Trở lại Thiên Đường - Chương 08 - Phần 1

CHƯƠNG 8

Griffin giật mình thức giấc sau một giấc ngủ say của đêm thứ Bảy vì có tiếng động cơ phát ra rất lớn. Anh cho là một vật gì đó sắp chạm mạnh vào bức tường của căn chòi gỗ, nên lật tung chăn, đứng bật dậy. Một chùm ánh sáng lóe lên trong đêm tối, rọi qua những tấm màn cửa. Anh nhìn ra bên ngoài hỏi: - Ai đó? - Rồi lấy tay che mắt để khỏi bị chói. Khi nhận thấy với tiếng động cơ nổ lớn như thế thì người bên ngoài chắc không nghe tiếng mình được, anh bèn đưa tay lên vẫy.

Ánh đèn pha liền rọi chệch sang một bên, tiếng động cơ cũng nhỏ bớt. Từ ánh sáng của tuyết phản chiếu trên mặt hồ, Griffin nhận ra khối hình thù lớn của một ngôi nhà di động trên tuyết trước khi nó khuất dạng ở khúc quanh sau hòn đảo. Vài giây sau đó tiếng động cơ tắt hẳn.

Anh khép cửa lại, nhìn đồng hồ tay. Chưa tới sáu giờ sáng. Lửa trong lò sưởi đã tàn dần, căn chòi trở nên lạnh hẳn tuy không lạnh bằng cái đêm đầu tiên anh mới đến. Anh cho thêm củi vào, và chẳng mấy chốc ngọn lửa đã bùng lên. Trong ánh lửa, anh thay áo quần, mang găng tay, choàng chiếc áo lạnh trùm đầu vào người, rồi cầm cây đèn gió chạy pin mới mua ở cửa hàng của Charlie, bước ra ngoài. Con đường mòn dẫn ra hồ giờ đây đã được băng nén chặt dễ đi. Ra đến hồ, anh men theo vết mòn của đầu máy và ngôi nhà lưu động ấy để lại. Chỉ đi một đoạn ngắn là anh đã đến cuối hòn đảo Little Bear. Anh đưa cao cây đèn gió lên.

- Mạnh giỏi chứ? - Tiếng một ông già vang lên.

Griffin tiến đến gần hơn. - Đây chắc là cụ Billy Farraway - anh nói.

- Phải rồi.

- Họ bảo sớm muộn gì cụ cũng đến.

- Đến sớm hơn là vì những ngày lễ trượt băng. Tôi ở mãi tận hòn đảo Elbon. Ở đấy câu cá rất tốt, nhưng đến cuối tuần sẽ có những người khác đến dựng các cửa hàng ở đấy. Tôi không thích câu chung với họ mấy. Ở đây chắc có cá hồi. Anh có cà phê không?

- Chưa ạ. Nhưng tôi sẽ nấu.

- Vậy anh về nấu đi, trong khi tôi sửa soạn nhà lại chút ít. Chẳng cần làm thứ gì phiền phức, cho tôi cà phê đen là được.

Griffin quay lại căn chòi của mình, nấu bình cà phê đen, rồi đem hai cốc lớn còn bốc khói đi ra ngoài. Lúc ấy, ánh bình minh đã phủ lên toàn bộ vùng hồ một màu tím nhạt, và anh thấy rõ ngôi nhà của Billy Farraway, một ngôi nhà rất nhỏ có kích thước khoảng ba mét, làm bằng gỗ, mái lợp tôn, có một ống thoát hơi, được đặt trên một tấm bục lớn bên dưới được gắn các trục lăn có mấy miếng gạch chêm trước và sau để giữ cho nó bất động. Khi Griffin tiến đến gần thì ánh sáng lờ mờ của buổi sáng sớm bắt đầu rọi qua chiếc cửa sổ nhỏ duy nhất vào bên trong. Anh mở cửa bước vào. Bên trong có một giường ngủ với chăn đệm, một ghế nệm, và một bếp lò. Trên mấy cái kệ kê sát tường chất đầy đồ hộp và sách. Một cái rổ đựng chuối, một cái khác đựng trứng. Bên trên bếp lò là một cái chảo đen sì.

Ông cụ với mái tóc màu muối tiêu, đôi mày rậm, hai bàn tay và đôi gò má sần sùi trong bộ áo quần len rất cũ nhưng còn tươm tất, đang lom khom quì xuống cho củi vào bếp. Ông đóng nắp bếp lò lại rồi nói: - Anh biết không, rất nguy hiểm. Dễ bị hỏa hoạn. Phải canh chừng thật kỹ.

