báo ngắn gọn là họ sẽ ra ngoài lần nữa. “Con bé không uống trà sao? Nó sẽ rất đói.”

“Con không muốn đi nữa,” Esme phụ họa theo.

“Chúng ta đi sẽ không lâu đâu, con yêu,” cô nói một cách bình tĩnh. “Bà Cordoza, bà có thể nghỉ sớm chiều nay.”

“Nhưng tôi -”

“Tôi nói nghiêm túc. Như thế là tốt nhất.”

Cô bế con gái lên, xách theo chiếc va li cô vừa gói ghém và bọc kẹo trong túi giấy màu nâu, tảng lờ bà giúp việc đang vô cùng bối rối. Cô đã nhanh chóng ở ngoài đường và vẫy được một chiếc taxi.

Cô nhìn thấy ông khi vừa bước qua cánh cửa lớn vào sảnh tòa nhà văn phòng của ông. Ông đứng ở ngay cửa phòng, trao đổi gì đó với một cô gái trẻ đang ngồi ở bàn làm việc của ông. Cô nghe thấy ai đó chào mình, nghe thấy tiếng mình chào lại và hơi ngạc nhiên là cô vẫn còn đủ tỉnh táo để làm những việc chào hỏi rất đơn giản này.

“Bé gái lớn quá rồi!”

Jennifer nhìn con gái đang mải mê nghịch chuỗi hạt đeo ở tay và nhìn sang cô gái vừa chào cô. “Sandra phải không nhỉ?” cô hỏi.

“Dạ, thưa bà Stirling.”

“Làm ơn cho Esme lại chỗ cô ngồi nghịch máy đánh chữ trong lúc tôi nói chuyện với chồng tôi.”

Esme vui mừng vì được nghịch máy đánh chữ, vây quanh con bé là các cô nàng thư kí thích thú vì có cơ hội không phải làm việc một cách chính đáng. Jennifer vuốt tóc cho ngay ngắn và bước vào phòng làm việc của chồng. Cô đi về phía khu vực thư kí nơi chồng cô đang đứng.

“Jennifer.” Ông nhướn mày ngạc nhiên. “Anh không nghĩ em tới đây.”

“Nói chuyện một chút được không?” cô hỏi.

“Anh phải đi có việc lúc 5 giờ.”

“Sẽ không lâu đâu.”

Ông dẫn cô về chỗ ngồi của ông và chỉ về cái ghế ông muốn cô ngồi. Không hài lòng khi thấy cô từ chối ngồi, ông thả phịch người xuống chiếc ghế da của ông. “Có chuyện gì vậy?”

“Tôi đã làm gì để anh căm thù tôi đến vậy?”

“Gì cơ?”

“Tôi biết về những lá thư.”

“Lá thư nào cơ?”

“Lá thư anh đã chặn của tôi ngay tại bưu điện cách đây bốn năm.”

“Ồ, là lá thư đó,” ông nói một cách thô bạo. Ông mang cái vẻ mặt của một người vừa được ai đó nhắc nhở rằng ông để quên một món đồ tại cửa hàng bán rau củ.

“Anh biết, vậy mà anh vẫn luôn để tôi nghĩ rằng anh ấy đã chết. Anh khiến tôi nghĩ chính tôi là người chịu trách nhiệm.”

“Anh thực sự nghĩ có thể anh ta đã chết. Nhưng dù sao cũng là quá khứ rồi. Anh không nghĩ phải đào bới chuyện cũ lên làm gì.” Ông vươn người về phía trước và rút ra một điếu xì gà từ chiếc hộp bằng bạc để trên bàn.

Cô thoáng nghĩ tới chiếc gạt tàn bị đập nát trong thư phòng của ông ở nhà. “Vấn đề là, Laurence, anh đã trừng phạt tôi ngày này qua ngày khác, anh để tôi tự trừng phạt mình. Tôi đã làm gì anh để bị anh đối xử như vậy?”

Ông vứt que diêm vào chiếc gạt tàn. “Cô biết hơn ai hết những gì cô đã làm với tôi.”

“Ông nhồi nhét vào đầu tôi cái ý nghĩ chính tôi là người giết anh ấy.”

“Những gì cô đang nghĩ không liên quan gì tới tôi cả. Dù sao thì, như tôi nói, mọi chuyện đã qua rồi. Tôi thấy không có lí do gì để -”

“Chưa. Mọi chuyện chưa qua. Anh ấy đã quay lại.”

