Bố già trở lại - Phần II - Chương 05 - Phần 3

Cuộc đi qua sân golf, xuyên qua cả một mê cung những sân tennis rồi lại qua một sân golf khác nữa, mất khoảng mười lăm phút, trong thời gian đó mỗi người đều quay đi, tránh mắt của người kia.

Khi Ngài Đại sứ lần đầu giao dịch làm ăn với Vito Corleone, tên ông lúc đó là Mickey Shea. Giờ đây ông được biết đến trong báo chí như là Ngài Corbett Shea. Không còn ai gọi ông là Mickey nữa. Bạn bè thân và gia đình, ngay cả vợ ông, cũng gọi ông là Corbett. Còn đối với mọi người khác, ông là Ngài Đại sứ. Bố ông đã rời Quận Cork đến định cư ở Baltimore, và mở một quán rượu ngang phố đối diện với quán của bố Babe Ruth. Là con cả trong một gia đình có sáu đứa con, Mickey Shea lớn lên phải làm việc vất vả - lau sàn nhà, khuân vác đồ đạc, xúc dọn phân chó phân mèo trên đường phố và tuyết trên lối đi. Nhưng cuộc sống của cậu bé, đặc biệt là nếu so sánh với những đứa trẻ Ái Nhĩ Lan khác ở khu láng giềng, thì vẫn là một cuộc sống khá tiện nghi. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc ba má cậu buôn bán bị lỗ lã nặng. Họ mất tất cả. Mẹ cậu trở thành người đàn bà hiếm hoi đã chọn một khẩu súng để tự sát bằng cách há to miệng ra ngoạm vào đầu khẩu súng shotgun cưa ngắn nòng và bấm cò. Mickey, với cái xẻng xúc tuyết còn cầm tay, là người khám phá ra cái tử thi gần như đã bay mất hết đầu trong lối đi nhỏ đằng sau quán. Bố cậu vẫn tiếp tục uống đến say mèm.

Mickey vào quân đội ở tuổi mười bảy và chẳng bao lâu sau trở thành một trung sĩ tiếp liệu. Chính ở đó, chứ không phải (như truyền thuyêt được đồn đại) trên những đường phố của Baltimore, mà anh học được rằng ở đâu cũng có quy tắc luật lệ, nước có quốc pháp, nhà có gia quy, và rồi cũng lại có mọi thứ cho người ta đem tất cả sở tồn làm sở dụng. Chợ đen, trong thời bình cũng đã là món béo bở, lại càng tỏ ra là thứ môn bài để in tiền một khi Hoa Kì chính thức tham chiến. Tuần lễ sau đình chiến, Trung sĩ Shea đã được giải ngũ trong vinh dự với huân chương chiến công cao quý. Anh trở thành tay triệu phú (đô-la), phần lớn là tiền mặt. Chàng ta đến New York và mở một quán rượu ở quận Tenderloin. Vừa là dân Ái Nhĩ Lan lại vừa là một thuyết khách dẽo mồm mép anh ta nhanh chóng tạo ra những mối quan hệ hữu ích với đám cảnh sát và, quan trọng hơn, với các băng đảng đường phố Ái Nhĩ Lan như băng The Marginals (Những kẻ đứng bên lề) và băng Gophers (Chuột chù). Anh mua một số nhà kho gần các cầu tàu, một đầu tư vững chắc giúp cho anh duy trì những kĩ năng bén nhạy trong xuất nhập khẩu. Anh đã chọn được vị trí vô cùng đắc địa lại kết hợp với những kĩ năng cực kì hữu dụng trong Thời kì Cấm Rượu. Shea đúng là tay buôn rượu lậu hoàn hảo của... Chúa Trời! (God’s perfect bootlegger). Anh sở hữu những nhà kho. Anh sử dụng những công nhân bến cảng. Anh biết cách “lách luật” để chuyển hàng. Anh có bạn bè tại hai thành phố lớn Miền Đông nước Mỹ và huynh đệ ở Canada, những cựu chiến hữu vốn trước đây cũng là những trung sĩ tiếp liệu trong Không lực Hoàng gia (RAF: Royal Air Force) của Canada, đã từng làm ăn với nhau nhiều phi vụ, và anh vẫn giữ quan hệ hữu hảo. Và không chỉ điều hành một quán rượu mà còn điều hành một quán khác được gọi là quán bar của cớm. Hầu như mở cửa suốt đêm, đó là một quán kem - cà phê ở bên trên còn tầng hầm được mở rộng, đào sâu, thiết kế lại để trở thành một speakeasy (quán cuốc lủi). Đám cớm, cũng chỗ cánh hẩu cả, được trả lương để uống rượu miễn phí ở đó. Đúng là đồng tiền tiêu đúng chỗ là đồng tiền khôn bởi vì địa điểm đó tạo được danh tiếng qua tuyên truyền rỉ tai là nơi tha hồ say xỉn mà không sợ bị chộp. Trước khi Shea biết được chỗ này nơi đây từng là một thứ “Chiêu Anh Các” của những con người sang trọng lịch lãm khu Manhattan, những divas ô-pê- ra và những ngôi sao kịch nghệ Broadway, những ông chủ báo và các cây viết đinh của họ, những luật sư ưa khoe mẽ và những vị ủy viên thành phố hào nhoáng sặc sỡ, ngay cả các vị Chủ tịch Hội đồng Quản trị các ngân hàng và các ông khổng lồ của Phố Wall. Shea mua cái building kế bên và đào đường hầm xuyên qua đến tầng hầm bên kia, mở rộng gần gấp ba tầng hầm cũ. Một dàn nhạc giao hưởng đầy đủ chơi ở đó mỗi đêm. Một hoạt động rất bố láo một cách công khai như chưa từng hiện diện ở đâu khác trên khắp nước Mỹ!

