Bức thư tình cuối - Phần II - Chương 15 - Phần 1

Chương 15

Moria Parker bước về phía phòng đánh máy và tắt chiếc đài bán dẫn được đặt chông chênh trên chồng danh bạ điện thoại.

“Hey!” Annie Jessop phản đối. “Em đang nghe mà.”

“Không nên nghe nhạc trẻ to như vậy trong văn phòng,” Moria kiên quyết. “Ngài Stirling không muốn bị phân tán bởi những tiếng nhạc đinh tai đó. Đây là nơi làm việc.” Đây là lần thứ tư trong tuần việc này diễn ra.

“Chẳng khác gì trong một đám ma. Thôi nào, Moria. Vậy thì bật nhỏ vậy. Nó giúp một ngày làm việc trôi qua nhanh hơn.”

“Làm việc chăm chỉ sẽ giúp một ngày trôi qua nhanh.”

Bà nghe tiếng cười khúc khích chế giễu và bà hất cao cằm. “Rồi dần dần cô sẽ biết để tiến xa được ở công ty Acme Mineral and Mining cần một thái độ làm việc chuyên nghiệp.”

“Và một chiếc quần rộng thùng thình co giãn được,” có tiếng thì thầm sau lưng bà.

“Xin lỗi ai vừa nói gì nhỉ?”

“Không có gì, bà Parker. Vậy chúng ta chuyển sang kênh Những bài hát hay thời chiến? Nó có làm bà hài lòng hơn không? ‘Chúng ta chuẩn bị phơi đồ trên Chiến tuyến Sieried...’” Một tràng cười khác vọng lại.

“Tôi sẽ để chiếc đài này vào phòng Ngài Stirling. Nếu muốn cô có thể hỏi ông ấy thích nghe gì hơn.”

Bà nghe thấy những lời càu nhàu không vừa ý khi bà tiếp tục đi ngang qua văn phòng và bà tảng lờ như không nghe thấy gì. Công ty càng lớn thì những chuẩn mực áp đặt cho nhân viên càng bị phớt lờ nhiều hơn. Thời nay không ai còn tôn trọng cấp trên của họ, coi trọng đạo đức nghề nghiệp và những gì ông Stirling đã đạt được. Đôi khi có cảm giác như chỉ có bà, ông Stirling - và có thể bà Kingston làm ở phòng Kế toán - là biết cách ứng xử.

Còn quần áo! Những bình hoa di động như họ tự gọi mình, thật không có cách gọi nào phù hợp hơn. Chải chuốt và làm dáng, vô công rồi nghề và trẻ con, những cô nàng đánh máy dành cả ngày để nghĩ về việc họ trông như thế nào, về những chiếc váy ngắn cũn cỡn, những bộ đánh mắt kì dị, mà chẳng nghĩ gì về những tài liệu họ chuẩn bị đánh. Chiều qua bà đã phải trả lại tới ba văn bản. Đánh máy cẩu thả, sai chính tả, quên dòng ngày tháng năm, thậm chí ở chỗ bà đã viết rõ là “Trân trọng” thì họ đánh thành “Thân mến”. Khi bà chỉ những lỗi này cho Sandra, cô ta chỉ nhìn lên trần nhà và không cần quan tâm bà đang nhìn cô ta.

Moria thở dài, cầm chiếc đài trên tay và thoáng nhớ rằng văn phòng ông Stirling hiếm khi đóng cửa vào giờ ăn trưa, bà đẩy cửa bước vào.

Marie Driscoll đang ngồi trước mặt ông - không phải trên chiếc ghế bà vẫn hay ngồi khi bà cần gặp ông mà là ngay trên bàn ông. Một hình ảnh khiến bà sửng sốt tới mức bà phải mất mấy giây để nhận ra ông đột ngột bước lùi lại khi thấy bà bước vào.

“A, Moria.”

“Xin lỗi ông Stirling. Tôi không biết còn có người nữa trong phòng.” Bà phóng một cái nhìn sắc lạnh về phía cô gái. Cô ta nghĩ cô ta là cái quái quỷ gì ở đây vậy? Tất cả mọi người đều đang phát rồ hay sao? “Tôi - tôi cầm theo chiếc đài này. Các cô gái đã bật nó quá to trong văn phòng. Tôi nghĩ nếu ông yêu cầu họ giải thích, chắc họ sẽ phải suy nghĩ cẩn thận hơn khi bật nó lên.”

“Tôi hiểu.” Ông ngồi xuống.

“Tôi lo nó sẽ làm ông bị phân tán.”

Một sự im lặng kéo dài. Marie dường như không có ý định rời đi, cô ta mải mê vân vê một cái gì đó trên váy. Moria đợi cô ta bước ra.

Ông Stirling cắt lời. “Bà tới thật đúng lúc. Tôi có một chút việc riêng muốn trao đổi với bà. Cô Driscoll, cho tôi vài phút được không?”

Hơi một chút lưỡng lự, cô gái tụt xuống khỏi bàn và lướt qua trước mặt Moria, thậm chí còn nhìn lại bà khi đi ngang qua. Cô ta xức quá nhiều nước hoa, Moria nghĩ. Cửa đóng sau lưng họ, và chỉ còn lại hai người. Bà thích như thế.

Ông Stirling đã làm tình với bà thêm hai lần nữa kể từ lần đầu tiên mấy tháng trước. Có lẽ nói “làm tình” thì hơi quá: vì cả hai trường hợp ông đều ở trong tình trạng say khướt và ông quan hệ như một thói quen chứ không phải như lần đầu tiên, và đến ngày hôm sau thì ông chẳng còn nhớ gì về nó.

Mặc dù bà luôn tìm cách để ông biết rằng ông không hề bị bà khước từ - những chiếc bánh sandwich bà để trên bàn ông, cách bà chải tóc thật điệu đà - nhưng ông đã không làm thêm lần nào nữa. Mặc dù vậy, bà biết bà là người đặc biệt đối với ông, là người nắm giữ những bí mật riêng tư trong khi những người khác trong văn phòng bàn tán về ông trong căn-tin. Bà hiểu những căng thẳng mà một cuộc tình vụng trộm có thể gây ra cho ông, và ngay cả khi bà mong muốn mọi chuyện khác đi, bà vẫn rất tôn trọng sự tự kiềm chế đáng ngưỡng mộ ở ông. Một vài lần hiếm hoi, Jennifer Stirling có tạt qua văn phòng, tuy nhiên bà không còn cảm thấy bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp quyến rũ ấy nữa. Nếu cô là một người vợ tử tế, chắc chắn ông ấy đã không bao giờ phải quay sang tôi. Bà Stirling chắc chắn không bao giờ có thể biết những gì đang xảy ra trước mắt cô.

“Ngồi xuống đi, Moria.”

Bà lựa chọn tư thế ngồi đúng đắn hơn cô nàng Driscoll rất nhiều, hai chân bà cẩn thận khép chặt, bà bỗng thấy ân hận vì đã không diện chiếc váy đỏ. Ông đã rất thích chiếc váy đó, một vài lần ông nói với bà như vậy. Bà nghe một tràng cười to từ phía ngoài phòng ông vọng lại và tự hỏi không lẽ mấy cô nàng đó lại có một cái đài khác. “Tôi sẽ bảo những cô gái đó biết cách cư xử hơn,” bà nói khẽ. “Tôi chắc họ khiến ông rất phiền lòng.”

Có vẻ như ông không nghe thấy bà nói gì. Ông dọn dẹp đống giấy tờ trên bàn. Khi nhìn lên ông như muốn tránh không nhìn thẳng vào bà.

“Tôi sẽ thuyên chuyển Marie, có hiệu lực ngay từ bây giờ -”

“Ồ, tôi nghĩ ông đã thật sáng suốt khi -”

“- về làm trợ lí riêng cho tôi.”

Cả hai rơi vào im lặng. Moria cố không thể hiện cảm xúc. Đúng là gần đây công việc nhiều hơn, bà tự nhủ. Cũng dễ hiểu nếu ông muốn có thêm một người nữa. “Nhưng cô ta sẽ ngồi đâu?” bà hỏi. “Khu vực đó chỉ đủ kê một cái bàn.”

“Tôi biết.”

“Tôi nghĩ ông có thể để Maisie ngồi ở -”

“Điều đó không cần thiết. Tôi đã quyết định sẽ giảm bớt việc cho bà. Bà sẽ... chuyển tới ngồi ở khu vực đánh máy chung với những người khác.”

Bà không hiểu ông nói gì. “Khu vực đánh máy?”

“Tôi đã bảo bộ phận Kế toán là bà sẽ được giữ nguyên mức lương cũ vì vậy việc thuyên chuyển này sẽ có lợi hơn cho bà, Moria. Bà sẽ có nhiều thời gian hơn cho bản thân và cho cuộc sống bên ngoài văn phòng.”

“Nhưng tôi không cần thời gian cho bản thân.”

“Bà đừng nghiêm trọng hóa vấn đề. Tôi đã nói bà sẽ được giữ nguyên mức lương cũ, và bà vẫn sẽ là nhân viên kì cựu nhất ở đây. Tôi sẽ nói rõ với tất cả mọi người ở đây về điều đó. Bà cũng có nói là những cô gái ngồi ở đó cần một người quản lí.”

“Nhưng tôi không hiểu...” Bà đứng dậy, khớp ngón tay trắng xanh vì giữ chiếc đài bán dẫn. Một nỗi hoảng sợ đè lên ngực bà. “Tôi đã làm gì sai? Vì sao ông lại không để tôi làm công việc bao năm tôi đã quen làm?”

Ông có vẻ giận dữ. “Bà không làm gì sai cả. Bất kì tổ chức nào cũng sẽ thỉnh thoảng thay đổi vị trí nhân sự của họ. Thời thế đang thay đổi và tôi muốn làm tươi mới đội ngũ.”

“Làm tươi mới?”

“Marie hoàn toàn có thể làm điều đó.”

“Marie Driscoll sẽ đảm nhiệm công việc của tôi? Nhưng cô ta không biết một chút gì về công việc văn phòng. Cô ta không biết gì về hệ thống lương kiểu Rhodesia, về danh bạ điện thoại, và cũng không biết cách đặt vé máy bay. Cô ta không biết sắp xếp tài liệu. Một nửa thời gian cô ta vào phòng vệ sinh để trang điểm. Và cô ta còn chuyên đi muộn! Lúc nào cũng đi muộn! Tuần này đã hai lần tôi phải cảnh cáo cô ta vì đi muộn. Đã bao giờ ông kiểm tra giờ giấc đi làm qua hệ thống vân tay chưa?” Những từ ngữ vội vã bật ra từ miệng bà.

“Tôi tin cô ấy có thể học. Đó chỉ là những công việc thư kí, bà Moria.”

“Nhưng -”

“Tôi thực sự không có thời gian để tranh cãi về vấn đề này. Làm ơn chuyển vật dụng của bà ra khỏi ngăn tủ trong chiều nay, để ngày mai chúng ta có thể bắt đầu một ngày mới hoàn toàn.”

Ông cho tay vào hộp đựng xì gà, báo hiệu cuộc nói chuyện đã kết thúc. Moria đứng dậy, chống tay lên cạnh bàn để giữ thăng bằng. Cơn giận đã lên tới tận cổ, thậm chí có thể thấy rõ mạch máu đập mạnh hai bên tai. Có cảm giác như cả văn phòng này đang đổ sập lên bà, từng viên gạch một.

Ông ngậm điếu xì gà lên miệng và bà có thể nghe rõ tiếng ông dùng dao cắt phần đầu mũi xì gà.

Bà bước từ từ về phía cửa và ngay khi bà mở cửa ra, tiếng trò chuyện bên ngoài đột ngột im bặt và bà hiểu tất cả mọi người trong văn phòng đã biết về điều này trước khi bà được biết.

Mắt bà bắt gặp cặp chân của Marie Driscoll duỗi thẳng dưới gầm bàn của bà. Cặp chân dài khẳng khiu trong đôi tất với màu sắc kì lạ. Làm sao trên đời này có người lại có thể đi một đôi tất chân màu xanh hải quân tới công ty và coi đó là việc bình thường?

Bà vơ vội chiếc túi để trên bàn và đi về phía khu vực các cô nàng đánh máy, cảm nhận rõ những cái nhìn soi mói tò mò và những nụ cười mãn nguyện hơn là cảm thông phóng theo chiếc áo len xanh của bà.

“Moria! Họ đang chơi bản nhạc chị thích này! “Không Thể Quen Với Việc Đã Đánh Mất Anh”...”

“Ồ, đừng có ích kỉ như thế, Sandra.” Một tràng cười khác phụ họa và cánh cửa phòng thay đồ đóng sập sau lưng bà.

Jennifer đứng giữa khu vườn vui chơi lạnh lẽo, dõi theo những người trông giữ trẻ đang tán chuyện bên những chiếc xe đẩy trẻ nhỏ, nghe tiếng la hét của bọn nhỏ đang chạy đuổi và ngã dúi vào nhau như những con ki của trò bowling.

