Đời nhẹ khôn kham - Phần III - Chương 2

3

Quyển từ điển ngắn những từ ngữ bị hiểu sai

ĐÀN BÀ

Làm đàn bà là định mệnh Sabina không có chọn lựa. Cái gì chúng ta không được chọn lựa chúng ta không thể xem đó là công trạng hay thất bại. Sabina tin tưởng cô phải chấp nhận thái độ đúng đắn về cái định mệnh cô không có chọn lựa đó. Với cô, phản kháng hay hãnh diện vì sinh ra làm đàn bà đều mang tính cách ngu xuẩn như nhau.

Trong lần gặp gỡ khi mới quen, Franz nói với cô, giọng nhấn mạnh hơi bất thường: “Sabina, em là một người đàn bà.” Cô không hiểu tại sao anh lại nhấn mạnh một sự kiện hiển nhiên đó với vẻ trang trọng của Kha Luân Bố khi nhìn thấy đất liền. Mãi về sau cô hiểu ra từ ngữ “đàn bà” khi được nhấn mạnh bất thường như thế, dưới mắt anh, không phải chỉ dùng để phân biệt hai phái tính con người; nó mang biểu tượng một giá trị. Không phải bất cứ đàn bà nào cũng được gọi là đàn bà.

Nhưng nếu dưới mắt Franz, Sabina được gọi là đàn bà thì Marie-Claude, vợ anh, là gì? Hơn hai mươi năm trước, sau vài tháng quen nhau, Marie-Claude dọa tự tử nếu Franz không chịu cưới cô. Franz như bị bỏ bùa vì lời đe dọa này. Anh không yêu thương Marie-Claude gì cho lắm, nhưng tình yêu của cô làm anh xúc động. Anh thấy mình chẳng đáng hưởng tình yêu cao cả như thế, anh cảm thấy thấp kém trước mặt cô.

Anh thấp kém đến độ anh lấy cô làm vợ. Và mặc dù cảm xúc cuồng nhiệt toát ra từ Marie-Claude khi cô dọa tự tử không bao giờ tái hiện, anh vẫn ghi giữ trong tim ấn tượng đó với ý nghĩ không bao giờ anh được quyền làm cô đau khổ và anh phải luôn luôn tôn trọng cái nữ tính trong người cô.

Đây quả là công thức đặc biệt. Không “tôn trọng Marie-Claude,” nhưng “tôn trọng cái nữ tình trong Marie-Claude.”

Nhưng nếu Marie-Claude chính thị là đàn bà, người đàn bà khác ẩn núp trong cô là ai? Người anh luôn luôn tôn trọng? Có lẽ một khuôn mẫu đàn bà theo lí tưởng Plato chăng?

Không đâu. Khuôn mẫu đó chính là bà mẹ Franz. Chưa bao giờ anh phải nói anh tôn trọng người đàn bà trong mẹ anh. Anh sùng bái mẹ anh chứ không phải người đàn bà nào khác trong đó. Mẹ anh và khuôn mẫu đàn bà theo lí tưởng Plato là một.

Năm anh mười hai tuổi, bà bỗng nhiên bơ vơ sau khi cha anh bỏ vợ con đi mất tiêu. Cậu bé nghi có điều gì nghiêm trọng xảy ra, nhưng bà mẹ trấn an cậu bằng những lời lẽ bình thường. Hôm người cha bỏ đi, bà mẹ Franz dắt cậu xuống phố chơi, và lúc hai mẹ con ra khỏi nhà, Franz để ý thấy mẹ mình hai chân đi hai chiếc giày khác nhau. Cậu thấy bối rối, khó xử hết sức: cậu muốn chỉ cho mẹ thấy sự nhầm lẫn của bà nhưng lại sợ làm bà đau lòng. Thế là, trong suốt hai tiếng đồng hồ dạo phố, cậu dán mắt vào đôi chân bà mẹ. Đó là lần đầu tiên trong đời cậu ý thức đau khổ là gì.