Nhưng Mickey Shea là người kinh lịch đã nhiều và cũng đã tai nghe mắt thấy lắm điều hay. Trong chiến tranh, những người như anh có thể làm giàu nhưng có một lớp những người giàu và quyền thế ở bên trên, những người không cần phải làm bẩn tay mình bằng những cuộc đổi chác ma túy và ảnh khiêu dâm để lấy hàng quân tiếp vụ, những người không bao giờ phải đấm lưng xoa bóp những kẻ mà họ hối lộ. Anh ta biết vận dụng những đường dây liên kết với đám cớm, đám viện kiểm sát, đám quan tòa để làm rào dậu, thành lũy che chắn cho mình.

Một ngày nọ, Genco Abbandando - người tiền nhiệm của Hagen trong tư cách consigliere và là người mà Shea nghĩ rằng sở hữu Công ty Dầu Ô liu Nguyên chất Genco - tiếp xúc một đại úy cảnh sát có nằm trong bảng lương của Shea và dàn dựng cuộc gặp gỡ giữa Mickey Shea và Vito Corleone. Họ gặp nhau ở quầy ăn trưa của một cửa hàng thực phẩm Ý khu Nhà bếp Địa ngục (Hell’s Kitchen), chỉ cách mấy nhà kho của Shea sáu dãy phố nhưng là nơi anh chưa từng đặt chân tới. Anh ghét thực phẩm có gia vị và không chịu ăn bất kì thứ gì ngoài bánh mì và mì sợi không nước xốt. Khi bữa ăn kết thúc, Don Corleone giải thích rằng những người điều hành các xe tải đổi hàng kia (lấy rượu từ Canada về Mỹ và lấy dầu ô liu hay xi - rô từ Mỹ qua Canada) chỉ là thuê chúng từ Genco Pura, sau đó để cho hàm ý của câu nói này chìm xuống. Ông nói đến sự phung phí vô ích của việc cạnh tranh trên thị trường tự do và ở đây, cũng vậy, Mickey Shea là một học trò nhanh trí, sáng dạ. Don Corleone bảo Mickey Shea là ông tin rằng một người nhiều hảo bằng hữu như thế (ông chưa cần nói đến bằng hữu ở City Hall và ở Phố Wall và đặc biệt là trong số hàng ngũ thi hành pháp luật với người Ái Nhĩ Lan chiếm đa số) hẳn là một con người có tầm cỡ đáng nể, một người mà nếu ta quen biết được hẳn là có lợi đấy. Những người bạn của Mickey Shea trở thành bạn của Gia đình Corleone. Shea đắc dụng trong việc xây dựng những quan hệ chính trị và pháp lí cho Don Corleone, cuối cùng là nguồn quyền lực lớn nhất của ông. Don Corleone đắc dụng trong việc thu gom cho Shea rất nhiều của cải - và dự phòng bất kì cuộc đổ máu nào và sự phô