Bạch Hổ Tinh Quân - Hồi 17 - phần 2

Cùng lúc ấy, Tử Khuê cũng dùng "Thất hưu đao" chọn đùi trái Hắc Diện Thần Ưng làm mục tiêu. Đúng ra thì chàng nên bắt chước Tiểu Tinh để có một cái bia rộng hơn. Song chàng là bậc trượng phu chứ chẳng phải đàn bà, không nỡ đánh vào cái chỗ có thể khiến đối phương tuyệt giống, hoặc phải tủi thân đến mức treo cổ chết quách cho xong. Già khú đế như Nam - Bắc Thiên Tôn mà còn mê gái, huống hồ Vân Nam Song Hiệp tuổi mới ngoài sáu mươi.

Đối thủ của Tống Tiểu Tinh là lão Đại, nếu đúng người thật thì tên gọi Nghiêm Biểu Thành. Còn lão Nhị tên Nghiêm Biểu Thực đang đánh nhau với Dịch Quan San và Dịch Tái Vân ở vòng ngoài.

Anh em học Dịch chịu ơn sâu của Ngân Diện Hầu nên đã cố sức phá vây vào hỗ trợ, song chưa đẩy lui được Vân Nam lão Nhị. Hai gã họ Từ cũng bị chậm chân lòng nóng như lửa đốt.

Nhắc lại Vân Nam lão Đại bị Tiểu Tinh vung tay nải vào mặt, tuy nhất thời bối rối song cũng đã phản ứng rất hữu hiệu. Lão lập tức vung kiếm chặn bọc vải nhỏ kia lại, lách sang một bên để tránh ám khí. Do đó, lão chỉ bị lưỡi phi đao cắt rách y phục và trầy da đùi.

Nghiêm Biểu Thành giận dữ xông đến, quyết phân thây cái con nô tỳ xảo trá, độc ác. Lão mà không nhanh chân thì đã nát tan của quý, ôm hận cho đến chết. Lão có bốn nàng tiểu thiếp mởn mơ, nõn nà chứ đâu ít. 

Nhưng Tống Tiểu Tinh chẳng hề sợ hãi, ung dung múa gươm giải phá chiêu công vũ bão của đối phương. Kiếm pháp của nàng là sự pha trộn giữa tuyệt kỹ Lôi Đình và sở học của Thần Thuỷ Độc Vương. Cao lão thọ gần trăm tuổi, cuối đời dốc chí tu tiên, đạo tâm sáng loá nên kiếm pháp cũng uyên thâm hơn trước.

Độc dược là một ngành quan trọng của y học, phải là kẻ giỏi y thuật thì mới có thể nghiên cứu chất độc. Do đó, Thần Thuỷ Độc Vương chính thị một vị danh y. Và ông đã dùng sức thuốc để tài bồi cho cô học trò nhỏ đáng thương của mình. Nhờ vậy mà công lực của Tiểu Tinh thâm hậu hơn tuổi tác, có thể ngang nhiên cầm cự với cao thủ lão làng như Nghiêm Biểu Thành.

Phần Tiểu Tinh là thế, còn phía Tử Khuê thì sao? Mũi "Thất hưu đao" của chàng chẳng làm nên tích sự gì cả, và đã bị Hắc Diện Thần Ưng chặn đứng bằng một thế thức cực kỳ thần tốc.

Nhưng lão mặt đen ấy chưa kịp đắc ý thì Tử Khuê đã ập đến, xuất chiêu "Thiên Long yểm nhật". Đây là một trong những chiêu cuối cùng của pho "Thanh Long kiếm pháp", ảo diệu phi thường, song cũng vô cùng phức tạp, khó khăn. Ngay Băng Tâm Ma Nữ, mẫu thân Tử Khuê cũng chỉ đạt đến bốn thành hoả hầu của chiêu kiếm này. Riêng Tử Khuê, nhờ có căn cơ thượng phẩm, giác ngộ được đạo biến hoá trong kiếm thuật, nên đã đạt đến sự tinh tuý tận cùng.