CHUNG THỦY VÀ BỘI PHẢN

Franz yêu thương mẹ từ khi anh còn là đứa trẻ cho đến ngày anh đưa bà ra nghĩa trang; anh cũng yêu thương bà trong tâm tưởng anh. Tình thương đó khiến anh tin tưởng lòng chung thủy phải có chỗ đứng rất cao trọng trong các đức tính: nhờ có lòng chung thủy, đời sống mới liền lạc thành một mối, nếu không chắc nó vỡ tan thành trăm nghìn mảnh ấn tượng vụt thoáng qua trong tích tắc.

Franz thường kể Sabina nghe về mẹ anh, có lẽ với duyên do bí mật nào đó nằm tận cùng vô thức anh: anh đinh ninh Sabina sẽ thấy đẹp lòng vì anh là người đàn ông chung thủy và nhờ đó anh chiếm được cảm tình của cô.

Nhưng anh đâu biết Sabina là người đàn bà bị lôi cuốn bởi lòng bội phản nhiều hơn là chung thủy. Từ ngữ “chung thủy” làm cô nhớ đến cha cô, người đàn ông đạo hạnh, thanh khiết sống nơi tỉnh nhỏ, dùng trọn ngày chủ nhật vẽ vời cảnh chiều tà lên bố vải hay tô điểm hình hoa hồng lên bình sứ. Nhờ ông, Sabina bắt đầu biết vẽ khi còn thơ ấu. Năm cô mười bốn tuổi, cô đem lòng yêu thương một câu trai cùng trang lứa. Cha cô hãi sợ đến nỗi ông ra lệnh nghiêm cấm, không cho cô một mình ra khỏi nhà suốt năm trời. Một hôm, ông cho cô xem đôi ba bức phó bản tranh Picasso kèm theo những lời phê bình giễu cợt.

Nếu cô không được phép yêu cậu học trò mười-bốn-tuổi, ít nhất cô có quyền yêu tranh lập thể. Học xong, cô lên Praha với cảm giác yêu đời cuối cùng cô quay lưng bội phản chính gia đình cô.

Bội phản. Từ thủa bé thơ non nớt, chúng ta được cha ông và thầy cô dậy dỗ lên án bội phản là hành vi xúc phạm tàn bạo nhất. Nhưng bội phản là gì? Bội phản là phá vỡ mọi nề nếp và đi về nơi vô định. Với Sabina, không có gì tuyệt vời hơn nếu cứ cất bước đi mãi về nơi vô định.

Khi còn là sinh viên trường Mỹ thuật, cô không được phép vẽ như Picasso. Đó là thời kì cái gọi là hiện thực xã hội được quy định và nhà trường sản xuất toàn chân dung những chính khách Cộng sản. Sabina mong thực hiện được hành vi bội phản cha mình nhưng cô chưa toại nguyện: Chủ nghĩa Cộng sản là người cha khác, người cha khó khăn và kềm kẹp không kém, người cha cấm cô không được yêu thương (thời của đạo hạnh), và ngay cả Picasso cô cũng không được phép lại gần.

Và cô lập gia đình với một anh diễn viên hạng nhì chỉ vì anh ta nổi tiếng là người lập dị nhưng được cả hai người cha chấp nhận.

Rồi mẹ cô qua đời. Hôm trở lại Praha sau đám tang mẹ, cô nhận được điện tín báo tin cha cô cũng đã tự sát giữa nỗi khổ đau cùng cực.

Đột nhiên lương tâm cô quặn xé lên đau đớn: cha cô vẽ bông hồng lên bình sứ và ghét Picasso, điều đó có thật khiếp đảm lắm không? Có thật đáng trách nếu ông hãi sợ cô con gái mười bốn tuổi có ngày vác bụng bầu về nhà? Có thật đáng chê cười nếu ông không thể tiếp tục sống trên cõi đời sau khi người vợ mình về bên kia thế giới?

Một lần nữa, cô cảm thấy lòng mình như nung nấu muốn làm một hành vi bội phản: bội phản chính sự bội phản. Cô bảo người chồng (người giờ đây cô xem như gã say khó chịu chứ không còn là kẻ lập dị nữa) cô sẽ chia tay giã từ gã.

Vì B. chúng ta bội phản A. rồi lại bội phản B. Điều này không có nghĩa chúng ta sẽ làm lành xoa dịu A. Cuộc sống một họa sĩ li dị chồng không hề giống cuộc sống cha mẹ cô mà cô đã bội phản. Sự bội phản lần thứ nhất không thể hàn gắn. Nó tiên khởi cho chuỗi phản ứng những bội phản khác về sau, và mỗi lần dẫn chúng ta đi xa thêm, ra khỏi cứ điểm lần bội phản ban đầu.

ÂM NHẠC

Với Franz, âm nhạc là nghệ thuật gần gũi nhất với cái đẹp say sưa. Không ai say vì quyển tiểu thuyết hay bức tranh, nhưng có ai không khỏi say đắm khi nghe Giao hưởng số chín của Beethoven, khi nghe Sô-na-ta cho hai dương cầm và nhạc cụ gõ của Bartok, hayWhite Albumcủa Beatles. Franz không phân biệt nhạc “cổ điển” và nhạc “thời trang.” Với anh sự phân loại như vậy vừa lỗi thời vừa trá ngụy. Anh ưa thích nhạc kích động và nhạc Mozart như nhau.

Anh xem âm nhạc có sức mạnh giải phóng: nó giải phóng anh ra khỏi nỗi cô độc, khỏi cơn trầm tư nội hướng, khỏi bụi bặm thư viện; nó mở cánh cửa con người và cho phép tâm hồn anh bước ra thế giới bên ngoài tìm kiếm bạn bè, bằng hữu. Anh thích khiêu vũ và thấy tiếc Sabina không chịu chia sẻ với anh đam mê này.

Hai người ngồi trong tiệm ăn, và trong lúc họ ăn uống, tiếng nhạc đinh tai nhức óc với nhịp tiết mạnh phát ra từ ống loa đặt gần đó.

“Đúng là cái vòng luẩn quẩn hung tợn,” Sabina nói. “Tai người ta sắp bị điếc hết vì tiếng nhạc càng ngày càng lớn. Nhưng vì người ta điếc nên tiếng nhạc càng phải lớn hơn.”

“Em không thích âm nhạc à?” Franz hỏi lại.

“Không.” Rồi cô nói thêm, “dù là âm nhạc ở thời đại khác...” Cô đang nghĩ đến thời đại của Johann Sebastian Bach, khi âm nhạc như đóa hoa hồng nở trên cánh đồng của lặng im, bao la và phủ đầy tuyết trắng.

Tiếng động ồn ào giả làm âm nhạc theo đuổi cô từ ngày thơ ấu. Mấy năm học ở trường Mỹ thuật, sinh viên bị bắt buộc phải tham dự trại hè suốt mấy tháng hè. Họ sống chung chạ nhau và cùng công tác thực địa tại công trường nhà máy thép. Nơi đó, tiếng nhạc từ ống loa phát thanh gào lên từ năm giờ sáng đến chín giờ tối. Cô muốn khóc lên được, tiếng nhạc chói lói, không thể tìm được nơi nào khả dĩ dùng làm chỗ ẩn náu tránh tiếng loa, không thể chui vào nhà cầu hay rúc dưới đám chăn mền: mọi vật nằm trong tầm những ống loa phát thanh. Tiếng nhạc như bầy chó săn ùa đến cắn xé cô.

Vào thời điểm đó, cô tưởng thứ nhạc mọi rợ đó chỉ ngự trị ở thế giới Cộng sản. Ra nước ngoài, cô khám phá sự biến thể từ âm nhạc sang tiếng ồn là tiến trình toàn cầu trong đó con người đang đi vào giai đoạn lịch sử của sự xấu xí toàn diện. Thọat đầu là những xú uế trong âm thanh phủ trùm khắp nơi: xe hơi, xe gắn máy, đàn ghi-ta điện, máy khoan, loa phát thanh, còi hụ. Chẳng bao lâu nữa, sự xấu xí trong con mắt nhìn cũng sẽ tràn ngập khắp nơi.