bày công khai cơ bắp cần thiết để ngăn ngừa chuyện đó – đến nỗi cả trước khi Luật Cấm Rượu, con bò vắt ra tiền, hết hiệu lực, Shea đã có thể cắt đứt mọi đường dây có thề lần dấu về cội nguồn của cải của ông và phát minh lại chính mình trong con mắt công chúng như một quý ông “máu xanh” (dòng dõi quý tộc): Quý ông Corbett Shea, Tổng giám đốc Công ty Môi giới Chứng khoán Địa ốc, đồng sở hữu chủ một đội bóng chày và là một con người nhân ái ai ai cũng biết tiếng tăm vì đã xây bao nhiêu nhà tình thương Corbett, bao nhiêu thính phòng Corbett, bao nhiêu thư viện công cộng Corbett, tất cả đều từ tiền của Quỹ Corbett Phục vụ Cộng đồng. Con cái ông học trung học ở Lawrenceville rồi đại học ở Princeton. Sự phục vụ của họ trong chiến tranh được báo chí cả nước xưng tụng là anh hùng. Ông đảm nhiệm chức đại sứ ở Canada trong sáu tuần cuối của nhiệm kì tổng thống sắp mãn nhiệm - chưa đủ lâu để chuyển gia đình theo nhưng đủ lâu để mang được tước vị Ngài Đại sứ. Con gái lớn nhất của ông lấy chồng từ nhà Rockefeller. Con trai lớn nhất của ông hiện nay là Thống đốc bang New Jersey.

Ngài Đại sứ có lẽ không có cách nào để biết được rằng chính Tom Hagen, trong khi Genco vẫn còn là consigliere, đã lưu tâm đến phần “tin tức thời chiến” đó của ông.

Và mặc dầu Ngài Đại sứ nghĩ rằng chính mình đã mua chức đại sứ - điều này trên đại thể là đúng - song chính Hagen, người đứng sau cánh gà, đã dàn cảnh và biên đạo cho tấn tuồng diễn ra suôn sẻ.

Và cũng chính Bố Già Vito Corleone đã dạy cho Hagen quyền lực của việc biết giữ im lặng về những chuyện như thế.

Những cánh cửa thép có động cơ trượt mở ra. Tài xế dừng chiếc xe golf trước một căn nhà làm bằng những khối đá, được thiết kế giống một bản sao theo tỉ lệ năm mươi phần trăm của một lâu đài Anh quốc. Một đám nhân công Mễ đang lắp ráp những mảng cỏ và trồng cây xương rồng. Không mặc sơ-mi, da nâu đồng như da thuộc, những anh chàng tóc vàng đứng trên giàn giáo đang dùng những chiếc bàn chải hẹp để tô điểm cho các phiến đá trông có vẻ rêu phong cổ lỗ. Hagen nghĩ đầu óc mình có lẽ sẽ nổ tung mất.

“Lối này, thưa ngài” Tay tài xế vẫn giữ không tiếp xúc ánh mắt.

Hagen nheo mắt, tự hỏi không biết thêm ba trăm đô la nữa có đem lại cho chàng bốn viên aspirin và một cặp kính râm không, trong lúc hướng đầu về lối đi phía trước.

“Không phải, thưa ngài. Lối này này.”

Hagen nhìn lên. Người kia đang đứng phía đầu kia sân. Tay tài xế dẫn anh vòng quanh hông nhà để đến bể bơi, như thể Hagen không thể được tin cậy để đi ngang qua nhà. Hagen nhìn đồng hồ. Gần ba giờ. Chắc anh sẽ phải bắt chuyến máy bay trễ hơn để trở về nhà.

Trong vườn sau, hồ bơi được xây theo hình chữ P, một vòng tròn được nối ghép vào làn đơn để bơi vỗ. Rải quanh chu vi của phần hình tròn là bảy tượng thiên thần giống hệt nhau, bằng đá hoa cương trắng. Ngài Đại sứ ngồi ở một cái bàn đá, đang la to vào một điện thoại màu trắng. Một đĩa to, bẹt đựng thịt và phô - mai được dọn ra. Trước mặt ngài Đại sứ là một đĩa lầy nhầy mù tạt và vương vãi những mẩu vụn bánh mì. Cái lão ngạo mạn này đã ăn xong rồi. Lại nữa, lão ta còn hoàn toàn trần văn truồng (điều này có thể làm bối rối Hagen ngoại trừ trong lần gặp vừa rồi giữa anh với ngài Đại sứ lại diễn ra trong phòng tắm hơi của Câu lạc bộ Princeton. da ông ta có màu sườn hạng nhất nướng tái. Ngực và lưng ông ta nhẵn nhụi như con lợn còn trong bào thai. Ông ta cũng không mang kính râm.

“Hi ho!” ông reo lớn chào Hagen, mặc dầu vẫn còn cầm điện thoại.

Hagen gật đầu chào. “Chào ngài Đại sứ.”

Ngài Đại sứ ra hiệu cho Hagen ngồi xuống, chàng làm theo, và mời chàng ăn, nhưng chàng từ chối dầu bụng vẫn đói cồn cào, bởi chàng tự ái khi thấy ngài đại sứ đã ăn xong rồi không thèm đợi khách mời. “Tôi dùng bữa rồi”, Hagen nói, và anh làm một cử chỉ nhăn nhó để chỉ ra rằng anh ngại ngùng vì sự hiểu lầm..

Ngài Đại sứ hạ thấp giọng nhưng vẫn tiếp tục nói chuyện, có vẻ bí mật, song cuộc đối thoại dường như là chuyện riêng tư, không phải chuyện làm ăn. Đến một lúc, ông đặt tay lên ống nghe và hỏi Hagen rằng anh có mang theo quần bơi không. Hagen lắc đầu. “Tiếc quá”, ngài Đại sứ nói.

Tất nhiên. Chỉ một pezzonovante mới có thể ngồi đó trong ánh đèn huỳnh quang với nhau. Không phải chuyện Hagen có thể đã tuốt tuồn tuột để tắm ào một phát. Điểm chính yếu, hẳn nhiên rồi, là sự khẳng định nửa vời nhưng có phần thô bạo của Shea là anh không thể.

Cuối cùng, ngài Đại sứ rời khỏi điện thoại.

“Nào, nào! Đó là chàng consigliere dân Ái Nhĩ Lan.”

“Đức - Ái” Hagen chỉnh sửa.

“Nhân vô thập toàn mà!” ngài Đại sứ phát ngôn kiểu lửng lơ.

“Và tôi là luật sư hơn là cái gì khác” Hagen hơi gằn giọng.

“Thế thì còn tệ hơn!” ngài Đại sứ phán. Một câu nói lạ lùng, Hagen nghĩ, đối với một người từng gửi cả bốn đứa con vào trường luật. “Uống gì chứ?”