Cuối cùng cô cũng làm ông phải chú ý. Cô thoáng mơ hồ nhận ra nữ thư kí riêng của ông đang nghe lỏm ngoài cửa vì vậy cô hạ thấp giọng. “Đúng vậy. Và tôi sẽ chuyển đến sống với anh ấy. Tất nhiên cùng với cả Esme.”

“Đừng có cư xử kì cục như vậy.”

“Tôi không đùa đâu.”

“Jennifer, không một tòa án nào trên thế giới cho phép người mẹ ngoại tình được nuôi con mình - một người mẹ không thể sống nổi qua ngày nếu thiếu thuốc. Ông Hargreaves hoàn toàn có thể làm chứng là cô đã dùng bao nhiêu thuốc cho tới thời điểm này.”

“Chúng không còn nữa. Tôi đã vứt hết đi rồi.”

“Thật sao?” Ông nhìn đồng hồ. “Xin chúc mừng. Vậy là cô có thể đứng vững... suốt hai mươi tư tiếng đồng hồ mà không cần viên thuốc nào ư? Tôi tin chắc tòa án sẽ rất ngạc nhiên trước nỗ lực này của cô.” Ông phá lên cười, hài lòng vì sự phản pháo.

“Thế ông có nghĩ họ cũng sẽ rất ngạc nhiên khi đọc tập hồ sơ về bệnh lao phổi hay không?”

Cô nhận thấy quai hàm ông đột ngột bạnh ra và một thoáng choáng váng trên khuôn mặt.

“Cô bảo gì?”

“Bà thư kí cũ của ông đưa tôi. Tôi có tên của từng nhân viên làm việc cho ông bị ốm và chết trong vòng mười năm qua. Nó là bệnh gì vậy?” Cô cố ý đánh vần từng từ. “U-trung-biểu-mô”

Mặt ông biến sắc nhanh tới mức cô nghĩ ông sắp ngất xỉu tới nơi. Ông đứng dậy, bước ngang qua người cô về phía cửa. Ông mở nó ra rồi lại đóng lại cẩn thận. “Cô vừa nói gì?”

“Tôi có toàn bộ thông tin, Laurence. Tôi còn có cả biên lai chuyển tiền của ngân hàng chứng nhận số tiền ông đã trả cho họ.”

Ông mở mạnh ngăn kéo tủ và quờ tay lục lọi. Khi ông ngẩng đầu lên, toàn thân ông run lập cập. Ông bước lên một bước về phía cô, buộc cô phải nhìn vào mắt ông. “Nếu cô hại tôi, Jennifer, có nghĩa là cô hủy hoại cả cuộc đời cô.”

“Anh nghĩ tôi thực sự quan tâm tới điều đó ư?”

“Anh sẽ không bao giờ li dị em cả.”

“Tốt thôi,” cô nói, sự quyết tâm của cô càng được củng cố bởi nỗi lo lắng hiện rõ trên nét mặt ông. “Chúng ta thống nhất thế này. Esme và tôi sẽ kiếm một chỗ ở gần đó và anh vẫn có thể tới thăm con. Tôi và anh sẽ chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa. Hàng tháng anh sẽ đưa tôi một khoản tiền nhất định, đủ để tôi nuôi con. Bù lại tôi sẽ đảm bảo những tài liệu này sẽ không bao giờ lại thất thoát ra ngoài.”

“Cô đang tống tiền tôi đấy à?”

“Ồ, không, còn lâu tôi mới dám làm thế, Laurence, như anh đã nhắc tôi vô số lần trong những năm vừa rồi. Không, tôi chỉ muốn nói với anh về cuộc sống tương lai của mẹ con tôi. Anh có thể giữ lại bên mình nhân tình của anh, ngôi nhà, sự nghiệp và... danh tiếng của anh. Sẽ không một đồng nghiệp nào biết về những việc này. Và tôi cũng sẽ không bao giờ đặt chân lên ngôi nhà của anh một lần nào nữa.”

Ông hoàn toàn bất ngờ về việc cô biết về tình nhân của ông. Cô nhận ra sự giận dữ bất lực đan xen lẫn lo lắng trên khuôn mặt ông. Nhưng rất nhanh chóng chúng được che giấu bởi một nụ cười hòa hoãn. “Jennifer, anh biết em đang tức giận. Sự xuất hiện trở lại của người bạn cũ chắc hẳn khiến em rất sửng sốt. Vì sao chúng ta không về nhà và cùng ngồi lại nói chuyện?”

“Tôi đã gửi tập tài liệu cho một người. Nếu có chuyện gì tình cờ xảy ra với tôi, anh ta sẽ biết phải làm gì.”

Chưa bao giờ ông nhìn cô với ánh mắt căm thù như vậy. Tay cô nắm chặt quai túi.

“Cô là một con điếm,” ông nghiến răng.

“Với anh tôi đúng là như thế,” cô nói nhẹ nhàng. “Chắc chắn là như thế vì tôi ở bên anh mà không hề yêu anh.”

Có tiếng gõ cửa, cô thư kí mới của ông bước vào. Cái cách cô gái đưa mắt nhìn hai người càng khẳng định suy nghĩ của Jennifer và cho cô thêm can đảm. “Đó là tất cả những gì em cần nói với anh. Em đi đây, chào anh thân yêu,” cô nói và bước về phía ông, hôn ông vào má. “Em sẽ liên lạc với anh. Tạm biệt, cô...” Cô dừng lại.

“Driscoll,” cô gái nói.

“Driscoll.” Cô cười mỉm. “Tất nhiên rồi.”

Cô bước qua trước mặt cô thư kí, đi ra đón con gái, tim cô vẫn còn đập giận dữ. Cô mở cửa chính, thoáng nghe tiếng chồng cô đuổi theo đằng sau và tiếng bước chân ông ngay sau cô. Cô nhanh chóng bước xuống hai dãy đầu thang và bắt một chiếc taxi.

“Chúng ta đi đâu nữa mẹ?” Esme hỏi khi được mẹ nhấc lên ngồi cạnh. Con bé cầm trong tay một đống kẹo, chiến lợi phẩm thu được từ các cô thư kí của bố.

Jennifer vươn người về phía trước, mở cánh cửa sổ nhỏ và hét to vào tai người tài xế át đi tiếng ồn ào của xe cộ. “Làm ơn tới Khách sạn Regent. Nhanh nhất có thể.”

Sau này nhớ lại quãng đường dài hai mươi phút đó, cô nhớ mình đã ngắm nhìn con đường tấp nập bên cạnh, nhìn những cửa hiệu được trang hoàng bắt mắt hai bên đường như thể một khách du lịch, một nhà báo nước ngoài lần đầu tiên tới thăm thành phố. Cô hiểu đây là một bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc đời cô. Cuộc đời của cô mà cô từng biết trước đây đã không còn nữa, cô muốn hát vang.

Đây là cách Jennifer Stirling nói lời chia tay với cuộc đời cũ, với những ngày tháng cô bước đi chính trên con đường này với những chiếc túi mua sắm chứa đầy thứ chẳng có ý nghĩa gì với cô. Mỗi lần tới khúc ngoặt này, gần đường Marylebone, là cô lại bị ám ảnh bởi sự ngột ngạt của cuộc sống tại cái ngôi nhà mà cô đang về gần tới nơi, đúng hơn đó không còn là nhà, đó chỉ là nơi cô hàng ngày phải sám hối vì tội lỗi mình gây ra.

Cái quảng trường tấp nập này thực sự là một điểm sáng bất ngờ so với căn nhà tẻ nhạt gần đó, nơi cô luôn phải thu mình sống một cuộc sống nội tâm, biết rằng cô chẳng thể chia sẻ với ai, chẳng thể làm gì mà không vấp phải sự chỉ trich từ người đàn ông mà cô đã đem lại đau khổ và cho rằng có quyền trừng phạt cô bằng một sự im lặng, sự coi thường một cách tàn nhẫn và một không khí luôn khiến cô cảm thấy vô cùng lạnh lẽo, ngay cả vào mùa hè.

Một đứa trẻ có thể cứu vãn cuộc sống tẻ nhạt đó, nhưng không thể kéo dài mãi. Có thể cái việc sắp làm đây sẽ khiến những người xung quanh nhìn cô bằng ánh mắt coi thường và ruồng bỏ, nhưng đó cũng là cách cô chỉ cho con gái rằng mình vẫn có thể sống một cuộc sống khác. Một cuộc sống nơi mình không phải tự ru ngủ mình. Một cuộc sống không phải để cả đời trả nợ như một lời xin lỗi.

Cô nhìn sang bên đường, nơi những cô gái bán hoa đang đứng chào hàng bên trong cửa sổ; những cô gái trước đây đã chuyển đi chỗ khác. Hi vọng các cô sẽ có một cuộc sống tốt hơn, cô nhủ thầm. Hi vọng các cô được giải thoát khỏi bất kể cái gì đã níu chân các cô ở đây. Mọi người đều xứng đáng hưởng những cơ hội như thế.

Esme vẫn đang nhai kẹo ngon lành và nhìn đường phố một cách thích thú. Jennifer vòng tay qua người con bé và kéo nó sát vào mình. Con bé lại bóc một cái kẹo nữa và bỏ vào miệng. “Mẹ, chúng ta đi đâu vậy?”

“Đến gặp một người bạn của mẹ, và sau đó sẽ là một cuộc phiêu lưu, con thân yêu ạ,” cô trả lời, đột nhiên thấy vô cùng phấn khích.

Cô không có gì cả, cô chợt nghĩ. Không có gì cả.

“Một cuộc phiêu lưu?”

“Đúng vậy. Một cuộc phiêu lưu lẽ ra phải tiến hành từ rất rất lâu trước đây.”

Bài viết trên trang bốn về những cuộc đàm phán phi quân sự có vẻ không đáng để làm bài chính của trang, Don Franklin nghĩ trong khi cấp phó của ông đang tìm một bài thay thế. Ông hi vọng vợ ông không cho quá nhiều hành sống vào bánh sandwich kẹp xúc xích gan vì nó luôn khiến ông bị đau bụng. “Nếu chúng ta chuyển mẫu quảng cáo kem đánh răng này về một phía thì chúng ta có thể cho toàn bộ bài viết về những linh mục nhảy múa vào đây, anh nghĩ sao?” cấp phó của ông gợi ý.

“Tôi ghét câu chuyện đó.”

“Thế bài viết phê bình sân khấu thì sao?”

“Đã đặt vào trang mười tám rồi.”

Franklin ngẩng đầu lên khi thấy một phụ nữ vội vàng bước vào tòa soạn. Cô mặc một chiếc áo choàng đi mưa ngắn màu đen, tay dắt đứa trẻ tóc vàng. Thấy một đứa trẻ trong tòa soạn báo khiến Don cảm thấy không thoải mái, giống như khi thấy một người lính trong váy lót đàn bà. Có cái gì đó không hợp lí. Người đàn bà dừng lại hỏi Cheryl một cái gì đó, Cheryl chỉ cô về hướng của ông.

Đầu bút chì bị ngậm nát trong góc miệng ông khi cô gái đi về phía ông. “Xin lỗi đã làm phiền, nhưng tôi cần nói chuyện với Anthony O’Hare,” cô nói.

“Cô là?”

“Jennifer Stirling. Tôi là bạn của anh ấy. Tôi vừa tới khách sạn nơi anh ấy ở, nhưng họ bảo anh ấy đã trả phòng,” mắt cô lộ vẻ lo lắng.

“Có phải cô là người chuyển cho anh ấy tờ tin nhắn cách đây mấy ngày không,” Cheryl nhớ lại.

“Đúng vậy. Là tôi.”

Ông để ý thấy Cheryl nhìn cô từ đầu xuống chân. Đứa trẻ cầm trong tay chiếc kẹo mút dở và làm rớt một vệt đường lên tay áo mẹ nó. “Cậu ta đã đi Châu Phi rồi,” ông trả lời.

“Gì cơ?”

“Đi Châu Phi rồi.”

Cô đứng sững người, đứa bé cũng vậy.” Không.” Giọng cô vỡ vụn. “Điều đó là không thể. Anh ấy vẫn chưa quyết định là có nên đi hay không.”

Don rút chiếc bút chì ra khỏi miệng và nhún vai. “Tin tức không thể chờ một ai. Cậu ấy đã rời đây ngày hôm qua, trên chuyến bay đầu tiên. Cậu ấy sẽ liên tục di chuyển trong những ngày tới.”

“Nhưng tôi cần nói chuyện với anh ấy.”

“Không thể liên lạc với cậu ta.” Ông có thể thấy cách Cheryl đang nhìn ông. Hai cô thư kí khác cũng đang thì thầm to nhỏ.

Người đàn bà đứng trước mặt ông mặt tái sạm. “Chắc chắn phải có cách nào liên lạc với anh ấy chứ. Anh ấy không thể đi đâu lâu được.”

“Cậu ta có thể ở bất kì đâu. Đó là nước Congo mà. Họ không có đường dây điện thoại. Cậu ấy sẽ gửi điện tín về lúc nào có thể.”

“Congo? Vì cái quái quỷ gì mà anh ấy phải đi sớm vậy?” Giọng cô lạc đi.

“Làm sao tôi biết được?” Ông nhìn thẳng vào cô. “Có thể cậu ta muốn giải thoát khỏi thành phố này.” Ông nhận thấy Cheryl vẫn tiếp tục lảng vảng quanh chỗ họ nói chuyện, giả vờ sửa soạn một chồng tài liệu cạnh đó.

Người đàn bà dường như không thể suy nghĩ được gì nữa. Cô đưa tay lên che mặt. Trong một giây phút đau khổ, ông nghĩ có thể cô ta sắp khóc. Nếu như còn một điều tồi tệ hơn việc có một đứa trẻ ở trong tòa soạn thì đó chính là việc có một người phụ nữ khóc bên cạnh đứa trẻ.

Cô thở thật sâu để tự trấn an mình. “Nếu anh tình cờ nói chuyện với anh ấy, làm ơn nhắn anh ấy gọi điện cho tôi, được không ạ?” Cô đưa tay vào túi lấy ra một tập tài liệu, vài chiếc phong bì sờn góc, cô do dự một lúc rồi đẩy chúng vào sâu bên trong chiếc bàn. “Làm ơn đưa cho anh ấy cái này luôn. Anh ấy sẽ biết nó là cái gì.” Cô xé một tờ giấy trắng từ quyển sổ ghi nhớ của cô, viết lên trên đó vài lời nhắn rồi để nó vào trong tập tài liệu. Cô để lại tập tài liệu trên bàn trước mặt ông.

“Tất nhiên rồi.”

Cô nắm chặt cánh tay ông. Trên ngón tay cô lấp lánh chiếc nhẫn có viên kim cương kích thước bằng viên kim cương Koh-i-noor nổi tiếng. “Ông hứa là sẽ đưa nó cho anh ấy nhé? Đó là tài liệu quan trọng. Cực kì quan trọng.”

“Tôi hiểu. Giờ, mong cô thông cảm, tôi phải tiếp tục công việc. Đây là thời điểm bận rộn nhất trong ngày. Chúng tôi phải chạy đua với tiến độ.” Cô lúng túng. “Ồ, tất nhiên, xin lỗi. Xin ông nhớ đưa cho anh ấy hộ tôi.”

Don gật đầu.

Cô chần chừ, mắt vẫn không rời ông, như thể muốn đảm bảo với bản thân rằng ông hiểu những gì cô vừa nói. Rồi, sau khi liếc một vòng quanh chỗ cô đứng, để chắc chắn anh không trốn cô ở một góc nào đó, cô cầm tay con gái. “Xin lỗi đã làm phiền ông.”

Cô trông nhỏ bé hơn so với lúc cô vừa bước vào, cô chầm chậm bước ra ngoài, như thể cô không biết mình sẽ đi đâu tiếp nữa. Một vài nhân viên đang vây quanh bàn phó ban biên tập nhìn theo cô.

“Congo,” Cheryl nói, sau một tiếng gõ.

“Tôi cần làm cho xong trang bốn.” Don nhìn chằm chằm xuống bàn. “Hãy dừng bài viết về những thầy tu nhảy múa.”

Phải tới ba tuần sau đó mới có một người ngó ngàng tới bàn làm việc của phó ban biên tập khi thấy cái bàn khá bừa bộn. Trong đống lộn xộn các bản in chữ và giấy than là một tập tài liệu sờn cũ.

“B là ai vậy?” Dora, nữ thư kí tập sự, mở tờ tin nhắn. “Có phải tài liệu gởi cho Bentinck không? Chẳng phải anh ta đã đi cách đây hai tháng rồi?”

Cheryl, đang tranh cãi chi phí đi lại với ai đó trên điện thoại, nhún vai và không hề quay lại. Cô nàng bịt một đầu điện thoại càu nhàu. “Nếu cô không biết tài liệu đó của ai, hãy mang cất vào thư viện. Tôi làm như thế với bất cứ tài liệu nào mà tôi không biết của ai. Don sẽ không có lí do gì để la cô cả.” Cô dừng lại một lúc. “Thực ra, ông ấy vẫn có thể la. Nhưng ít nhất không phải vì cái tội lưu sai chỗ.”

Cặp tài liệu được vứt lên chiếc xe đẩy chuyên dành cho đồ lưu kho, trong đó có mấy bản lưu cũ của tờ Who”s Who và sẽ được chuyển xuống kho chứa tài liệu nằm sâu dưới tòa nhà.

Nó sẽ còn nằm ở đó trong gần như bốn mươi năm nữa.