Sau bữa ăn tối, hai người lên phòng và họ làm tình với nhau. Trong lúc mơ màng sắp chìm vào giấc điệp, Franz cảm thấy ý nghĩ mình mất dần mạch lạc. Anh nhớ tiếng nhạc ồn ào tại bàn ăn và tự nhủ, “Tiếng ồn cũng có điểm lợi. Nó lấn át tiếng nói.” Đột nhiên anh nhận thức trọn cuộc đời anh, anh không làm gì khác ngoài nói, viết, dạy học, biến chế câu văn, tìm kiếm và tu bổ những công thức để rồi cuối cùng không từ ngữ nào còn chuẩn xác nữa, ý nghĩa những dòng chữ bị xóa nhòa, nội dung mất hẳn, chúng biến thành rác rưởi, trấu rơm, cát bụi; chúng lưởng vưởng quanh trí óc anh, chúng giằng co, xâu xé trong đầu anh, chúng là chứng bệnh mất ngủ, là căn bệnh của anh. Và điều anh đang khao khát lúc đó, mơ hồ nhưng với tất cả ý chí của anh, là tiếng nhạc vô bờ, là âm thanh tuyệt đối, đầy êm dịu và hạnh phúc ngập tràn, trấn át tiếng ồn ào huyên náo làm rung rinh cánh cửa, một lần và mãi mãi, phủ lấp nỗi đau đớn, xóa đi cái vô dụng, hư phù của chữ nghĩa. Âm nhạc là phủ định những câu văn, là phản đề của chữ nghĩa! Anh khao khát được ôm ấp Sabina thật lâu, anh ao ước phải chi anh không bao giờ phải nói một câu, một chữ nào, để cực độ khoái cảm tình yêu trong anh tràn đầy tiếng nhạc vang lừng, phủ lấp. Và anh đi vào giấc ngủ được vỗ về bởi âm vang chân phúc huyễn tưởng đó.

ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI

Với Sabina, sống là nhìn thấy. Nhưng thị giác bởi giới hạn do hai rào cản: ánh sáng rực rỡ làm mù lòa, và bóng tối đen kịt. Có lẽ đó là lí do khiến Sabina ghê sợ tất cả mọi cực đoan chủ nghĩa. Cực đoan là biên giới không có sự sống phía bên kia, và đam mê cực đoan chủ nghĩa, trong nghệ thuật cũng như trong chính trị, là trùm khăn lại rồi mong chờ cái chết.

Với Franz, từ ngữ “ánh sáng” không gợi hình ảnh một cảnh thổi phơi bày dưới ánh sáng dịu nhẹ của ngày; nó gọi cho thấy chính nguồn ánh sáng: mặt trời, bóng đèn điện, đèn chiếu. Liên hệ của Franz là những ẩn dụ quen thuộc: ánh mặt trời của lòng công minh chính trực, ngọn lửa chói sáng của trí tuệ, vân vân.

Bóng tối cũng quyến rũ anh nhiều như ánh sáng. Anh biết ở thời đại này tắt đèn trước khi làm tình là hành động tức cười, vì thế anh luôn luôn mở ngọn đèn nhỏ đầu giường. Tuy vậy, lúc đi vào Sabina, anh lại nhắm nghiền hai mắt. Khoái cảm tràn trề trong cơ thể anh kêu gọi bóng tối. Bóng tối tinh ròng, toàn vẹn, không ý tưởng, không hình tượng; bóng tối đó không có tận cùng, không có biên cương; bóng tối đó là cái vô tận mỗi chúng ta đều mang nó trong người. (Vâng, nếu bạn đang đi tìm kiếm vô tận, bạn chỉ việc nhắm hai mắt lại!)

Và ngay lúc khoái cảm lan tràn khắp châu thân, Franz tan biến vào cõi vô tận của bóng tối anh, chính anh trở nên vô tận. Nhưng con người anh càng tăng trưởng trong cái bóng tối bên trong bao nhiêu, phần bên ngoài anh càng thu nhỏ bấy nhiêu. Người đàn ông mắt nhắm là người đàn ông phế thải. Sabina chán ngán vô cùng khi thấy anh nhắm mắt như vậy, và để khỏi phải nhìn vào mặt anh, cô cũng nhắm hai mắt lại. Nhưng với cô, bóng tối không có nghĩa vô tận; nó đồng nghĩa với sự bất tán thành cái gì cô trông thấy, phủ định cái trước mắt, chối bỏ cái không muốn nhìn.

4

Có lần Sabina tự cho phép mình đến tham sự một buổi họp nhóm giữa những người di dân đồng hương của cô. Cũng như những lần khác, họ xào lại cuộc tranh luận nên hay không nên đứng dậy võ trang chiến đấu chống Nga. Trong an toàn của đời sống di dân, lẽ tất nhiên họ chuộng giải pháp chiến đấu hơn. Sabina lên tiếng: “Vậy tại sao các ông không quay về mà chiến đấu đi?”

Thật tình cô chẳng nên phát biểu như thế. Một người đàn ông có mái tóc bạc dợn sóng giơ ngón tay trỏ dài ngoằng chỉ vào mặt cô: “Cô không được quyền ăn nói như vậy. Vì mấy người mà đất nước chịu cảnh ngày nay. Cả cô nữa. Cô đã phản kháng chế độ Cộng sản như thế nào? Hay cô chỉ biết vẽ vời lăng nhăng...”

Quy định người dân sống như thế nào, kiểm soát đời sống họ, là nguyên tắc và cũng là sinh họat xã hội không bao giờ ngưng nghỉ ở các quốc gia Cộng sản. Họa sĩ xin phép triển lãm tranh, công dân bình thường xin chiếu khán đi du lịch tại các quốc gia có bờ biển, cầu thủ bóng đá xin gia nhập đội banh quốc gia, đều phải đi thu nhặt không biết bao nhiêu thư từ đề bạt, báo cáo (từ người giữ cửa, bạn đồng nghiệp, công an, cơ quan địa phương Đảng, nghiệp đoàn liên hệ) để các viên chức đặc biệt từ đó làm công việc tổng kết, cứu xét và tóm lược. Những báo cáo này không hề dính dáng đến năng khiếu nghệ thuật, khả năng đá bóng, hay bệnh trạng cần tịnh dưỡng nơi có không khí biển; chúng quy chiếu điểm duy nhất: “Hồ sơ chính trị của người công dân” (nói cách khác, những gì người công dân từng tuyên bố, suy nghĩ; hành vi của hắn, hắn đứng dậy bỏ ra về giữa buổi họp nhóm hay trốn diễn hành ngày lễ Lao động mùng một tháng năm trong trường hợp nào.) Bởi mọi sinh họat (hiện hữu ngày qua ngày, thăng quan tiến chức tại sở làm, ngày nghỉ hè) đều tùy thuộc vào kết quả việc cứu xét. Mọi người (dù hắn muốn chơi banh trong đội banh quốc gia, muốn thực hiện buổi triển lãm tranh, hay muốn đi nghỉ hè tại bờ biển) ai nấy phải sống sao cho phải đạo để có điểm tốt.

Ý nghĩ đó xuyên qua đầu Sabina trong lúc cô nghe người đàn ông có mái tóc bạc cất tiếng. Ông ta không cần biết những người đồng hương của ông là cầu thủ đá bóng xuất sắc hay họa sĩ tài ba (không người di dân Tiệp Khắc nào có mặt trong buổi họp tỏ vẻ quan tâm đến những tác phẩm hội họa của Sabina); điều duy nhất ông ta quan tâm là những người này đã chống Cộng ra sao, tích cực hay tiêu cực, có thực tâm hay chỉ bề ngoài, từ lúc đầu hay chỉ mới sau này khi bỏ chạy ra nước ngoài.

Vì là họa sĩ, cô có con mắt ngắm nhìn sự vật rất chi tiết và trí nhớ cô còn ghi nhận rất rõ nhân dáng những người ở Praha. Tất cả bọn họ đều có ngón tay trỏ dài hơn ngón giữa một chút và lúc nào ngón tay đó cũng giơ ra chỉ vào mặt người đang đối thọai. Tổng thống Novotny, người lãnh đạo đất nước suốt mười bốn năm trước 1968, cũng có mái tóc bạc dợn cong như thế và ngón tay trỏ của ông dài hơn bất cứ ngón tay người dân nào cư ngụ ở Trung Âu.

Khi nhân vật di tản danh giá nghe từ đôi môi người họa sĩ ông chưa bao giờ biết tranh vẽ ra sao, rằng trông ông giống Tổng thống Novotny của Cộng sản thì mặt ông biến thành đỏ gấc, rồi trắng bệch, rồi lại đỏ, rồi lại trắng; ông cố gắng thốt ra điều gì đó nhưng không thành lời, rồi ông im bặt. Mọi người cũng im thin thít cho đến khi Sabina đứng dậy bỏ về.