“Nước đá thôi”, Hagen nói. Nói, không yêu cầu. Trước công chúng, ngài Đại sứ là một người nổi tiếng duyên dáng. Việc ông ta ăn nói lừng khừng hẳn là có chủ ý.

“Không dùng thứ gì mạnh hơn sao?”

“Nước đá là tốt rồi” Uống một ngụm lớn sau khi nốc một nắm aspirin. Cho đỡ nhức đầu.

“Tôi cũng đã bỏ rượu rồi,” ngài Đại sứ nói, “ngoài việc thỉnh thoảng làm một cốc Pernod cho vui.” Ông nâng lên một li đá cạn một nửa. “Nước mận ép. Uống không?” Khi Hagen lắc đầu, ngài Đại sứ kêu lớn gọi nước. “Bố tôi cũng đã đi cùng con đường, anh biết không? Lời nguyền của dân ta.”

Một phụ nữ da đen trẻ ăn mặc theo kiểu người hầu Pháp mang ra một chiếc cốc bạc đựng nước đá và một bình pha lê nhỏ. Hagen uống cạn cốc nước rồi tự rót đầy lại. “Xin lỗi đã trễ hẹn với ngài trên sân bóng”, anh nói, vừa làm bộ như đánh một đường banh nỉ lả lướt. “Tôi từng được nghe từ nhiều năm rồi rằng ngài là một cao thủ đáng nể.”

Ngài Đại sứ nhìn Hagen như thể không biết anh chàng này đang nói chuyện gì.

“Từ những người khác”, Hagen nói tiếp.

Hơi ngơ ngác nhưng rồi ngài Đại sứ cũng gật đầu, vừa kẹp một miếng sandwich khác, đứng lên, vẫy tay ra hiệu cho Hagen theo mình, đi đến bên mép hồ bơi, và ngồi xuống trên bậc thềm đầu tiên nơi đầu nước nông của phần hồ tròn. Khẩu súng của ông ta uể oải ngoẹo đầu trong nước, nửa chìm nửa nổi trước mặt ông. Ông vỗ nhẹ đầu nó, một cách lơ đãng.

“Tôi cảm thấy dễ chịu hơn khi ở đây, thưa ngài,” Hagen nói. “Trong bóng mát. Nếu ngài không phiền.”

“Anh đang bỏ lỡ một dịp thoải mái đấy.” Ông dùng hàm răng giữ ổ bánh sandwich và dùng cả hai tay té nước lên mình, ra vẻ thích thú dễ chịu, rồi cắn một khúc bánh, nhai nuốt một cách ngon lành. Dạ dày của Hagen, làm như thể nó thấy được cảnh tượng này, cồn lên, rung giật mấy cái. “Thật mát mẻ, phẻ phắn!” ngài Đại sứ reo lên.

Ngài Đại sứ xơi hết ổ bánh mì. Hagen hỏi thăm gia đình ông. Ngài Đại sứ thích thú khoe các con mình, đặc biệt là Danny (Daniel Brendan Shea, cựu lục sự tại một Tối cao Pháp đình Liên bang và hiện nay là Phó Tổng Chưởng lí bang New York) và anh lớn của Danny là Jimmy (James Kavanaugh Shea, Thống đốc bang New Jersey). Danny mà đám cưới của anh năm rồi với một hậu duệ trực hệ của Paul Revere, đã là một điểm sáng trong xã hội Newport, đang cặp kè với một ngôi sao truyền hình, người biên đạo sô diễn rối mà các cô con gái của Hagen rất mê. Rồi còn Jimmy. Ngài Thống đốc. Mặc dầu mới ở nhiệm kì đầu tiên song ông ấy đã gợi cảm hứng cho những lời bàn tán về một cuộc chạy đua vào chức vụ Tổng thống. Ngài Đại sứ không hạ cố hỏi lại Hagen về gia quyến của anh.