Thanh trường kiếm trong tay chàng bay lượn nhanh hơn cơn lốc, trong khoảnh khắc đã đánh ra mấy trăm thế thức, hư thực khó phân, kiếm ảnh mịt mờ vây chặt đối phương.

Lý Quang Bân có cảm giác không gian như chợt u ám hẳn đi, vì từ lớp sương mờ kia hơi thép lạnh ghê người đang xâm chiếm toàn bộ thân trên của lão. Trường kiếm của Ngân Diện Hầu chỉ còn là những vệt dài mờ mờ, đảo lộn cuồng loạn tựa đàn rồng thiêng đang che phủ vầng dương.

Hắc Diện Thần Ưng kinh hoàng trước chiêu kiếm khoáng cổ tuyệt kim ấy, cắn răng dồn hết mấy chục năm tu vi vào hữư thủ, múa tít thanh "Ưng trảo", dệt màn lưới thép mà phòng thân.

Quả xứng danh bá chủ Hoa Nam, trước mặt Lý Quang Bang hiện ra một luồng hắc quang dày đặc, kín đáo, liền lạc tựa da trời. "Ưng trảo" xé gió vù vù, khí thế rất mãnh liệt tưởng như có thể đánh bạt cả cuồng phong. 

Nhưng thay vì thép chạm thép vang rềnh thì chỉ có những tiếng "tinh tang" rất nhẹ. Tử Khuê đã đưa kiếm xuyên qua màng trảo ảnh, lần lượt đâm vào năm phương vị trên người kẻ địch, mà mũi kiếm chỉ phớt chạm thanh "Ưng trảo".

Điểm kỳ ảo của chiêu "Thanh Long yểm nhật" là như thế đấy. Chỉ sau khi thụ dụng "Thiên niên Hà thủ ô" trong Từ Thạch ốc, Tử Khuê mới đủ chân khí để thi triển thành công chiêu kiếm thần diệu này. Mỗi nhát đâm của chàng phải có tốc độ tương đương cú mổ của độc xà, nghĩa là chỉ bẳng nửa cái chớp mắt.

Tử Khuê đắc thủ song kết quả chẳng hề khả quan. Bởi đúng là Hắc Diện Thần Ưng có mặc áo giáp bên trong tấm trường bào lụa màu xám tro. Nhờ vậy mà Lý Quang Bân không chết bởi hai nhát kiếm đâm trúng ngực, mà chỉ bị thương ở hai đùi và trán. Ba thương tích ấy cũng không nặng vì chính hai nhát đâm vào áo giáp đã đẩy lão lùi lại một chút. Nếu không thì Thần Ưng đã thủng óc, đứt động mạch đùi, biến thành món gà nướng cho Diêm Vương.

Thoát chết trong đường tơ kẻ tóc, Lý Quang Ban thầm biết ơn Long Vân Tú Sĩ. Chính vị thượng cấp sáng suốt ấy đã cho lão mượn tấm bảo y này.

Tuy hơn ngán ngại tài đánh kiếm của Ngân Diện Hầu, song Hắc Diện Thần Ưng vì tự ái của một bá chủ, một cao thủ thành danh mà không chịu đào tẩu ngay. Lão còn cho rằng mình bị hạ phong vì gã oắt con kia đã chiếm được tiên cơ, khi lão mất thời gian đỡ gạt mũi phi đao. Lập luận cũng rất hợp lý vì các đại cao thủ thì bất cứ động tác thừa nào cũng tai hại, bị đối phương lợi dụng ngay. Hơn nữa lão có áo giáp bảo vệ ngực bụng, ưu thế rất lớn.

Do những suy nghĩ chủ quan ấy, Hắc Diện Thần Ưng bình tâm trụ tấn, chống đỡ chiêu kiếm thứ hai của Ngân Diện Hầu. Gã ta đã ập vào ngay chứ không để lão ta yên thân mà cân nhắc quá lâu.