Griffin đưa cốc cà phê cho ông. - Cụ sống ngoài này suốt mùa đông à?

- Đại khái là vậy.

- Với cây kèn nhại tiếng chim bói cá à?

- Ừ, với cây kèn ấy.

- Thế còn khi có gió bão thì sao?

- Khi ấy à? Thì đã có mái che bên trên. Tôi có sẵn thực phẩm mà. - Ông quay sang một góc phòng, tháo một cái móc ra. Một khung hổng có cánh cửa mở ra.

- Tôi đã dùng khoan đục một lỗ hổng ngay tại đây, đặt cần câu, gắn mồi vào, đóng sập cửa lại rồi chờ cho lá cờ nheo giật nhẹ là biết đã có cá cắn mồi. Trong lúc đó tôi vẫn được yên ấm trong này.

Griffin nhìn thùng đựng củi đốt nói: - Số củi này cụ đâu có thể dùng lâu được!

- Một anh chàng bán củi sẽ đem đến giao thêm.

- Anh chàng ấy là ai vậy?

Khi thấy ông cụ xua tay không muốn nói, anh hỏi thêm: - Vào những mùa khác trong năm thì cụ ở đâu?

- Dưới phố. Tôi có một căn trại trên bờ hồ. Cho một đám mấy lão già bọn chúng tôi.

- Hiện giờ họ ở đâu cả rồi à?

- Florida, - ông ta khịt mũi. - Họ không lôi tôi đến đó được. - Ông đưa cốc cà phê lên uống một ngụm, rồi đặt xuống nói tiếp: - Không. Mùa đông trên mặt hồ này đã thấm sâu trong dòng máu của tôi rồi.

- Cụ đã từng sống ở đây suốt cả cuộc đời à?

Ông cụ gật đầu. - Suốt đời. - Rồi nhìn xa xăm - Mùa của tôi đang đến đấy.

- Cụ có thích mùa xuân không?

Ông cụ như chìm đắm trong một suy tư nào đó. Ông chợt nói: - Nhưng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Tôi thích cô ấy.

- Mùa xuân à?

- Không - Heather - Ống đưa mắt nhìn nhanh qua Griffin vẻ khó chịu. - Heather. Anh cho là tôi nói về ai? Mọi người quanh đây đang nói về ai nữa? Chẳng cần phải là người sống trên vùng hồ này như tôi cũng nghe nói. Nghe nhiều chuyện lắm. Dĩ nhiên họ không hỏi tôi biết những gì?

- Thế cụ biết chuyện gì?

Billy đăm đăm nhìn anh một lúc, rồi trả lời: - Tôi biết là tôi không biết anh.

Griffin đưa tay lên nói: - Cụ yên tâm.

Billy khịt mũi nói: - Tôi biết phương cách làm đường. Tôi có thể cho anh biết chuyện đó. Tôi biết cách khoan ngay đúng chỗ có nhựa cây. Tôi biết cách làm thế nào giữ cho chảo nấu khỏi bị cháy, biết lúc nào thì nhựa sôi biến chất để mình có xi rô.

- Sao cụ biết những thứ đó?

Ông ta cau mày, rồi nhăn nhó nói: - Ồ, chẳng quan trọng. - Sau đó vẻ mặt ông bỗng tươi hẳn lên. - Anh muốn xem tôi câu cá không?

Trong những ngày lễ hội trượt băng, Poppy lái chiếc Arctic Cat. Nàng không sở hữu nó. Một người bạn thương gia tại địa phương đã vui vẻ bế nàng đặt vào xe, thắt dây nịt an toàn, và cấp những chiếc nón bảo hiểm cho nàng. Poppy cảm thấy rất an toàn với chiếc Cat và nó có thể chạy trên mọi địa hình, có bốn bánh lớn bám chặt vào đường, số tự động và một cái thùng phía sau chứa được mười hai kilô thực phẩm, nước uống hay trẻ con. Nó chạy không được nhanh, nhưng điều này chẳng sao cả. Nàng không cần tốc độ. Chậm và vững vàng là tốt với nàng rồi.

Hôm nay cái thùng phía sau có hơn hai chục miếng pizza lớn bọc kín trong các bao giấy kiếng và được giữ chặt lại bằng các sợi dây thun lớn. Ngoài ra còn có hai con bé Missy và Star, người bị che kín gần phân nửa, dưới hai chiếc mũ bảo hiểm đội trên đầu.