Ngài Đại sứ tiếp tục hỏi về một số những người cộng sự và quen biết chung của hai người. Lởn vởn giữa và trong từng lời phiếm đàm của họ là những biến cố mới đây ở New York. Nhưng không người nào nhắc đến những cái tên của bất kì những người vừa mới chết nào - Tessio, Tattaglia, Barzini, không một ai. Cả Hagen lẫn ngài Đại sứ đều làm như chẳng ai buồn lưu ý đến những biến cố đó, hay thấy phải nhắc đến.

Ngài Đại sứ đứng lên, đầu gối còn ngập sâu trong nước và giang thẳng người. Ông là một người cao to, một ông khổng lồ xét theo tiêu chuẩn của những người thế hệ ông. Ông thường rêu rao là đã từng đánh bại Babe Ruth trong một cuộc đánh lộn khi cả hai còn là nhóc tì; chuyện này là một lời nói dối... hào nhoáng, nhưng với sự kiện Babe đã mất bao nhiêu năm rồi còn ngài Đại sứ, đã quá lục tuần, vẫn còn sừng sững đứng đây, hưởng đủ vinh quang, thì câu chuyện kia cũng chứa đựng sự thật theo loại của riêng nó. Ngài Đại sứ phóng tới trước xuống nước và bắt đầu những vòng bơi. Sau mười vòng, ông ngưng lại.

“Suối nguồn tươi trẻ, anh bạn ạ,” ông nói, không hề hụt hơi thở như Hagen có thể đã nghĩ. “Thề với bạn. Và xin thề cả với Chúa Trời đang... đ... ó”(Swear to fucking God!).

Nếu không vì cái nóng rát da, vì cơn nhức đầu, vì sự cáu kỉnh bởi kiểu bông đùa của ngài Đại sứ, và vì nhu cầu cần về nhà tối nay, có lẽ Hagen đã phó mặc cho... thế sự tự bềnh bồng. Nhưng trong tình huống này chàng phải quyết.

“Này, ngài Đại sứ. Chúng ta bàn vào việc chứ?”

“Ho ho! Bạn nhắm đúng điểm rồi đấy, bạn thân mến.”

Hagen liếc nhìn đồng hồ. Nó đang tiến sát đến bốn giờ. “Mình cũng giống thế đấy.”

Ngài Đại sứ bước ra khỏi hồ. Làm thế nào mà người phụ nữ trong bộ đồ cô hầu lại biết xuất hiện đúng lúc, không biết từ nơi nào với một khăn choàng lớn và một áo khoác, thì Hagen không thể tưởng tượng. Hagen đi theo vị Đại sứ vào một cổng vòm có kính, tối mờ, và, tạ ơn Chúa, có máy lạnh.

“Các bạn tâng bốc tôi quá đấy. Bạn và cả Mike. Hay đúng hơn các bạn quá tâng bốc Danny.” Ông để một khoảng lặng cho Hagen kịp nắm bắt hàm ý. “Thực sự tôi không thể đình hoãn cuộc điều tra. Các bạn hẳn biết điều đó. Và Danny chắc chắn cũng không thể. Ngay cả nếu anh ấy có thể, thì đó lại là một vấn đề địa phương. Thuộc thành phố New York, không phải của bang New York.”

Tất cả những lời đó Hagen đã hiểu một cách chính xác là theo nghĩa ngược lại! Cái cú pháp vòng vo uốn lượn để nói về Danny chỉ có nghĩa là lão cáo già này muốn thiện dụng những kĩ xảo phương tiện sao cho không có gì đến trực tiếp từ văn phòng của ngài Phó Tổng Chưởng lí, không có gì có thể lần dấu ngược về ông.

“Chúng tôi cũng đâu muốn bất kì chuyện gì bị đình hoãn lại,” Hagen nói. Điều quan trọng là công lí phải được thực thi. Tiến lên phía trước hay quay về với công việc mà không có sự phá vỡ do những lời buộc tội gian dối này gây nên, điều đó nằm trong quyền lợi chính đáng của mọi bên liên quan.”