Thần Ưng đã phán đoán có phần hợp lý chứ không sai hoàn toàn. Đầu và tứ chi là những bộ phận nhỏ bé linh hoạt, thường xuyên di động nên rất khó bị đâm trúng. Chiêu kiếm tiếp theo của Từ Khuê nhắm vào mặt Lý Quang Ban đã bị lão hoá giải chẳng mấy khó khăn.

Tử Khuê thực sự bối rối vì chưa bao giờ rơi vào hoàn cảnh này. Trong khi hai pho "Thanh Long kiếm pháp" và "Lôi Đình kiếm pháp" hầu như mọi chiêu kiếm đều có những thế thức đánh vào ngực, bụng đối phương. Ngay cả khi mục tiêu chính là vùng mặt thì chiêu ấy cũng có những đòn hư ảo, uy hiếp phần thấp hơn, dụ cho kẻ địch để lộ sơ hở ở đầu. Nay Lý Quang Bân mặc áo giáp, tất sẽ chẳng thèm lưu ý bảo vệ tâm thất, làm sao trúng kể được. Tử Khuê chỉ còn cách thi triển khoái kiếm đến độ chót, ra đòn như báo táp mưa sa, đâm chém vào những mục tiêu chật hẹp ấy chẳng theo một chiêu thức nào cả. Vì không có chiêu kiếm nào tấn công hai phương vị cách nhau quá xa là đầu và chân, bỏ qua thân giữa. Khi ấy đường gươm sẽ chậm chạp, lỗi nhịp và lộ sơ hở rất lớn.

Nhưng đây chính là lúc để Tử Khuê thâm nhập cảnh giới vô chiêu thượng thừa. Trong điều kiện bình thường, mục tiêu không bị giới hạn, kiếm của chàng biến hoá theo phương thức dùng một chiêu khác nối vào một chiêu dở dang, gọi là biến chiêu. Giờ đây thế thức nối tiếp thế thức, đòn nối tiếp đòn, liên miên bất tuyệt tựa sóng xô, lúc hư lúc thực chẳng theo khuôn khổ. Và khi đã vô chiêu thì đối phương không thể hoá giải được, chỉ còn cách né tránh họăc thoái hậu.

Dĩ nhiên là Tử Khuê chẳng đạt ngay cảnh giới ấy, mà phải sau một giai đoạn bỡ ngỡ. Ban đầu, Hắc Diện Thần Ưng đã chiếm thượng phong, dễ dàng tự vệ và phản công lại, thanh "Ưng trảo" đáng sợ của lão hung hãn bay lượn, chụp lấy thân thể to lớn không được áo giáp che chở của đối thủ. Cái bia của lão có diện tích rất rộng rãi và dễ bị tổn thương.

Những lúc ấy, Tử Khuê chỉ còn biết chống đỡ thụ động, rồi thoát ra bằng bộ pháp "Tiên nữ tuỳ phong". Trong chớp mắt chàng đã ở ngoải tầm với của thanh "Ưng trảo" và ập vào phản kích.

Trong "Tam thập lục kế" của người Trung Hoa chẳng phải ngẫu nhiên mà "Tẩu kế" là mưu chước cuối cùng, và họ còn có câu "Tẩu vi thượng sách" hoặc "Dĩ đào vi thượng". Thực ra, đào tẩu, tránh né là cả một nghệ thuật, một triết lý cao siêu, phải biết bỏ đi đúng lúc và đúng cách. Chỉ có những bậc trí giả mới nắm được tinh tuý của diệu kế này. Chẳng phải là "tẩu" trong lúc khó khăn, nguy hiểm, mà còn phải biết đào thoát khi đang thuận lợi, đắc thể. Phạm Lãi bỏ CâuTiễn, Trương Lương rời Lưu Bang được hậu thế xưng tôn là bậc minh triết, đã chứng tỏ giá trị của "Tẩu kế". 

Còn về phương diện võ học, nữ nhân luôn giỏi khinh công hơn nam nhân. Ngoài những yếu tố thể chất đã kể ở hồi trước, phải nói đến mặt tinh thần. Tựu trung, đàn bà vốn thực tế, ít ảo tưởng hơn đàn ông. Quan niệm sống của họ đơn giản, hiền hoà nhưng lại rất gần với chân lý, với đạo của tự nhiên. Họ khôn ngoan như dòng nước, tránh chỗ cao, chảy về chỗ thấp. Cho nên họ không háo danh, hoặc khi thanh danh có rồi thì chẳng luỵ vì danh. Họ sẵn sàng rút lui nếu chạm phải cường địch, chẳng dại gì ở lại mà thiệt thân. Chính vì thế, họ chú trọng vào môn khinh công, dùng cái tâm tư tinh tế, tỉ mỉ của mình mà tìm ra cách đào tẩu, tránh né nhanh nhất.

Tóm lại, vì những lý do ấy nên pho thân pháp "Tiên nữ quá phong" ảo diệu hơn pho khinh công "Thao quang" hoặc "Lôi Tinh".

Tử Khuê biết cả ba pho khinh công này, song vẫn chuộng sở học của Hoành Sơn Ma Nữ hơn. Chàng nhờ nó mà cầm cự với Lý Quang Ban trong thế hạ phong, cho đến lúc giác ngộ hoàn toàn được yếu quyết vô chiêu.

Và khi đó, kẻ bị lép vế lại là Hắc Diện Thần Ưng. Lão tối tăm mặt mũi vì những nhát kiếm nhanh như chớp và cực kỳ chuẩn xác của đối phương. Chúng bám chặt thủ cấp của lão bất kể việc nó ngả nghiêng sang hướng nào. Và lão không sao dùng vũ khí mà đỡ gạt trúng lưỡi kiếm. Dù đã khôn ngoan thoái hậu nhưng gương mặt oai phong của Hắc Diện Thần Ưng cũng bị tàn phá. Thủng hai má, rách mũi, đứt vành tai bên tả…. là những thương tích không nguy hiểm đến tính mạng song cũng đã làm cho nạn nhân mất hết dũng khí.

Nhất là khi bên kia, Vân Nam lão Đại Nghiêm Biểu Thành đột nhiên rú lên thảm khốc, gục ngã đương trường. Hồn phi phách tán, Hắc Diện Thần Ưng ném mạnh một trái yên cầu xuống mặt đường, tạo ra luồng khói trắng mù mịt rồi đào tẩu.

Tử Khuê có thể phóng phi đao lấy mạng lão ta như từng giết Xảo Diện Khách, song chàng đã nương tay.

Chỉ lát sau, phe Long Vân Bảo rút sạch, để lại đấu trường hai mươi mấy tử thi.

Trưa mồng bốn tháng ba, đoàn người về đến Quách gia trang.

Tử Khuê bồi hồi xúc động bước qua cánh cửa nhà mình, nơi đầy ắp những kỷ niệm vui buồn của tuổi thơ. Nhưng sau lần đụng độ phục binh của Long Vân Bảo, chàng lại càng chẳng dám nghĩ tới việc tiết lộ lai lịch.

Gương mặt bình thản của Băng Tâm Mà Nữ Kỹ Thanh Lam đã khiến bọn Thiên Kim ngạc nhiên. Nữ Hầu đành hạ giọng lựa lời hỏi bà:

- Bẩm mẫu thân, dám hỏi người có nhận được tin tức gì từ Lữ gia trang hay không?

Quách phu nhân lắc đầu, cau mày hỏi lại:

- Không! Phải chăng các ngươi đã ghé Dụ Châu và biết được chuyện gì?

Dịch Quan San lo cho Kỹ Tòng Thư nên cướp lời Thiên Kim:

- Bẩm Lam nương! Thế Đại Cửu phụ hiện đang ở đâu?

Quách phu nhân ngơ ngác đáp:

- Đại ca ta đã đi du ngoạn Bắc Kinh từ hôm rằm. Nhưng sao thái độ các ngươi lại khẩn trương như thế?

