Mẫu Thượng Ngàn - Phần 06 - Chương 01
Phần VI - Chương 1: VI: NGƯỜI CỔ ĐÌNH
Trước tiên, Điều dẫn Nhụ đến cây đa đầu làng. Một cây đa cổ thụ trứ danh, gốc to chục người ôm không xuể. Nó là niềm kiêu hãnh của Cổ Đình. Một cây đa vừa hùng vĩ, vừa đẹp, người trong vùng ai cũng biết. Người ta dùng nó làm điểm xác định vị trí. Ví dụ: "Làng tôi là làng Già, cách cây đa Cổ Đình hai cây số về phía đông"; hay là: "Đồn điền Mắt Mèo ở trên đường về Cổ Đình, cách cây đa ba cây số", v.v... Người ta bảo chắc cây đa phải đến trên ba trăm năm tuổi. Tán của nó phải che kín mẫu đất. Cây đa cao to sừng sững, đứng ở tít xa đã trông thấy ngọn của nó vươn lên khỏi lũy tre làng. Cây đa thiêng thành thử lũ trẻ chăn trâu chẳng đứa nào dám nghịch ngợm leo trèo. Bốn cái rễ phụ ở bốn phía đâm xuống đất lâu ngày dần lớn lên thành bốn thân cây nhỏ khác, tuy nhỏ nhưng cũng phải bằng cột nhà. Các cụ bảo đó là bốn quân hầu, tứ trụ triều đình phò tá thần cây. Ngoài ra, còn nhiều rễ phụ khác, có những rễ nhỏ như ngọn tay, ngón chân, có những rễ li ti nhỏ như chân hương, như sợi chỉ thõng rủ xuống tạo thành những mớ tóc dài. Trên những chùm rễ phụ, người ta buộc những ông bình vôi, trong bụng đã đặc kịt. Lũ ông bình vôi lủng lẳng ở khắp mọi cành, cái treo cao, cái treo thấp. Đêm xuống, gió to, lũ ông bình vôi đu đưa, trông xa lờ mờ như những đầu lâu bị treo tóc ngược lên. Chúng đánh võng trong những đêm dông, va vào nhau lốp ca lốp cốp.Vì ít có người đi lại ở gốc, nên những rễ đa bò lổm ngậm trên mặt đất ở khắp nơi dưới bóng cây. Cớ những rễ nổi lộ ra, có cái nửa chìm nửa nổi, có cái lại sùi to ụ lên, có cái ngoằn ngoèo uốn lượn như những con rắn. Điều là anh con trai táo tợn, nhưng cũng chẳng muốn vào gần sát gốc, Ở đó rễ chồng chất lên nhau, tạo ra những lỗ hổng, hang hốc. Người ta bảo nhiều rắn làm tổ tại đây. Dân làng, có người nói đã trông thấy một đôi rắn trắng, mào đỏ, to hơn cổ tay, dài như đòn gánh. Dân làng thì thầm: "Đó là đôi ngựa để ngài cưỡi đi tuần quanh làng xóm".Sau vụ cụ Đốc Ngữ khởi quân đánh Tây, mấy chục nghĩa sĩ bị bắt, đã bị chặt đầu dưới gốc đa này, rồi còn bị treo đầu bằng tóc vào rễ đa, theo kiểu những ông bình vôi Sau vụ thảm sát ấy, xóm làng còn bị một trận dịch tả tàn sát. Sau hai tai họa đổ xuống đầu, xóm làng tiêu điều xơ xác.
Dân làng bèn đóng góp, xây bàn thờ tại gốc đa. Bàn thờ ở gần gốc đa, cách gốc chừng năm mét. Ban thờ gồm hai bậc. Bậc trên xây hình cái ngai, ở đầu hai tay vịn là hai cái đầu rồng. Trên ngai đặt bài vị bằng đá trên khắc bốn chữ "Đại thụ linh thần". Bậc dưới có lọ cắm hoa, bát hương; đó là nơi đặt đồ cúng lễ. Lúc nào trên ban thờ cũng thấy đặt nậm rượu, và năm trăm vàng hoa ngũ sắc.
Nói tới cây đa làng, còn phải kể đến ông Thần Cẩu, tức con chó đá thờ. Ngài thần chó đá này khá to. Nó khác những con chó đá vẫn để ở trước cổng nhà. Pho tượng bằng đá xanh nhẵn bóng. Tượng Thần Cẩu đục khá công phu, thành hình con chó hẳn hoi. Chỉ có cái đuôi, vì thiếu đá, nên không vểnh lên như bông lau mà chỉ là một mẩu đá cụt. ông Thần Cẩu cao ngang thắt lưng người, đặt bên cạnh bàn thờ gốc đa.Năm xưa, làng động, thầy hộ Hiếu bảo lý do còn vì cái nghĩa địa nằm ở chân quả đồi ở phía trước đầu làng. Nghĩa địa nhòm vào làng là độc lắm. Nhiều thầy phong thủy, nhất là ông Hoàng Sùng Lâm nhìn thấy cái nghĩa địa này cứ lắc đầu mà không dám nói. Chẳng là ngày xưa, đồng làng, lúc mưa to hay bị ngập úng. Có ông thầy Tầu khăn gói đi qua bảo rằng chân quả đồi, có một huyệt táng rất đẹp, táng vào chỗ đó có thể phát tới năm đời. Tiên chỉ Nhậm nuôi thày Tầu suất ba tháng ròng. Ông ta tìm các huyệt mộ trong vùng, cuối cùng chẳng thấy huyệt nào đẹp hơn. Sợ mọi người phản ứng nên tiên chỉ Nhậm đã mang hài em của bố mình chôn lén ban đêm. ở đấy. Chôn xong lại khỏa đất sao cho như thường để không ai nhận ra. Chuyện táng mộ rất bí mật, ban đêm chôn thầm, chẳng đèn, chẳng đuốc. Giữ bí mật được mấy năm, nhà tiên chỉ có tên đày tớ phản chủ, hắn trốn khỏi làng, nhưng trước khi đi đã hé lộ cho dân làng biết chuyện ấy.Dân nghèo không có tiền thuê thầy địa lý tìm âm trạch, song thấy quả đồi cao ráo thuận tiện nên cũng bảo nhau táng theo vào đó. Thứ nhất là để cầu may, tìm chút hơi hướng còn sót lại của ngôi huyệt mộ. Người ta bảo ví dụ huyệt là cây bút lông, người giàu tìm đúng huyệt táng cha mẹ vào nơi ngòi bút. Còn mình nghèo hơn, cứ táng vào, may ra trúng vào cái quản bút thì sao. Thứ hai, đồng làng thì trũng, núi làng thì nhiều, cớ sao không đưa xương cất các cụ lên đồi mà cứ để ngâm xương dưới đồng mãi như thế.Thành thử cái nghĩa địa ấy không định mà thành. Bây giờ, trong làng, gia đình nào cũng có mộ Ở đó. Không dễ dàng gì khi muốn di chuyển cái nghĩa địa với hàng trăm ngôi mộ đó đi. Tuy nhiên, nếu cứ để nguyên, tà khí của nó chiếu thẳng vào cổng làng, sẽ xâm hại đến cả làng. Bàn xuôi bàn ngược mãi, ông hộ Hiếu bảo chỉ còn cách trấn yểm. Hội đồng kỳ mục giao việc này cho ông Hiếu. ông mượn thợ, tạc một con chó đá có lỗ thủng ở bụng, vẽ một đạo bùa yểm nhét vào đó. Làm xong, ông cho xây bệ đặt chó đá nhìn thẳng vào nghĩa địa chân đồi.Lão nhà giàu là Cửu Nhậm (lúc đó Nhậm chưa làm tiên chỉ), đang làm ăn ngoài Hà Nội rất phát đạt, về làng, thấy chó đá nằm dưới gốc đa, biết rằng nghĩa địa, nghĩa là mộ nhà mình bị trấn yểm. Lý Cỏn là cháu họ cửu Nhậm, hương Ất cũng thuộc họ đồng tông, không muốn dây vào chuyện này, bởi vì cửu Nhậm thuộc chi Quý mà Cỏn và Ất thì ở chi Mạnh chi Lương nên mả của bố Nhậm mà phát thì họ cũng chẳng xơ múi gì. Do vậy, đám lý dịch án binh bất động. Cửu Nhậm, tức tiên chỉ Nhậm sau này, căm lắm. Lão liền nhờ đám lính khố xanh trên huyện, và một lũ đầu trâu mặt ngựa ngoài Hà Nội về. Một đêm tối trời, cánh cửu Nhậm ra gốc đa đào con chó đá, lén vứt xuống hồ Huyền. Lý Cỏn, hương Ất lờ đi vì cùng người họ Vũ Xuân cả, ai lại nỡ ra tay với nhau. Điều này dễ hiểu, nhưng điều khó hiểu là cả lão hộ Hiếu, người chủ trương tạc con chó đá ấy cũng bình tĩnh như không có gì. Dân ra chùa để hỏi, hộ Hiếu chỉ cười và nói:
Dân Cổ Đình xì xào: "Cánh họ Đinh sợ cánh họ Vũ Xuân rồi". Nhưng người ta càng ngạc nhiên hơn nữa, vì chỉ mấy hôm sau đó, người ta thấy con cháu ông Vũ Xuân Nhậm đem thuyền ra giữa hồ Huyền, lặn hụp suất một buổi mới tìm thấy con chó đá đem trả về gốc đa chỗ cũ. Hỏi thì họ bảo:
Dân làng Cổ Đình thấy chó đá thiêng, từ đấy gọi hòn đá tạc ấy là ông Thần Cẩu.