Bà Cordoza ngỏ ý mang theo Esme, nhưng Jennifer nói với bà cô muốn hít thở không khí ngoài trời. Bốn tám tiếng vừa rồi cô không biết phải làm gì, cơ thể cô vẫn còn vương vấn với những động chạm của anh, đầu óc cô quay cuồng với những gì vừa xảy ra. Cô có thể cảm nhận sự mất mát lớn lao. Cô không thể dùng những viên Valium để ru mình chìm đắm trong nỗi đau: cô phải chấp nhận nó. Con gái cô nhắc cô rằng cô đã làm điều đúng đắn. Cô vẫn còn muốn tâm sự với anh thêm nữa. Ngay cả khi cô tự nhủ cô tới gặp anh không phải để cám dỗ anh, cô biết mình đang nói dối. Cô muốn lưu lại dù chỉ một chút gì đó của anh, một kỉ niệm đẹp đáng nhớ để cô có thể mang theo mình. Làm sao cô biết trước là cô sẽ mở chiếc hộp Pandora kì bí như trong thần thoại Hi Lạp. Tệ hơn, làm sao cô tưởng tượng nổi việc mở chiếc hộp đó lại khiến anh đau lòng như vậy?

Tối hôm đó tại bữa tiệc của đại sứ quán, anh trông rất tuyệt vời. Anh không bị ảnh hưởng nhiều như cô đã bị ảnh hưởng; anh không phải trải qua cái cảm giác như cô đã từng trải qua. Anh mạnh mẽ hơn cô nghĩ. Nhưng giờ cô không thể ngừng nghĩ về anh, về sự tổn thương của anh, về tương lai tươi đẹp anh vẽ ra cho hai người. Và cái cách anh nhìn theo cô khi cô đi từ sảnh khách sạn về phía đứa bé. Cô nghe tiếng gọi của anh, thống thiết và đau khổ, vọng dọc theo hành lang sau lưng cô: Đừng làm thế, Jennifer! Anh không thể chờ đợi em thêm bốn năm nữa!

Hãy tha thứ cho em, cô nói với anh trong im lặng, mỗi ngày hàng ngàn lần. Laurence sẽ không bao giờ để em mang con bé theo. Và anh không thể đề nghị em rời bỏ con bé. Anh, hơn ai hết, phải hiểu điều đó.

Thỉnh thoảng cô lấy tay dụi khóe mắt khi những cơn gió lạ bằng cách nào đó đã thổi cát vào mặt cô. Cô thấy lạnh, rất nhạy cảm với những thay đổi nhỏ nhất của thời tiết.

Laurence không phải là một người đàn ông tồi, cô tự nhủ không biết bao nhiêu lần. Ông là một người cha tốt, theo cách của ông. Nếu ông thấy không thể đối xử tử tế hơn với Jennifer, thì cũng không thể trách ông. Có mấy người có thề tha thứ cho vợ mình khi cô ta yêu người khác? Đôi khi cô tự hỏi nếu cô không có bầu nhanh như thế, liệu ông có chán cô và bỏ cô không. Nhưng cô không tin điều ấy: Laurence có thể không còn yêu cô nữa, nhưng ông không thể thỏa hiệp với ý nghĩ cô sẽ tồn tại ở đâu đó không có ông bên cạnh.

Và con bé là niềm an ủi duy nhất. Cô đẩy con gái trên chiếc xích đu, nhìn đôi chân nhỏ xíu tung trên cao, những lọn tóc xoăn bay theo gió. Cô có quá nhiều mà một người phụ nữ có thể đòi hỏi. Như Anthony đã từng bảo cô, dù sao cũng được an ủi khi biết rằng cô đã làm những điều đúng đắn.

“Mẹ!”

Dorothi Moncrieff làm rớt chiếc mũ, dòng suy nghĩ của Jennifer bị gián đoạn khi phải tìm mũ cho cô bé. Hai cô bé cùng cô lục lọi bên chiếc xích đu, bên vòng xoay trò chơi, ngó xuống dưới ghế cho tới khi họ cùng phát hiện chiếc mũ đã ở trên đầu một đứa bé khác.

“Thật xấu khi lấy trộm mũ,” Dorothi nói một cách đau khổ khi họ bước trở về khu vườn trò chơi.

“Đúng vậy,” Jennifer nói, “nhưng cô nghĩ cậu bé đó không lấy trộm đâu. Chỉ là cậu không biết chiếc mũ đó là của cháu.”

