Mẫu Thượng Ngàn - Phần 14 - Chương 03 - Part 01
Chương 3
Dòng người đổ về Cổ Đình càng lúc càng đông. Đủ các loại người: Cả sang lẫn hèn, cả già lẫn trẻ. Đủ màu đủ sắc. Chỗ thì quần nâu áo vải, chỗ thì váy lĩnh váy sồi. Kẻ thì mớ ba mớ bảy, kẻ thì mộc mạc nâu non. Thấp thoáng nổi lên cả áo xanh áo đỏ của những ông đồng bà bóng. Có người thuần túy đi xem hội, đến hội để tìm vui. Cũng có kẻ đến hội để bắt mối giao duyên. Không thiếu người trẩy hội cốt tìm về với Mẫu, xin Mẫu chữa bệnh; có người chỉ đơn giản xin một lá bùa, nhưng cũng có người xin cả một niềm vui lớn, cầu Mẫu ban cho một đứa con. Những ông cung văn lưng đeo đàn đến hát hầu Mẫu, theo sau lốc nhốc đám học trò mang trống phách, cùng với đám con nhang đệ tử lễ mễ xách những bu gà, hoặc đội trên đầu những mâm ngũ quả, bánh trái. Có người đi cả gia đình, mang cả bầu đoàn thê tử vào trọ trong làng, chờ sáng mai qua đò sang sông, hoặc đi đò dọc lên thẳng núi Mẫu.Bến nước trước cửa Đình, đã tối mà vẫn đông nghìn nghịt. Người ta chở đò qua hồ ra sông suốt đêm. Dưới bến khách gọi đò, khách xuống thuyền, người đi lại chen vai thích cánh. Tiếng mời mọc tiếng chèo kéo ríu rít ồn ã. Trong ánh đuốc, chỉ thấy những tương mặt nghiêm trang tươi tỉnh, chỉ thấy người chắp tay vái chào thân thiện. Thấy vắng hẳn những nét nhăn nhó hoặc tức giận thường ngày. Chẳng ai cãi lộn. Chẳng ai nói lời thù hận. Bởi vì ai đi trẩy hội cũng là con người đang trở về nhà với Mẫu. Đứa con nào trở về với mẹ lại chẳng tươi vui.Cả dãy con đò với những ánh đuốc bập bùng kéo hàng dài, nối đuôi nhau bơi trên hồ Huyền. Đò bơi đến cửa Hồ, rẽ ra sông, rồi ngược dòng đến chân núi Mẫu.Đò khuya, trăng sớm. Mảnh trăng còn khuyết đã treo ở góc trời. Ánh trăng tạo nên một bầu trời nhờ nhờ, đùng đục Không có thuyền xuôi, chỉ thấy thuyền ngược. Trên mặt sông, khách trẩy hội thả đèn nổi lềnh bềnh như sao sa. Tục lệ đi lễ đền Mẫu vẫn thế. Người nào khi đến bến dưới chân núi Mẫu cũng đã chuẩn bị sẵn vài ba khúc cây chuối nhỏ, kết lại thành chiếc bè xinh xinh rồi đặt trên đó những cây nến đỏ, hoặc vài trăm vàng hoa hoặc vài nén nhang rồi đem thả trôi trên sông nước. Bảo rằng thả như thế để xua đuổi lũ tà ma, ác quỷ không cho chúng đến phá rối ngày hội. Chẳng biết niềm tin ấy có đúng hay không, nhưng khi nhìn những chiếc bè chuối tí hon đập dềnh, lập lòe trên sông, người trẩy hội bỗng thấy khúc sông đêm đẹp lạ lùng, có không khí trang nghiêm và náo nức. Mưa xuân rực bụi, tạo sương mù. Trăng chẳng biết năm ở chỗ nào. Chỉ còn ánh sáng của nó biến bầu trời sương thành màu trắng sửa phơn phớt tím. Ôm trùm lấy con sông hoa đăng huyền ảo.
Từ bến lên đến cổng đền chân núi còn phải đi một quãng xa chừng vài trăm mét. Hai bên lối đi, lác đác vài chiếc lều cũng bán đồ lễ. Những chiếc quang treo đèn dầu lạc lắc lư. Ánh đèn lập lòe mờ tỏ, thế mà những ông già đeo kính cũng còn đủ tinh mắt để viết sớ.Từ khi bà Mùi cắt bỏ tục lụy trần gian, ở hẳn tại đây làm thủ đền hầu thánh, thì ngôi đền Cổ Đình cũng trở nên đông vui, phồn thịnh. Khách thập phương đến lễ càng ngày càng đông. Câu chuyện tây đồn điền lên đền báng bổ, bị rắn thần đuổi phải chạy bán sống bán chết, được người dân thích thú truyền miệng kể cho nhau nghe. Từ đấy tiếng đồn đền Mẫu Cổ Đình linh thiêng lan cả sang những tỉnh khác.Người ta còn đồn ở đây có nước suối thiêng. Đó là một nguồn nước ở chân núi. phía bên trái đền. Nước chảy ra từ một khe đá, chảy ra từ trong lỏng núi chứ không phải tư một con suối hở. Người ta bảo đó là nước của con suối ngầm từ linh điểm của núi Mẹ trào ra. Nước lúc nào cũng trong. cũng ngọt. cũng mát lạnh. Khách hành hương trước khi lên đền, dù trời tối mịt mù. cũng vẫn cố mò ra khe lấy nước rửa mặt rồi uống vài ngụm. Ai cũng bảo rửa mặt và uống nước xong, đều thấy tỉnh táo khỏe mạnh bội phần so với lực từ đò bước lên bờ. Nhiều người còn mang chai lấy nước đem về cho những người ở nhà không có duyên được lên với Mẫu.Bà Mùi thủ đền cất cách khác thường. Đời bà trải bao chìm nổi, thế mà gương mặt bà lúc nào cũng hồng hào tươi tỉnh. Áo quần lúc nào cũng gọn ghẽ tươi xinh. Ai gặp bà, nếu không biết quá khứ mà bà đã trải, thì cứ tưởng bà sinh ra từ một gia thế quyền quý, từ bé chỉ sống trong nhung lụa. Bà Mùi đã lớn tuổi. Đáng lẽ phải gọi là bà, nhưng mọi người đều gọi bà là Cô. Cô Mùi ăn nói rất mềm mỏng, được lòng mọi khách thập phương. Kẻ giàu, người nghèo, dù ai mang đến lễ hậu hay lễ bạc, đều được đối xử đẹp đẽ Cô thủ đền lại có tài nói chuyện. Ai gặp cô cũng đều em hết lòng dạ. Ai cũng muốn nói chuyện thật lâu, có khi hàng giờ, dứt mãi không ra.Đặc biệt, cô Mùi còn có tài chữa bệnh. Chẳng biết cô học từ ai và từ bao giờ. Nhưng khi rỗi rãi cô lại vào rừng hái lá chặt cành, đào củ đem về làm thuốc. Suốt ngày cô bận bịu nào sao, nào thái, nào giã... Cô chữa bệnh nhiều khi chẳng lấy tiền, hoặc có lấy cũng chẳng đáng là bao. Người ta bảo cô Mùi rất mát tay. Nhiều người nghèo không có tiền bạc chỉ uống những thứ lá lẩu trong rừng của cô, thế mà khỏi được những bệnh trầm trọng. Họ biết ơn cô làm. Có củ khoai, con cá, mớ tép cũng mang lên biếu. Dân làng bảo họ Đinh Công nhà cô có biệt tài cứu người. Cô Mùi cũng được trời ban cho cái tài giống như ông chú tức là ông hộ Hiếu. Chỉ có điều khác: ông chú chữa bệnh bằng bùa phép, còn cô Mùi bằng những thứ lá. Nghe vậy, cố Mùi chỉ cườỉ.Thói thường những nhà nho rất ghét ngồi đồng. Họ cho là đồng bóng quàng xiên, mượn sự tín ngưỡng để bịp thiên hạ, bịp những người dân ngu dốt. Có điều lạ. Ông cụ đồ Tiết, cha của cô Mùi lại không thế, mặc dù ông là một nhà nho khá uyên thâm. Thuở còn đi học, có một người học trò nói những lời bỉ báng đối với đạo Mẫu. Cụ phó bảng Vũ Huy Tân nghe thấy đã nghiêm sắc mặt lại mà rằng:
Những lời nói của ông thầy khoa bảng suốt đời chủ trương "bình tây sát tả" ấy đã gây ấn tượng cho cụ đồ Tiết khá mạnh. Ông còn được chiêm nghiệm những lời nói ấy qua thực tế khi ông đi theo cụ Đốc Ngữ. Đận ấy, nghĩa quân bị giặc Pháp đuổi phải lưu vong lúc thì ở Bắc Giang, lúc thì lên Phú Thọ, lúc lại xuống Vĩnh Yên. Một bận, ông và huynh đệ nhịn đói ba ngày khỉ qua vùng Tam Đảo. Một bà đồng già ở một điện thờ hẻo lánh trong rừng đã cứu họ. Không phải ngôi điện thờ lộng lẫy. Một cái nhà là sơ sài bên trong treo hai chiếc nón thờ có quai thao. Độc nhất một bức tượng nhỏ trùm khăn đỏ ngồi ở trên bàn tre cao giữa gian lều, dưới chân thêm một bình hoa. Bà đồng ấy ăn mặc rách rưới cũng trùm khăn đỏ đứng trước gian lều, trông thấy đoàn nghĩa binh ốm yếu thì reo lên:
Nhờ có bà đồng già săn sóc cho ăn uống, chữa bệnh nên đoàn quân không bị chết...Khi thấy cô Mùi số phận long đong, ông đồ Tiết thương xót vô cùng, và không ngăn cản khi con gái xin ông lên đền Mẫu ở với bà Tổ cô để thờ thánh. Ông hiểu những người có cuộc đời vất vả như bà Tổ cô và Mùi thì nên lên đó. Bởi vì, chỉ có Mẫu mới an ủi được học mới giải tỏa được cho họ khỏi những cay cực, những ẩn ức của chốn thế gian. Bà Tổ cô chỉ nhìn mặt, cũng nhận thấy ngay Mùi là người có căn mạng để bắt ghế hầu Mẫu. Bà cụ già biết mình sắp rời khỏi cõi đời nên có bao nhiêu điều sở đắc trong lòng đều truyền hết cho cô:
Cô Mùi nghe những lời ấy không thể tưởng được bà cụ, ngày trước đã một thời là con chiên của Chúa. Và cô cũng không thể ngờ nổi niềm tin quê mùa của mình lại thâm thúy đến vậy.
Ở đầu hồi bên trái đền, có cây ngọc lan cổ thụ, ở đó xây một cây hương. Đó là nơi thờ cô Bé, người thị tì của Mẫu. Cô Bé thơm tho thanh tịnh; người thích hoa lan trắng ngát hương nên vẫn về ngự tại đây. Dân Kẻ Đình bảo nhiều đêm thanh vắng vẫn nghe thấy tiếng đưa võng kẽo kẹt của cô trên cây lan. Tiếng võng vẳng về làng, nhiều đêm định thần nghe tiếng võng kêu cũng thơm ngát. Cô được Mẫu yêu chiều, tính nết có phần hơi đỏng đảnh vui buồn thất thường Người thanh sạch thích ở một mình, tuy nhiên cô Bé thiêng lắm và có tấm lòng thương người. Khách thập phương biết tính cô. chỉ cần nén hương đóa hoa đến van vái dưới gốc cây, kiên nhẫn một chút là xin gì được nấy ngay. Cô là người gác đền cho Mẫu. Vì vậy chưa mở cửa đền mà dưới gốc cây lan đã cắm đầy hương, và người trước chưa lễ xong người sau đã xuýt xoa cầu khấn. Mặc ai lễ bái. một ông cung văn ôm chiếc chiếu con đến trải ngồi dưới gốc lan. Ông lim dim con mắt ngồi đĩnh đạc gẩy cây đàn nguyệt. Tiếng đàn của ông chưa bằng tiếng đàn của ông Trịnh Huyền nhưng cũng khá nỉ non thánh thót. Ông không hát nhưng tiếng đàn của ông đã như một lời dâng mời mọc để cô Bé từ trên trời cao đánh xe loan ngự giá xuống cõi hồng trần.Lúc chưa có đàn thì chẳng sao. Lúc tiếng đàn thánh thót khi vui khi buồn vừa cất lên, thì một bà nạ dòng bỗng xõa tóc rũ rượi, đầu đảo vòng tròn và khóc nức nở. Người ta bảo đó là một cô "đồng lú”. Người thì bảo cô ta cực lắm, một nách năm con, chồng mới chết. Bà Mùi vừa thấy thế vội ra dìu cô vào thềm điện và vỗ về an ủi cô như dỗ trẻ nít. Mãi cô mới chịu vào nghỉ trong nhà sau điện.Tiếng đàn ấy còn giãi bày được nỗi lòng của một bà cụ già đã ngoại bảy mươi. Răng cụ đã móm khuôn mặt đầy những nếp nhăn hằn sâu. Cụ quỳ mọp giữa sân, hướng vào tòa điện thờ. Bà cụ sì sụp lễ bái, mỗi lần cúi xuống, đầu chạm sát đất. Cụ vừa khấn vừa khóc:
Cô Mùi vẫn nắm chặt hai bàn tay bà cụ. Chẳng biết ai đã dạy cô làm như vậy; với bất cứ con người nào tìm đến đây xin giúp đỡ, cô Mùi vẫn thường nắm lấy hai bàn tay. Cô chưa thổ lộ với ai chuyện ấy bởi vì chuyện thật kỳ lạ. Trong một giấc ngủ ở tòa điện, cô Mùi đã mơ thấy Mẫu hiện về dạy cô làm thế. Mẫu nhủ rằng "Con hãy thật tin vào hai bàn tay con. Mẹ cho con để làm dịu cái đau của người ta. Khi hai bàn tay nắm lấy hai bàn tay, tức là lỏng đã nói với lòng. Nếu con muốn xin cho người bệnh khỏi đau ốm, thì ý muốn của con truyền qua tay, sẽ đến với người bệnh. Cái chính là lòng dạ con phải biết thương xót thực sự...". Chẳng biết phép lạ ấy kỳ diệu thế nào, nhưng từ đó cô làm theo lời Mẫu dạy. Và cô chỉ nhận thấy làm như thế người bệnh rất quý cô, tin cô. Khi họ uống thuốc lá nhiều người qua khỏi bệnh tật. Cũng chẳng biết khỏi vì lá hay khỏi vì bàn tay cô nắm.