Bọn Thiên Kim thở phòng nhẹ nhõm rồi kể lại chuyện Long Vân Bảo bắt cóc Kỹ Lưu Tiên để dụn Tong Thư đi Dụ Châu. Nghe xong Quách phu nhân đưa ra nhận xét:

- Lão thân hiểu rồi, có lẽ gã đưa thư là người của Long Vân Bảo. Nghe nói đại ca đi bắc kinh chẳng rõ bao giờ về nên phe đối phương thất vọng bỏ đi.

Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các cũng hiện diện. Lão vuốt râu đỡ lời:

- Phu nhân bàn rất phải! Nhưng lão phu e rằng kẻ địch đã lên Bắc Kinh tìm bắt Kỹ đại ca.

Băng Tâm Ma Nữ giật mình biến sắc:

- Cảm tạ Trình lão huynh đã chỉ giáo. Tiếc rằng chuyết phu đang lâm bệnh, lão thân chẳng thể xuất trang trong lúc này. Có lẽ…

Nghe nói Quách trang chủ ngã bệnh, Tử Khuê vô cùng lo lắng. Chàng cũng đoán ra rằng mẹ mình sẽ sai Thiên Kim, Tái Vân, Quan San kéo quân thượng kinh để rước Tòng thư. Không muốn họ vất vả, Tử Khuê lên tiếng:

- Bổn hội mới khai trương, mối mang chưa được nhiều. Nếu phu nhân chiếu cố, Bảo An Hội sẽ nhận việc này với giá phải chăng.

Quách nương mừng rỡ đáp:

- Thế thì hay quá! Bổn trang từng thọ ơn của Hầu gia nên chẳng dám hỏi giá cả.

Bà nói thế thì không khác gì bắt đối phương phải nói rõ phí tổn. Tử Khuê biết tỏng tính cẩn thận trong chi tiêu của mẹ mình, liền cười bảo:

- Kinh doanh phải minh bạch. Bổn hội chủ xin nhận bảo vệ Kỹ lão gia an toàn về đến đây, với giá một vạn lượng vàng.

Cái giá khá cao này đã khiến Quách phu nhân đau bụng và làm cho bọ Thiên Kim ngỡ ngàng. Ngân Diện Hầu đã hết lòng hỗ trợ họ, sao giờ lại mài dao sắc thế?

Tuy hà tiện nhưng Băng Tâm Ma Nữ vẫn xem trọng an nguy của đại ca mình hơn vàng bạc. Bà bóp bụng khẳng khái đáp: 

Lão thân đồng ý! Xin Hầu gia tiến hành ngay cho. Lão thân có sẵn bức họa chân dung gia huynh, người của quý hội cứ đến Trương gia trang ở Chu Khẩu điếm phía Tây Nam thành Bắc Kinh tất sẽ gặp. Trang chủ phu nhân là biểu muội của anh em lão thân.

Tử Khuê gật đầu, quay sang bảo Từ Phong:

- Các hạ hãy dẫn anh em quay về Trịnh Châu, lấy thêm người rồi thượng kinh, đưa Kỹ lão gia về đây. Số vàng kia ta tặng hết cho các ngươi.

Vàng là cái thứ kim loại có màu sắc rực rỡ, hấp dẫn nhất thế gian, và không chừng còn có mùi quyến rũ nữa. Do đó, Từ Phong suy nghĩ rất nhanh:

- Nay công tử vì mê gái mà sẽ ở ghịt nơi này, chẳng cần bảo vệ nữa. Bọn ta dại gì mà không đi Bắc Kinh một chuyến cho thỏa chí bình sinh. Còn việc đưa lão họ Kỹ kia về Hứa Xương thì quá dễ, chỉ cần hóa trang cho lão là xong.

Đã có chủ ý, Từ Phong phấn khởi phúc đáp:

- Bọn thuộc hạ xin tuân mệnh! Kỹ lão gia sẽ hồi trang mà không mất một mảy lông.

Tử Khuê hài lòng, quay sang bảo Quách phu nhân:

- Xin phu nhân trao trước một nửa để anh em làm lộ phí. Số còn lại, bổn hội sẽ nhận khi hoàn thành nhiệm vụ.

Kỹ Thanh Lam rởi khách sảnh về khuê phòng lấy vàng và bức chân dung của Tòng Thư.

Sau bữa cơm trưa, bọn Thần Phong kiếm thủ lập tức lên đường. Hơi vàng đã khiến bọn họ phấn chấn, chẳng hề nghe mệt mỏi dù không được nghỉ ngơi.

Tử Khuê và Tiểu Tinh lưu lại làm thượng khách của Quách gia trang. Họ được chủ nhà bố trí ở trong một tiểu viện xinh xắn, mé tây vườn hoa lớn.

Ngay chiều hôm ấy, Tử Khuê theo đúng lễ mà hỏi han bệnh tình của Quách trang chủ. Chàng đã bủn rủn tứ chi khi nghe mẹ mình buồn rầu đáp rằng:

- Cảm tạ Hầu gia đã có dạ quan hoài. Chuyết phu tuổi cao, sức khỏe rất kém. Ông ấy lại thích uống rượu nên gan bị tổn thương. Mười ngày trước đã xuất hiện triệu chứng đau bụng, vàng da, vàng mắt. Lão thân e rằng chuyết phu khó thọ được lâu.

Tử Khuê cố nén lòng lại hỏi:

- Bẩm phu nhân! Chẳng lẽ không có kỳ trân, dị dược nào trị được bệnh ấy sao?

Băng Tâm Ma Nữ cười thảm:

- Thực ra, nền y học Trung Hoa đã bó tay trước rất nhiều căn bệnh chứ chẳng phải chỉ có tứ chứng nan y. Lão thân đã hấp thụ trọn vẹn sở học của Cửu Hoa Thánh Y mà cũng không cứu nỗi mạng trượng phu, ngẫm lại thật đáng hỗ thẹn.

Tử Khuê rầu rĩ trở về tiểu viện. Tống Tiểu Tinh nhận ra những nét ưu tư ấy khi chàng tháo mặt nạ bạc. Tiểu Tinh ân cần hỏi han và được nghe Tử Khuê thuật lại nguồn cơn. Nàng vốn là người nhân hậu nên buột miệng xót thương ngay:

- Tội nghiệp cho Quách trang chủ!

Bỗng Tiểu Tinh thoáng cau mày, trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Nô tài vừa chợt nhớ lời dạy của tiên sư. Người từng bảo rằng bệnh xơ gan cổ trướng có thể chữa khỏi nếu tìm được ba quả "Hắc ngọc tiên đào". Loại kỳ trân này có diệu dụng sinh cơ tạo nhục, phục hồi những tổn thương trong phủ tạng con người.

Tử Khuê vui mừng khôn xiết, run giọng hỏi:

- Thế lệnh sư có đưa ra trường hợp cụ thể để chứng minh cho luận cứ ấy hay không?

Tiểu Tinh mỉm cười khẳng định:

- Bẩm có! Chính gia sư tổ là người chứng thực giá trị của "Hắc ngọc tiên đào".

Tử Khuê cố nén nỗi hân hoan ngút trời, nói pha trò:

- Thế thì tốt quá. Bổn nhân sẽ đưa nàng đi tìm linh quả, về bán lại cho Quách gia trang mà kiếm vạn lượng vàng.

- Chẳng lẽ Hầu gia đã biết nơi có tiên đào?

Tử Khuê đắc ý gật gù:

- Đúng vậy! Địa phương ấy chính thị Lôi Đình Thần Cung.