“Nếu một người nào đó không biết làm thế nào là đúng, làm thế nào là sai, thì họ là một kẻ ngốc nghếch,” Dorothi nói dõng dạc.

“Ngốc nghếch,” Esme phụ họa theo, đầy hào hứng.

“Đúng vậy, cũng có thể,” Jennifer nói. Cô buộc lại khăn quàng cổ cho con gái và đẩy chúng trở lại khu trò chơi, lần này là vào khu nghịch cát, không quên dặn chúng không được tung cát vào mặt nhau.

Boot thân yêu, cô viết, một trong hàng ngàn bức thư tưởng tượng cô đã viết ttong hai ngày qua. Xin đừng giận em. Anh biết rằng nếu có bất kì cách nào trên thế giới có thể giúp em đi cùng anh, em chắc chắn sẽ đi...

Cô đã không gửi đi bức thư nào. Còn gì để nói nữa, những gì cần nói cô cũng đã nói rồi. Rồi một lúc nào đó anh sẽ tha thứ cho cô, cô tự nhủ. Anh sẽ có một cuộc sống tốt.

Cô cố gắng không nghĩ tới những câu hỏi khác dành riêng cho cô: rồi cô sẽ sống ra sao? Làm sao cô có thể tiếp tục sống, sau khi cô biết những điều vừa rồi? Mắt cô lại đỏ hoe. Cô rút từ túi ra chiếc khăn mùi xoa và trộm lau khóe mắt, cô quay đi để không thu hút sự chú ý của mọi người. Có lẽ cô nên ghé bác sĩ. Chỉ cần một chút trợ giúp để cô sống qua những ngày tháng này.

Cô chợt để ý tới một người phụ nữ vận chiếc áo khoác bằng vải tuýt đang băng qua thảm cỏ xanh về phía khu trò chơi. Những sải chân của bà kiên quyết và đều đặn, mặc cho lớp cỏ khá lầy lội. Jennifer ngạc nhiên nhận ra đó chính là thư kí của chồng cô.

Moria Parker bước thẳng đến chỗ cô và đứng sát cô tới mức cô phải lùi lại một bước. “Bà Parker?”

Môi bà mím chặt, mắt mở to. “Người quản gia nói với tôi là cô ở đây. Tôi có thể trao đổi nhanh một chút với cô không?”

“Um... vâng. Tất nhiên.” Cô quay sang bọn trẻ. “Các con? Dottie? Esme? Mẹ ở đây nhé.”

Bọn trẻ nhìn lên rồi lại mải miết nghịch cát.

Họ đi thêm vài bước, về phía một góc khuất. Jennifer chọn chỗ đứng làm sao cô vẫn có thể nhìn thấy bọn trẻ. Cô đã hứa với người giữ trẻ nhà Moncrieff là cô sẽ đưa Dorothi về lúc bốn giờ, mà giờ đã là bốn giờ kém mười lăm rồi. Cô cố gắng nở nụ cười xã giao. “Có chuyện gì vậy, bà Parker?”

Moria thò tay vào chiếc túi to trầy xước và lấy ra một tập tài liệu dày.

“Cái này là cho cô,” bà nói một cách cộc cằn.

Jennifer cầm lấy. Cô mở ra và ngay lập tức phải lấy tay chặn tập tài liệu lại khi những cơn gió chỉ chực thổi tung chúng lên.

“Đừng để mất.” Đó là một mệnh lệnh.

“Tôi xin lỗi... tôi không hiểu. Đây là gì vậy?”

“Danh sách những người nhận tiền bồi thường.”

Thấy Jennifer vẫn chưa hiểu gì, Moria tiếp tục. “U trung biểu mô. Bệnh phổi. Đó là những công nhân nhận tiền bồi thường từ chồng cô vì ông muốn che giấu thực tế là làm việc cho ông có thể khiến họ ốm tới chết ở giai đoạn cuối đời.”

Jennifer đưa một tay lên đầu. “Gì cơ?”

“Chồng cô. Tên những người đã chết nằm ở cuối danh sách. Gia đình những người này phải kí vào một chứng từ cam kết sẽ không kiện tụng gì, bù lại họ được trợ cấp một số tiền.”

Jennifer cố hiểu người phụ nữ đối diện cô đang nói gì. “Chết? Không kiện tụng?”

“Ông ấy buộc họ phải xác nhận là ông không chịu trách nhiệm gì. Ông trả tiền cho họ để làm điều đó. Những người Nam Phi hầu như không được gì. Công nhân nhà máy ở đây đắt hơn ở đó.”

“Nhưng a-mi-ăng không gây hại gì. Chỉ là những người chuyên phá quấy ở New York tìm cách đổ lỗi cho ông. Laurence đã bảo tôi thế.”

Moria có vẻ không muốn nghe. Bà đưa tay chỉ dọc theo danh sách. “Họ được sắp xếp theo vần chữ cái. Cô có thể nói chuyện với những gia đình này, nếu cô muốn. Địa chỉ của họ ở ngay đầu danh sách. Ông ấy rất sợ nếu chuyện này bị báo chí phanh phui.”

“Đó chỉ là các nghiệp đoàn... Ông ấy bảo tôi...”

“Các công ty khác cũng gặp vấn đề tương tự. Tôi nghe được một vài cuộc hội thoại của ông với công ty Goodasbest ở Mỹ. Họ cùng tài trợ một cuộc nghiên cứu để chứng minh chất a-mi-ăng không gây hại gì tới sức khỏe.”

Bà nói nhanh tới mức đầu óc Jennifer quay cuồng. Cô liếc nhìn sang hai đứa trẻ, hai tay chúng bốc đầy cát ném vào nhau.

Moria đi thẳng vào vấn đề. “Cô biết là nếu những tài liệu này bị lộ ra ngoài, sự nghiệp và cuộc sống của chồng cô sẽ bị hủy hoại. Trước sau gì mọi người cũng biết, cô cũng biết đấy. Mọi việc sẽ phải như thế.”

Jennifer cầm tập tài liệu một cách cẩn trọng, như thể bản thân chúng cũng có thể gây ô nhiễm. “Vì sao bà lại đưa tôi những thứ này? Vì sao bà nghĩ tôi có thể làm một điều gì đó để gây hại cho chồng mình?”

Biểu hiện trên khuôn mặt của Moria Parker thay đổi và hơi một chút tội lỗi. Môi bà mím lại thành một đường đỏ mỏng. “Vì cái này.” Bà rút ra một mẩu giấy nhàu nát và dúi vào tay Jennifer. “Tôi có nó chỉ vài tuần sau khi cô gặp tai nạn. Những năm vừa rồi. Ông ấy không biết là tôi vẫn giữ nó.”

Jennifer mở tờ giấy, gió thổi giật trên tay cô. Cô nhận ra mẫu chữ viết tay này.

Anh đã thề sẽ không liên lạc với em nữa. Nhưng sáu tuần trôi qua rồi anh vẫn không cảm thấy khá hơn. Một cuộc sống không có em - cách xa em hàng dặm - quả là một cực hình. Thực tế của việc anh không còn bị ám ảnh bởi sự gần gũi với em, không còn bị ám ảnh bởi việc không thể đạt được điều anh muốn, lại chẳng giúp anh vui hơn. Nó khiến mọi việc còn tồi tệ hơn. Trước mặt anh là một tương lai trống rỗng và ảm đạm.

Anh không biết anh đang định nói gì nữa Jenny. Chỉ muốn em hiểu rằng nếu lúc nào đó em cảm thấy mình đã quyết định sai, cánh cửa này vẫn luôn rộng mở đón em.

Và nếu em nghĩ quyết định của mình là đúng đắn thì ít nhất anh cũng muốn em hiểu: rằng ở một nơi nào đó trên thế giới này luôn có một người yêu em, hiểu em quý giá, tốt bụng và thông minh đến nhường nào. Một người luôn yêu em, và cho dù chuyện gì xảy ra, cũng sẽ luôn yêu em.

Người yêu của em.

B

Jennifer vẫn không rời mắt khỏi bức thư khi máu dồn lên mặt cô. Cô nhìn ngày đề trên thư. Đúng gần bốn năm trước. Chỉ sau ngày xảy ra tai nạn một thời gian ngắn. “Có phải bà bảo Laurence biết bức thư này?”

Moria Parker nhìn xuống đất. “Ông ấy yêu cầu tôi làm thủ tục đóng hòm thư lại.”

“Ông ấy biết là Anthony vẫn còn sống?” Cô run rẩy.

“Tôi không biết chuyện đó.” Moria Parker dựng thẳng cổ áo. Bà cố nhìn tránh đi chỗ khác.

Một cục đá lạnh đè lên tim Jennifer. Cô cảm thấy toàn cơ thể căng cứng.