Cô buồn rầu hết sức, và khi bước xuống đường cô tự trách mình tại sao phải giữ liên hệ với những người Tiệp này. Cái gì trói buộc cô vào họ? Cảnh thổ? Nếu mỗi người trong bọn họ được hỏi tên gọi cái phần đất chôn nhau cắt rốn đó gợi nhớ điều gì thì những hình ảnh hiện lên trong trí não họ khác biệt đến nỗi sẽ không còn sự đồng nhất nào nữa.

Hay là văn hóa? Nhưng văn hóa là gì? Âm nhạc? Dvorák và Janacek? Vâng. Nhưng nếu một người Tiệp không còn chút cảm thụ nào cho âm nhạc nữa thì sao? Cái yếu tính cốt lõi để trở thành người Tiệp tan biến vào hư không mất rồi.

Hay vì những bậc vĩ nhân? Jan Hus? Không ai trong căn phòng đó từng đọc một dòng chữ nào của ông. Họ chỉ có thể hiểu được ngọn lửa, niềm vinh quang của ngọn lửa khi ông bị hỏa thiêu, niềm vinh quang của tro tàn, và do đó, với họ, yếu tính để trở thành người Tiệp là đám tro tàn và chỉ có thế thôi. Điều duy nhất giữ họ lại là sự chiến bại và những lời khiển trách lẫn nhau.

Cô bước nhanh. Chính những ý nghĩ trong đầu làm cô khổ sở nhiều hơn là sự tách li khỏi những người di dân lưu vong đồng hương. Cô biết cô không công bằng. Cũng có những người Tiệp Khắc, những người hoàn toàn khác gã đàn ông có ngón tay trỏ dài ngoằng. Sự im lặng đầy ngượng nghịu sau bài diễn văn nhỏ của cô không có nghĩa tất cả bọn họ đều chống đối cô. Không, có lẽ họ chỉ chưng hửng khi đột nhiên nhìn ra sự thù ghét, ngu dốt của mình trong cuộc sống tị nạn. Nhưng tại sao cô không thương xót họ? Tại sao cô không thấy họ chỉ là những sinh vật bất hạnh và bị ruồng rẫy bỏ rơi?

Chúng ta biết tại sao. Sau khi bội phản người cha già, đời sống mở ra trước mắt cô, con đường dài đầy rẫy bội phản, mỗi lần bội phản, tệ bạc và chiến thắng khiến cô như bị thu hút. Cô không chịu đứng vào hàng ngũ! Cô chối bỏ hàng ngũ – luôn luôn chừng đó con người, chừng đó bài diễn văn! Đó là lí do tại sao sự thiếu công bằng của chính cô làm cô khuấy động. Nhưng không hẳn đó là cảm giác không vui; ngược lại, Sabina có cảm tưởng cô vừa chiến thắng và có nhân vật vô hình nào đó đang vỗ tay tán thưởng cô.

Thốt nhiên, men say bỗng nhường chỗ cho phiền não: Con đường phải chấm dứt nơi nào đó! Sớm muộn cô phải chấm dứt những trò bội phản này! Sớm muộn cô phải tự ngừng lại!

Lúc đó trời đã tối và cô vội vã bước nhanh vào trạm ga. Chuyến tầm đi Amstertam đang chờ khách. Cô tìm ra toa của mình. Người soát vé niềm nở đưa cô vào tận nơi, cô mở cánh cửa căn buồng toa tầu và thấy Franz đang ngồi trên băng ghế. Anh đứng dậy đón cô vào, cô choàng hai tay ôm anh và hôn anh đến nghẹt thở.

Cô vô cùng muốn nói với anh, như người đàn bà tầm thường nhất, “Đừng bỏ em, hãy ôm em thật chặt, hãy biến em thành trò chơi của anh, em là nô lệ của anh, hãy mạnh mẽ lên!” Nhưng cô không nói được điều gì.

Khi anh buông cô ra, cô chỉ thốt được câu, “Anh không biết em vui sướng dường nào có anh bên cạnh.” Bản tính khép kín chỉ cho phép cô nói câu nói nồng nàn nhất như thế.