Tiểu Tinh cho rằng Mẫn Hiên biết việc ấy qua Tiêu Lạp Dân nên không thắc mắc. Nàng chỉ lo lắng và lựa lời khuyên giải:

- Xin Hầu gia chớ vội mừng! Lôi Đình Đế Quân rất muốn cháu gái mình Tiêu Dị An lên làm Hội chủ Hoạch Đầu Hội. Nay Hầu gia tự ý thay đổi tôn chỉ của tổ chức ấy, nếu đến Thần Cung tất sẽ bị Trác cung chủ khép tội, chẳng chết cũng lâm cảnh lao tù. Nhược bằng Tiêu đại tiểu thư không thể khỏi bệnh, Trác Ngạn Chi cần người để duy trì cơ nghiệp Hoạch Đầu Hội nên nương tay, thì lão cũng chả dại gì ban cho Hầu gia ba quả tiên đào giá trị liên thành. Mong Hầu gia suy nghĩ lại!

Tử Khuê rất cảm động trước sự quan tâm sâu sác của Tiểu Tinh. Nhưng chàng chẳng thể nói ra sự thật, nên chỉ còn cách trấn an nàng:

- Ta đã hiểu được những khó khăn nàng vừa giải bày. Chúng ta không đến Thàn Cung một cách công khai, mà sẽ đột nhập và lấy trộm "Hắc ngọc tiên đào".

Biết ý chàng đã quyết, Tiểu Tinh lo sợ đến sa lệ, nghẹn ngào can gián lần cuối:

- Tài sản Tiêu gia chẳng ít, xin tướng công chớ vì vạn lượng vàng mà để cho con thơ phải mất cha.

Tử Khuê hoan hỉ phi thường nắm chặt vai nàng, tươi cười bảo:

- Tạ ơn trời đất. Nhưng nàng có chắc là mình cấn thai chưa?

Tiểu Tinh thẹn thùng cuối đầu thỏ thẻ:

- Nô tài trễ kinh đã bốn hôm, tự chẩn mạch thì phát hiện mình có hiện tượng thai nghén.

Biết nàng giỏi y thuật, chẳng thể lầm lẫn được, Tử Khuê cao hứng cuối xuống hôn lên trán Tiểu Tinh. Nhưng chàng vẫn phải lên đường tìm linh quả về cứu mạng cha già, nên chỉ còn cách khai thực thân phận với Tiểu Tinh. Có như thế nàng mới cam tâm ở lại Quách gia trang chờ đợi. Giong ruổi trên lưng ngựa suốt mấy ngàn dặm đường là việc mà một thai phụ phải tuỵêt đối cấm kỵ.

Tử Khuê cuối xuống bồng nàng đặt lên giường. Chàng cũng lên theo nằm bên cạnh và bắt đầu kể rõ ngọn ngành.

Nửa canh giờ sau, Tiểu Tinh mới chịu tin rằng Tiêu Mẫn Hiên là Quách Tử Khuê, và nàng đã khóc muồi, dặn dò chàng bảo trọng lên đường tìm thuốc cho Quách lão gia. Ngược lại, Tử Khuê cũng phân phó những việc mà Tiểu Tinh phả làm nếu chàng không quay về Hứa Xương.

Trong bữa uống trà đàm đạo sau bữa cơm tối, Tử Khuê nghiêm nghị nói với mẹ mình:

- Bẩm phu nhân! Vãn bối nghe nói "Hắc ngọc tiên đào" của Lôi Đình Thần Cung có thể trị được chứng xơ gan. Dám hỏi phu nhân tin việc ấy không?

Băng Tâm Ma Nữ thờ ơ gật đầu:

- Trong y kinh của gia sư thúc cũng nhắc đến giả thuyết ấy. Nhưng người lại chú thích rằng việc này không đáng tin cậy vì chưa có chứng minh cụ thể.

Tử Khuê bình thản nói tiếp:

- Thực ra, hơn sáu mươi năm trước, có một người đã được "Hắc Ngọc tiên đào" cứu mạng dù bị xơ gan đã ba năm. Người ấy là Nhật Nguyệt Lão Nhân, sư phụ của Thần Thuỷ Độc Vương Cao Mộng Đắc.

Trình Kiếm Các không dằn nổi tính hiếu kỳ, hỏi lại ngay:

- Nhưng tại sao Tiêu Hầu lại biết một việc quá xa xưa như thế? Hay đấy cũng chỉ là lời đồn?

Tử Khuê nhìn lão cười đáp:

- Trình lão gia cứ yên tâm! Vãn bối tỏ tường điều ấy vì nàng tiểu thiếp họ Tống này chính là đồ đệ của Cao Độc Vương.

Cả nhà bàng hoàng, nhìn Tiểu Tinh với ánh mắt nghi hoặc. Người duy nhất tin lời Ngân Diện Hầu là Dịch Quan San. Gã vỗ đùi nói:

- Té ra là thế! Hèn gì ta giết được một cao thủ lão thành như Vân Nam lão Đại, khiến Dịch mỗ không sao hiểu nỗi. 

Bằng có hùng hồn ấy đã khiến những người khác tin tưởng hơn trước. Băng Tâm Ma Nữ cũng tràn trề hy vọng, niểm nở hỏi lại Tiểu Tinh:

- Này Tống điệt nữ! Mong ngươi lên tiếng xác nhận lại cho lão thân yên tâm.

Biết bà là mẹ chồng mình, Tiểu Tinh đâm ra sợ hãi, líu ríu thưa:

- Bẩm phu nhân! Tiểu nữ xin cam đoan đấy là sự thật.

Bà mừng rỡ, quay sang hỏi Trác Thanh Chân:

- Chân nhi! Lôi Đình Thần Cung ở địa phương nào? Con hãy chỉ vẽ rõ ràng để ta cử người đến đấy hỏi mua linh quả.

Trác Thanh Chân cùng Tống Thụy đều đã khá hơn trước, mặt hoa hồng hào, đầy đặn. Vì vết sẹo trên góc trán Thanh Chân đã gần như bíến mất, chỉ còn là một dấu chấm lõm mờ nhạt. Nhưng khổ thay, ả họ Trác vẫn chưa tỉnh táo hoàn toàn, ánh mắt và cử động chỉ lộ rõ vẻ ngốc nghếch khờ dại.

Nghe mẹ chồng hỏi vậy, Thanh Chân ngơ ngẩn, tròn mắt đáp:

- Bẩm mẫu thân, Lôi Đình Thần Cung là cái chi chi và nó ở đâu thì hài nhi làm sao mà biết.

Cả nhà thất vọng, thở dài chán nản. Thiết Đảm Hồng Nhan thân thiết với Thanh Chân hơn cả, liền dịu dàng nhắc nhở:

- Đấy chính là nơi mà Tam thư đã đến ăn trộm quả đào màu đen và cứu mạng cái gã Bàng Nguyên Hối.

Thanh Chân nhăn mặt nhíu maỳ, vò đầu bức tóc ra chiều suy nghĩ, miệng thì lẩm bẩm "Đào đen…đào đen…."

Lát sau, nàng ngượng ngùng nói ấp úng:

- Bẩm mẫu thân! Hài nhi chẳng thể hình dung ra đường đi nước bước, chỉ loáng thoáng nhớ được rằng cái cây đào trái màu đen ấy ở trong một khu rừng, dưới chân một ngọn núi đá cao.

Rừng núi thỉ có ở khắp cùng Thiểm Bắc. Thanh Chân nói thế cũng bằng thừa. Băng Tâm Ma Nữ chán chường nhìn đứa con dâu dở người với vẻ thương hại pha chút bực bội.

Nhưng Tử Khuê lại quan tâm đến yếu tố khác. Chàng dịu giọng hỏi Thanh Chân.

- Chẳng hay tiểu thư có còn nhớ cách xuất nhập trong khu rừng ấy hay không? Xin tiểu thư biểu diễn cho tại hạ xem thử.

Thanh Chân rất thích chiếc mặt nạ bạc xinh xắn kia, nên có cảm tình với Ngân Diện Hầu. Nàng hớn hở đứng lên ngay và yểu điệu bước đi. Lạ thay, Thanh Chân tiến tới với cùng một trật tự gồm các bước: tiến tam, hữu tứ, tiến nhị, tả thất. Và khi quay lại thì trật tự ấy đảo ngược.