Poppy nâng tấm plastic che mặt nhìn ra sau hỏi: - Các con ổn cả chứ? Cả hai cái mũ gật đầu. - Sẵn sàng lên đường chứ? - Cả hai lại gật đầu. Nàng đưa ngón tay cái trong đôi găng tay dài lên chờ đợi. Bọn trẻ cùng đưa ngón cái trong đôi găng của chúng lên và cười.

Những nụ cười của chúng là thứ nàng đang mong đợi nhất. Từ sáng đến giờ kể từ khi Micah đưa chúng đến nhà nàng gửi, nàng chưa hề thấy đứa nào hé miệng cười. Lúc Micah đem bọn trẻ đến, cả hai còn đang ngái ngủ trong chiếc áo ngủ dài, bên ngoài khoác áo len trùm đầu, giày ống, trông chúng chẳng vui vẻ chút nào vì bị đưa ra khỏi nhà quá sớm.

- Phải đi làm việc, - Micah chỉ nói thế khi Poppy ra mở cửa. Nàng rất thông cảm với anh. Đúng là hai con bé đang cần Micah. Với việc Heather phải ra đi chưa biết bao lâu và Marcy thì không còn nữa, anh là người thân duy nhất còn lại của chúng. Nhưng Poppy cũng hiểu được công việc làm đường với áp lực đè nặng lên vai anh. Nàng cũng đã trải qua những vụ làm mùa như thế, liên quan đến táo thay vì nhựa cây. Nàng biết rõ sự cần thiết phải thu hoạch và đưa ra chợ bán trong khi chúng hãy còn tươi tốt, phần còn lại đem ép thành rượu trước khi bị thối. Chế biến đường cùng chẳng khác gì làm rượu táo. Chỉ có một cánh cửa sổ nhỏ mở ra cho một thời vụ. Trong khoảng thời gian đó công việc phải được hoàn tất. Thu nhập của một gia đình tùy thuộc vào đấy.

Khi Micah đến với hai con bé thì Poppy vẫn chưa hoàn toàn tỉnh ngủ, nên nàng đã đem chúng lên giường ngủ với nàng. Hai đứa nhỏ đã chồng cao những chiếc gối, lật tấm chăn bông lên, bật ti vi xem. Hơi ấm của những thân hình bé nhỏ bên cạnh làm Poppy quên hẳn những ý nghĩ khó chịu về Heather cứ lởn vởn trong đầu.

Giờ đây nụ cười của chúng khi ngồi trên chiếc xe Arctic Cat này đã làm nàng nhẹ nhõm và vui thích.

Poppy hạ tấm nhựa plastic che mặt xuống, hướng thẳng về phía trước, cẩn thận cho chiếc Cat xuống bờ hồ, rồi chạy thẳng ra túp lều pizza mà Charlie đã dựng lên. Khi hai người con lớn của Charlie đem các thùng xuống, nàng quay xe lên bờ lại, đem các thùng khác tới nữa. Sau pizza là các thức uống, và sau đó là xúc xích, bánh mì kẹp thịt, bánh sữa và gia vị.

Chất đồ xong, Poppy cho xe chạy một vòng cung lớn ngang qua những nhà lưu động mới đến, các tay trượt tuyết, và những người lội bộ trên tuyết. Xa hơn nữa, mấy cô cháu đã xem cuộc đua xe hơi, và xa hơn nữa là những khoảng trống dành cho các ghe buồm trượt trên tuyết đầy các màu sắc sinh động đang lướt gió và nổi bật trên nền tuyết trắng.

Sau khi xem các nơi xong, nàng cho xe trở về lối cũ. Vào lúc về đến bờ hồ thị trấn, các con bé đã thấy đói, họ đã dừng lại ăn xúc xích và bánh pizza. Lúc ấy đám đông cũng đã đến. Những chiếc xe tải nhỏ mui trần đậu thành hàng trên đường, các xe lưu động đậu sát cạnh nhau, tất cả đã tạo nên một cảnh tượng thật sinh động. Đám đông những người mặc đồ dạo tuyết đang thơ thẩn trên hồ, hơi thở của họ bay lên như những làn khói trong khi trò chuyện, và má đỏ hồng hào. Họ mặc đồ đủ màu sắc, tạo thành một bầu không khí vui tươi khi tiến đến các quầy bán thực phẩm, áo thun ngắn tay, mũ lông thú và những tấm bảng kỷ niệm bằng gỗ. Vì có những giải thưởng bằng tiền, nên một số người tò mò và các ngư dân ở thị trấn đã tụ tập quanh một tấm bảng lớn tại trụ sở của Hội Ngư dân, vỗ tay cổ vũ những con cá vừa đánh bắt được và đem cân đo, ghi nhận các chi tiết, rồi treo lên cho mọi người xem.