“Thật khó mà phản biện điều đó,” ngài Đại sứ nói, gật đầu. Họ có một cuộc thương lượng, giả định rằng Hagen đã thông qua.

“Và ngài đã làm cho tôi hãnh diện đấy,” Hagen nói. “Hay đúng hơn những liên kết công việc giữa chúng ta. Như tôi chắc rằng ngài đã biết, nhiều người có tiếng nói trong việc chọn một nhân vật để đọc diễn từ đề cử ở đại hội đảng toàn quốc năm tới. Chúng tôi đã nói chuyện với dân chúng, đúng thế. Đại hội sẽ diễn ra ở Atlantic City. Giờ đây, điều đó đã xác định.”

“Đã xác định?”

Hagen gật đầu.

Lão già phóng một nắm đấm vào khoảng không, một cử chỉ trẻ con một cách hơi lố lăng. Đây là một tin tức quá tuyệt cho lão ta, hẳn nhiên rồi. Bây giờ cho dầu những khía cạnh tế nhị hơn của cuộc thương lượng này có hỏng đi nữa, Thống đốc Shea vẫn, ít ra là, có thể nhận được lời khen ngợi là đã mang đại hội đảng - và những người tham dự đại hội và tiền bạc của họ - đến bang của mình.

“Địa điểm được chọn là một dấu hiệu hữu ích,” Hagen đồng ý. Có được ngài Thống đốc của bang chủ nhà đọc diễn văn đề cử sẽ tác động đến nhiều người như một ý tưởng hay. Sau đó sẽ là gì, ai biết được?”

Sau đó, Hagen nói, cứ như là bài diễn văn chắc chắn sẽ xảy ra, điều mà giờ đây ngài Đại sứ hiểu là tất nhiên là thế rồi.

“Về phương diện lí thuyết mà nói,” ngài Đại sứ tiếp lời, “một khi Jimmy đọc bài diễn văn - ”

Hagen gật đầu. Danh sách những chữ nếu khá là dài. “Tôi là người cẩn trọng nhưng cũng lạc quan, thưa ngài. Hãy gọi đó là một quãng đường dài cho tới 1960.”

Nếu những cái nếu quan trọng vận hành suông sẻ, các công đoàn do Gia đình Corleones kiểm soát sẽ hậu thuẫn cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của James Kavanaugh Shea.

“Người ta đồn rằng,” ngài Đại sứ nói, trong lúc hộ tống Hagen đi qua căn nhà và đến chiếc xe golf đang đợi, “anh cũng có những tham vọng chính trị của riêng mình.”

“Ngài cũng biết sự thể như thế nào rồi,” Hagen nói. “Đây là nước Mỹ. Miền đất của những cơ hội vô tận, những khả tính phi thường. Bất kì đứa trẻ nào lớn lên cũng có quyền mơ làm tổng thống.”

Ngài Đại sứ khoái chí cười ngất, ân cần mời anh điếu xì - gà thượng hảo hạng Bá tước Monte Christo - 50 đô-la/điếu - để tỏ lòng trọng thị đúng mức của kẻ có mắt xanh tinh đời “anh hùng đoán giữa trần ai mới già”. Tiễn anh lên đường, ông còn la lớn sau lưng anh,” cậu sẽ còn tiến xa trên tiền trình vô hạn!” Một lời khen nồng nhiệt song không thiếu hàm ý: cuộc đời của cậu, Tom Hagen thân mến ạ, cho đến nay vẫn chưa là gì cả, chưa đến đâu cả mà chỉ đáng kể là từ khi cậu “tam sinh hữu hạnh” gặp được ta và rồi kết giao với những đứa con tài ba của ta thì cậu mới bắt đầu nhìn ra tương lai xán lạn!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay