Đất Trời- Chương 04 part 3

Nghe tiếng kêu, Trãi hiểu rằng chết được trong niềm hoan lạc là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Thứ hạnh phúc đó không cần đến vật chất làm khung chống. Thì như thế, xá chi xác thân. Sau niềm hoan lạc sự sống chỉ có thể là cái trống không. Chết mất đâm ra thành cách duy nhất để phủ định cái khoảng trống không kinh hồn đó.

Trãi bừng tỉnh. Ngọn đèn mắt mèo vẫn xanh. Củi ngo hóa than đang nhấp nháy lụi dần. Chàng định thần, cố nhớ lại. Rồi chàng gọi, Xuyến ơi ! Không, không có một ai. Vẫn chỉ tiếng mưa rơi rả rích. Tiếng côn trùng rỉ rả. Bên cửa sổ, đàn đom đóm bay ngang để lại một vệt lân tinh run rẩy trong gió. Trãi vặn to ngọn đèn dầu, ra cài tấm liếp chặn cửa. Khi vào, chàng mài mực, chép lại câu thơ trong giấc mơ. Viết đến câu cuối, Cả lòng mượn đắp ấm hơi cùng, Trãi bùi ngùi tiếc nhớ. Chàng ao ước làm sao bây giờ mới là lúc chàng đang mơ. Còn cái thực, là với Xuyến, ở cái đình làng nọ, trong tiếng gái trai gọi nhau của một thiên đường vỡ ra như bọt nước .
*
Tiếng phèng báo động đầu thôn Thượng bỗng chợt rối rít khua lên vào giờ Mùi, tháng Chạp, sau ngày trăng tròn. Phi Bảo tay đang bế Vàng Anh. Vội bỏ con xuống, Bảo nhẩy phắt lên ngựa ruổi nước đại. Lên đến lưng chừng đồi chè, Bảo trông thấy đám quan quân nhà Minh đã cặp được một chục chiếc thuyền cái vào bờ sông Lam. Nhìn về hướng Lư Sơn, con đường độc đạo cũng thấp thoáng bóng người.
Bảo vừa phi ngựa xuống đồi, vừa lẩm nhẩm tính toán. Cứ một chục thuyền cái, chúng đã có thể vận chuyển từ hai đến ba trăm lính. Thêm vào đường bộ, tổng cộng lại ước ra đến năm bảy trăm, tức là chúng đông gấp mười đội tự vệ của trại chè. Thế thì đánh chặn, lừa đốt thuyền, cướp thời gian để rút đi, tản người vào miệt rừng phía bắc. Bảo về đến sân trại chính thì đám tự vệ đã nai nịt sẵn sàng. Cách phòng thủ dân trại đã nghĩ sẵn, nên việc điều động không có gì khó khăn. Bảo lấy hai mươi tráng đinh, sắp đặt gùi lửa, dầu đốt và diêm sinh rồi tự mình dẫn họ vượt sông Lam, đi vòng lại tập kích vào đội thuyền giặc. Hai khắc sau, giặc bắt đầu xông vào. Toán tự vệ ở hai nút chặn chốâng trả kịch liệt, tiếng tên tẩm độc rít lên xé không trung giữa tiếng la thét, tiếng rú, tiếng gọi nhau ơi ới.
Ðào Nương là người chỉ huy việc tản dân xuống thôn Hạ rồi tất cả rút vào rừng. Dân trại tiếc của, gồng gánh chăn màn thúng mủng nồi niêu. Sợ nên cứ quíu lại, họ quơ bên nọ, quào bên kia, la khóc như vỡ chợ. Không ngờ đến tình huống này, Ðào Nương ngẩn người ra rồi mím miệng tự tay rưới dầu đốt nhà mình. Nàng quát :
- Bớ bà con, mạng không giữ được thì mang theo được gì ? Bỏ lại hết. Chỉ mang chăn mùng và dao, rựa. Thế thôi !
Dặn đám con gái lên đường đi trước, Ðào Nương chặt một đẵn tre đực, thúc giục mọi người. Với những kẻ tiếc của dùng dằng, nàng thẳng tay quật, mắt mọng đỏ, miệng kêu :
- Ta đánh mày còn hơn để giặc giết mày !
Ðám cháy trong thôn Thượng có một tác động bất ngờ. Khi thấy khói bốc lên, Phi Bảo đang vượt sông Lam khựng lại sợ thôn bị giặc tập kích. Ngẫm nghĩ, Bảo ra lệnh cho đám tráng đinh quay lại không đi đốt thuyền giặc nữa. Hai toán tự vệ cũng hoảng hốt cho người chạy về thôn, xuống tinh thần nên sức chống trả không cương mãnh như lúc đầu. Tuy vậy, tên nỏ có tẩm độc vẫn chặn được bước tiến của giặc. Chúng hò hét nhưng không dám liều mạng xông lên.
Ðến cuối giờ Thân, lớp phòng thủ đường bộ phải rút về tuyến thứ hai. Bảo ra sức hò hét, bảo tráng đinh có chắc mới bắn vì lượng tên nỏ đã vơi. Lúc đó, Ðào Nương ở đâu hiện ra. Bảo quát :
- Nhà nó lo việc di tản cơ mà. Ði, đi...
Ðào Nương cười, bình tĩnh đáp :
- Dân thôn Hạ cũng đã đi hết rồi... Bây giờ em thuộc đoạn hậu, thì ở đây chứ còn đi đâu nữa !
- Sao lại đốt nhà !
- Không đốt, người ta tiếc của không đi. Mà giặc vào, mình không đốt, nó cũng lấy, cũng đốt. Nàng lại cười, rồi cất giọng, hát to :
Trời chưa phong quang
Giặc Ngô vào, trời chưa phong quang...
Ðám tráng đinh phòng thủ lối đường thủy cũng vừa rút về. Họ nhịp tay hát theo. Tiếng hát chống giặc vang lừng lên khiến giặc ngẩn ngơ không dám tiến. Bảo lườm vợ, mắng yêu :
- Nhà nó đến hay. Lúc phải chạy thì lại đến.
- Thì em lại quay đầu chạy trước nhé.
Nói xong, Ðào Nương nhìn Trãi, thưa :
- Bây giờ, xin bác đi với em...
Vẫy tay gọi tráng đinh cáng theo những người bị thương, Ðào Nương đi đến đâu châm lửa đến đó, miệng lẩm bẩm, chúng bay muốn đốt tao cũng chẳng cho. Những bó chè năm nay đã sấy khô bốc cháy, mùi khét lẹt thốc vào mũi ngột ngạt. Trãi nhìn cô em dâu, lòng bỗng vô vàn cảm phục. Ðúng là giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Chàng bây giờ tin như đinh đóng cột rằng dẫu qua một nghìn năm Bắc thuộc, gia tộc con dân Ðại Việt vẫn chưa biến thành phụ hệ như ở Trung Hoa, nơi người phụ nữ bị đè bẹp dưới sự thống trị của tam tòng tứ đức. Chợt nhớ ra tập Nam Dao chí, Trãi vội vã chạy vào trái nhà nơi chàng cư ngự. Bấy giờ, ngoài tro than, chỉ còn lại ba hòn đá chụm đầu vào nhau làm bếp.
*
Ông ơi, trời tối rồi. Chỉ có lửa. Lửa cháy...
Ông ngửi thấy... Nó cháy ở đâu ?
Con không biết !
Bây giờ, con quay về phía cuối ngạn sông cho ông ?
Chỗ nào là cuối ngạn ?
Thò tay xuống nước. Nước xuôi về đâu thì đó là cuối ngạn.
Con biết rồi, phía này là cuối ngạn. Con quay đây...
Quay chưa ? Thế bên phải hay bên trái ?
Bên nào là bên phải, bên nào là bên trái ?
Bên tay cầm đũa là phải.
_ ...
Lửa bên tay cầm đũa hay tay cầm bát ?
Cầm bát !
Thế là lửa cháy làng ta rồi... Lửa có to không ?
Con thấy cả ngọn...
_ ...
Ai đốt hả ông ?
Ai đốt thì cũng là giặc đốt...
Bây giờ đi đâu ? Trời tối đen. Con sợ...
Giá chỉ mình ông, thì ông ngồi xuống đây ông đợi. Ðợi tất cả... Ðợi xem trời có mắt không ?
_ ...
Nhưng ông con mình phải đi. Con còn trẻ dại. Bây giờ, cứ phía đầu ngạn mà đi...
Ông đưa tay con nắm...
Ði ngược chiều nước chảy, đừng có nhầm...
Ông bước nhé...
_ ...
Ông có nghe thấy gì không ? Tiếng vượn hú. Tiếng sói tru...
Có. Chúng còn xa mình... Nhưng cái đáng sợ không phải là vượn là sói...
Là gì...
Là người. Thế mới khổ !
Con không hiểu...
Con đừng hiểu vội... Cứ đi đi, ngược nước mà đi.
Ði mãi, đi đến đâu ông ơi ?
Chỗ đến, ông không biết. Nhưng cứ đi, đi thì xa cái nơi ông con mình không ở được...
Sao mình không ở được, hở ông ? Con mệt lắm. Con chỉ muốn ngủ ? Mẹ con đâu ? Các chị con đâu ?
Ta phải tìm họ. Phải đi con ạ... Tai ông vẫn nghe tiếng nước róc rách. Con đừng xa bờ, cứ men nó mà đi... Bỏ cội nguồn là mất hết phương hướng, con ạ !
_ ...
Con còn thức không ? Phải mở mắt ra mà định hướng.
_ ...
Con ơi, hay là con hát lên cho tỉnh ngủ ?
_ ...
Ông hát nhé, ‘‘ Trèo lên quán dốc, ngồi gốc cây rừng, ( ôi à ) ta ngồi gốc cây rừng... ‘‘ con hát theo ông...
_ ...
Vàng Anh, Vàng Anh. Tỉnh dậy. Con đi như đi trong một cơn mộng du. Con ơi, ông không còn nghe tiếng nước...
- ...
Vàng Anh, Vàng Anh. Tỉnh dậy. Con ơi, ông không biết con đang bước về đâu ? Còn ông, ông đã lòa rồi. Ông chỉ con nghe được. Ông không nghe thấy tiếng nước, ta đang lìa bỏ cội nguồn...
_ ...
Ông lại hát nhé...
_ ...
Tình bằng có cái trống cơm, khen ai khéo vỗ ( ối ) bông mà nên bông. Một đoàn ( tang tình ) con gái ối mấy lội ( lội ) sông, ối ( mới a ) đi tìm...
Thình lình, tiếng bật hồng rồi cả chục ngọn đuốc soi lên. Một tên giặc quát, tiếng trọ trẹ :
- Ðây rồi. Một thằng già điên. Và một con bé con...
Ðào ông giơ chiếc đàn độc huyền lên cao, hăm he :
- Tao đánh bỏ mẹ chúng mày...
Bọn giặc thấy cảnh bật cười, hộc lên rồi từng bước sấn lại. Ðào ông hét :
- Vàng Anh. Hát lên con. Hát lên để đuổi chúng nó đi...
Lúc đó, Vàng Anh bừng mắt. Nó nghe Ðào lão, giọng bí bô cất lên :
- Ấy mấy lội ( lội ) sông. Ấy mấy ( ai ) mà đi tìm. Ði tìm ( tìm ) ai... Ði tìm, tìm ai...
*
Hai ngày sau khi quân Minh bỏ đi, hàng dân trại chè lại lục đục kéo nhau về. Thôn Thượng và thôn Hạ nay hoang tàn. Kèo cột cháy dở ngu ngơ xiêu vẹo. Gạch ngói đổ nát tứ tung. Tro than bộn bề bám vào mặt đất nhão nhoẹt dưới mưa dầm. Dăm con chó ve vẩy đuôi thấy người về, không sủa mà chỉ kêu lên hinh hích.
Người ta bổ đi tìm những người thất lạc. Tính sổ, ngoài hai người chết trận, có mười bảy tráng đinh bị thương. Và bốn cụ già chết cóng trong rừng. Còn lại, cả chục người không thấy tăm tích, trong đó có Ðào lão và con bé Vàng Anh. Cả nhà Phi Bảo chia nhau, mỗi người đi về một phương. Xưa, Trãi hay đi câu với Ðào lão và Vàng Anh. Chàng men bờ sông Lam đến chỗ thường thả câu nhìn quanh quất. Không thấy bóng dáng ai, Trãi thả bước ngược dòng đi lên. Trong lòng sông, nước xuôi xuống uốn lượn, có chỗ đập vào đá nổi bọt trắng xóa, cuốn đi những xác lá mục chập chờ chìm trôi tăm tích.
Chàng nhìn xuống lối đi đất còn ướt, thấy dăm dấu chân. Ði thêm, cây mang những vết chém, cành rơi nằm ngang dọc. Trãi dấn bước, lòng hồi hộp, linh tính báo cho chàng điềm chẳng lành. Chàng vạch lá, rẽ cây, mắt chăm chú nhìn trừng trừng. Một lúc sau, Trãi đến một bờ đá đâm ra sông. Trãi đến gần. Một búi tóc bạc dựa vào hốc, mặt hướng ra ngoài. Chạy vội lại, Trãi nhận ra Ðào lão. Ðầu ông cụ ngoẹo xuống, vạt áo trước ngực máu vấy thâm đen. Chỗ dao đâm, bọn giặc Ngô lại nhét cái cán cây đàn độc huyền đã bị đập nát bấy vào. Trãi cúi xuống. Miệng Ðào lão móm mém mở toác ra như kêu như gào trước khi chết. Cặp mắt lòa nay chỉ còn một lớp gân mỡ trắng hếu vô hồn trợn trừng trừng. Một đám kiến bò thành hàng trên mặt lão nay cứng lạnh như gỗ, thản nhiên chui vào miệng, vào mũi, vào lỗ tai. Chúng lúc nhúc bu quanh cái cán đàn, tiếp tục đục khoét vết thương chí tử. Trãi bật dậy. Chàng muốn kêu, nhưng cổ tức lại, thanh âm kẹt cứng yết hầu. Vàng Anh đâu ? Chàng nhảy bổ sang bên cạnh. Rồi rúc vào bụi. Vẫn không. Chàng lại sấn tới. Trước mặt là một khoảnh đất thưa cây. Vẫn không. Trãi lại lao lên, cơn sợ hãi khiến chân chàng tê cứng.
Ở bìa rừng, Vàng Anh chơ vơ nằm đó.
Con bé trần truồng, phần hạ thể be bét máu đã đông đặc. Mắt nó mở to, nét kinh hoảng nguyên vẹn, hai tay cào bấm xuống bụi cỏ bị đạp nhàu. Vàng Anh ơi, hỡi Vàng Anh ! Trãi thét lên ‘‘ Giời ơi là giời ! Giời có mắt không hả giời ! ’’.
Ðó là lần đầu Trãi nói ra lời sau một năm á khẩu. Tiếng thét của Trãi vọng vào vách xuyên qua vực bay theo gió lạnh một mùa đông khắc nghiệt. Gục mặt xuống đất, Trãi cứ thét gào cho đến khi dân trại chè chạy ùa lại.
Ðào Nương nhìn con rồi ngất đi. Phi Bảo cởi áo quấn lấy xác Vàng Anh bế lên, nước mắt nhòa nhoẹt trên mặt nhưng mím môi không nói một câu. Xác Ðào lão đặt trên một cái cáng, hai người khênh hai đầu, lầm lũi bước.
Hai ngày sau khi chôn cất những kẻ tử vong, dân trại chè họp nhau lại. Bảo nói :
- Cơ sự này, ai ở lại cứ ở mà làm chè. Tôi phải đi !
Khi có người hỏi đi đâu thì Bảo trỏ tay về phí núi Lam. Hầu hết đám tráng đinh theo Bảo vào Lam Sơn tụ nghĩa. Ðêm hôm đó, Bảo hỏi Trãi :
- Anh có đi không ?
- Chú đi trước đi. Rồi sẽ gặp.
Mặt Trãi nay như thép nguội, hai con mắt lại lấy lại tất cả nét tinh anh ngày trước. Trãi mang nghiên bút vào mộ Vàng Anh mới đắp, căng lều ở mươi bữa, ngày ngày gò người ra viết. Lần này, sách Bình Ngô thảo bằng chữ Nôm, không điển cố, không chữ nghĩa cầu kỳ. Sách viết rất đơn giản, câu chữ mạnh lạc. Bởi mọi sự thật đều đơn giản đến hiển nhiên.
Viết xong Bình Ngô sách, Trãi nấu mật rồi chọn cả trăm chiếc lá rừng loại to bản. Bỏ hai ngày trời, chàng lại cắm cúi chấm mật viết lên lá.Viết xong chàng mang đống lá đến để cạnh một tổ kiến đất.
Một đêm trước khi lên đường, Trãi ngồi thắp hương trên mộ Vàng Anh. Chàng khấn ‘‘ đuổi giặc rồi, bác lại chép lại Nam Dao chí cho con. Cái chết của con không vô ích đâu, Vàng Anh ơi ! Nó dạy cho bác vế thứ hai của việc lấy đạo nghĩa chống hung tàn. Ðó là mang trí, nhân thay cường bạo. Vì chỉ có thế thì con người mới tránh được sự hủy diệt của chính con người trong mai hậu ’’.
Thình lình một con chim cánh chuốt màu lửa từ chân mộ bay vút lên. Cánh chim thành một vì sao tít tắp, muôn đời nhấp nháy với gọi tương lai trong khoảng trời đất vô cùng của những con người khốn khổ.