Từ kinh nghiệm của những năm trước, Poppy biết là sẽ có nhiều người ngoài tiểu bang đến lẫn lộn trong đám đông ấy, nhưng chỉ có một người mà nàng biết chắc là Griffin. Ánh mặt trời rọi sáng rực mái tóc màu hung của anh, và với mảnh băng len màu xanh quấn quanh đầu che đôi tai đỡ lạnh, mái tóc ấy trông như một ngọn đèn báo hỏa hoạn trên đồi. Tuy không muốn nhìn nó, nhưng dường như nàng thấy nó khắp nơi.

Có lần anh nhìn thấy nàng và đưa tay vẫy. Poppy cũng đưa tay vẫy lại, nhưng quay ngay về những câu chuyện dang dở với những người gặp mặt trong buổi lễ hội, vì Ice Days là một sự kiện có tính chất xã hội. Người dân trong thị trấn bị giữ ở trong nhà vào những tháng tệ hại nhất của mùa đông, rất muốn được ra khỏi nhà, gặp lại bạn bè, và trò chuyện. Những câu chuyện kháo về sự ra đời của một đứa bé, cái chết của một người quen hay một vụ ly dị nào đó, những chuyện về thời tiết, những dự báo tuyết rơi sẽ kéo dài trong bao lâu, thời tiết lạnh đến mức nào và có ảnh hưởng gì đến công việc của Micah khi nhựa cây bắt đầu chảy. Dĩ nhiên còn có câu chuyện về Heather, và vì Poppy là bạn thân nhất của Heather, nên nàng cùng là mục tiêu các câu hỏi nhắm vào. Một vài câu đầu tiên ít gây tổn thương nhất, cũng na ná như những câu hỏi nàng đã gặp. Tại sao lại là Heather? Sao nó lại đến đột ngột như thế? Tại sao lại là Lake Henry? Rồi đến những nhận xét tuy có vẻ vô tình, nhưng lại mang ý nghĩa ngầm như: Cô có nhìn thấy bức hình chiếu trên truyền hình không? Bức ảnh ấy trông rất giống Heather của chúng ta, cô nghĩ sao?

Đến trưa thì những câu hỏi đã đi sâu vào cuộc sống của Heather hơn. Cô ấy từ đâu đến? Tại sao chúng ta không biết nhỉ? Cô ấy sinh ở đâu? Lớn lên ở đâu? Chắc phải có họ hàng ở đâu đó chứ? Poppy, cô là bạn của cô ấy, cô biết gì về cô ấy? Rồi, Micah biết gì về cô ấy? Anh ấy phải biết nhiều hơn chúng ta chứ! Anh ta đã sống với cô ấy mấy năm nay rồi.

Cũng có những câu phát biểu đầy ngạc nhiên và sửng sốt. Chúng ta chẳng biết gì về cô ấy cả. Làm thế nào một người có thể giấu kỹ thân phận của mình như thế?

Griffin lẫn lộn trong đám đông trên hồ, cố giữ thái độ vui vẻ và thân thiện với mọi người, vốn từng làm chuyện này ở Aspen, Vail, Snowmass, và Jackson Hole, anh rất quen với quang cảnh các buổi hội hè sinh động về mùa đông như thế này, nên không thấy ngượng nghịu chút nào hết. Buổi hội này, trái lại còn quyến rũ anh không ít. Nó không mang tính chất phức tạp cầu kỳ hình thức. Ở đây, mọi người tỏ vẻ vui mừng được gặp nhau, ở đây có một sự thương mến nhau ấm áp và thành thật.

Bản chất con người Griffin vốn tò mò, lúc nào cũng muốn đặt câu hỏi, nhưng giờ anh đã cố biến chúng thành những câu vô thưởng vô phạt về các nhà lưu động xuất hiện đột ngột qua một đêm, về mồi mà các người câu cá dùng, về những người vẽ các chiếc áo thun ngắn tay kỷ niệm ngày hội này, về cuộc thi trượt tuyết diễn ra ngày hôm sau. Cũng tò mò như mọi người, anh muốn đặt những câu hỏi về Heather. Nhưng là một kẻ từ bên ngoài đến, và dưới con mắt họ anh là người thuộc giới truyền thông, anh không dám nêu lên những câu hỏi mà chỉ cố đứng thật gần những người dân địa phương nghe họ trao đổi những thông tin trên. Nhưng mỗi khi bắt gặp anh đến gần, là họ im tiếng ngay. Griffin chỉ trò chuyện được chút ít về Heather với mấy đứa con của Charlie lúc ấy đang phụ trách một quầy bán pizza. Chúng, một đứa lên mười sáu một đứa lên mười bảy, ít có thái độ ngờ vực hơn là người lớn. Cả hai đều xác nhận Heather có làm việc ở quán cà phê mãi cho đến khi về sống với Micah. Cô đã trông nom hai đứa lúc chúng còn nhỏ, và đã coi sóc cửa hàng khi bố mẹ chúng đi nghỉ hè. Khi được hỏi Heather có bao giờ nói về cô ấy không, cả hai chỉ đưa mắt nhìn nhau rồi nhún vai. Khi anh hỏi chúng có biết gì về những bí mật của cô, chúng cũng chỉ nhún vai và im lặng.

Griffin lang thang một lúc, rồi cảm thấy cô đơn. Rõ ràng anh là người không được hoan nghênh ở đây. Đến quá trưa, anh nặng nề cất bước trở lại chiếc xe tải, quyết định về lại Little Bear. Anh có công việc cần làm. Anh vừa nhận được hai bức điện thúc giục của Prentis, Hayden.

Anh có công việc phải làm, vậy mà chiếc xe tải của anh lại không hướng về phía Little Bear nằm ở cuối bờ hồ, mà hướng về nhà của Micah.

Suốt buổi chiều Micah đã rất ít nói, nhưng Griffin thấy hài lòng với kết quả lao động của cả hai trong suốt thời gian này. Đến khi ánh sáng bên ngoài nhạt dần, thì tất cả những trang thiết bị trong nhà chế biến đường đã được chùi rửa sạch. Đủ thứ, từ những cuộn ống plastic đến các máy đo nhiệt độ, máy đo tỉ trọng chất lỏng, máy khúc xạ đến những chiếc muỗng vớt bọt lớn. Những phát biểu ngắn gọn của Micah dường như là nói cho anh ta nghe hơn là cho Griffin. “Dù cuối mùa sản xuất vừa qua mình có chùi rửa sạch chúng đến thế nào, vừa quay lưng đi là những thứ vi sinh vật lại sinh sôi nảy nở ngay. Chúng có thể hủy hoại phẩm chất của xi-rô sản xuất ra”. Một lần khác anh ta lại nói: “Phải chùi rửa chúng luôn. Lúc nào cũng phải chùi rửa”.

Giờ đây Griffin cố nén tò mò, bắt đầu bằng một câu hỏi thông thường. Anh chỉ một cái máy lớn nằm ở xa cột ống khói hỏi: - Cái đó là cái gì vậy? Micah liếc nhanh qua giàn máy, đáp - Nó có tên là R.O, nó lấy nước từ chất nhựa cây ra trước khi chất nhựa đến độ bốc hơi. Đỡ tốn thì giờ. Tiết kiệm xăng.

- Còn cái kia? - Griffin chỉ chiếc máy khác.

- Máy ép và lọc. Ngay khi có xi rô rồi, mình đổ chất xi rô nóng qua đấy. Không thể để có hột đường trong xi rô được, nếu muốn có loại xi rô thượng hạng. Phẩm chất xấu thì giá thấp.

- Vậy anh kiếm được bao nhiêu? - Anh muốn hỏi lợi tức Micah kiếm được.

- Trúng mùa à? Khoảng một ngàn hai trăm ga lông.

- Thế nào được xem như là một mùa tốt?

- Trước hết, mùa hè trước đó phải là một mùa hè, có đủ ánh sáng và nước để cây sinh trưởng mạnh, sẽ cho ta chất nhựa ngọt hơn. Kế đến mình cần một mùa đông muộn và một mùa xuân đến sớm. Nhựa cây chảy ra trong sáu tuần lễ, hay có thể ngừng chảy sau hai tuần. Thời gian càng dài mình càng thu hoạch được nhiều nhựa.

- Cái gì quyết định thời kỳ nhựa chảy đó?

- Thời tiết. Nhựa chảy khi nhiệt độ ban đêm xuống dưới độ đóng băng, và ban ngày trên nhiệt độ đó, khoảng 15°F là lý tưởng. Quá lạnh hoặc quá ấm, nhựa sẽ không chảy đúng độ của nó. Trường hợp bị bão tuyết gây hư hại rừng cây, nếu không kịp sửa chữa mình sẽ gặp rắc rối. Sẽ không có nhựa cây nếu ống dẫn chính bị vỡ. Phải tận lực khắc phục mọi thiếu sót trước khi nụ cây bắt đầu căng lên, vì nếu làm chậm hơn, cái vị của nhựa sẽ không còn nữa.

- Anh học tất cả những thứ đó từ bố anh à?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay