Trận đấu mùa đông - Phần II - Chương 05

5. Helen ở thủ đô

Nếu không có sự vắng mặt của Milos và cảm giác lo lắng không ngừng bám riết, thì Helen có thể nói cô đang sống ở thủ đô những ngày đẹp nhất cuộc đời. Trước đây, chưa bao giờ cô biết đến cảm giác tự do thú vị thế này. Ở trong căn phòng riêng của cô, có tên cô trên cánh cửa mà giờ cô có thể đóng mở bằng chìa khóa riêng, ra ngoài lúc nào tùy thích, nhảy lên chiếc xe điện đầu tiên ngang qua và lạc lối trên nhiều con phố chưa biết đến: ngày lại ngày, cô nhấm nháp những niềm vui nhỏ nhặt ấy không biết chán. Ngài Jahn đã ứng trước cho cô nửa tháng lương đầu tiên để cô sắm sửa “những thứ còn thiếu”. Cô mua một chiếc đồng hồ báo thức, một chiếc mũ bonê có sọc sặc sỡ, đôi găng tay đen, một chiếc khăn quàng và một đôi bốt. Cho dù đã hơi lỗi mốt, chiếc áo khoác mà vợ bác sĩ Josef cho cô vẫn còn rất ấm áp và thoải mái: cô quyết định giữ lại. Cô cũng tìm thấy trong một hiệu sách cũ của khu phố hàng chục cuốn tiểu thuyết giá rẻ và cô xếp lên chiếc giá trong phòng cô. “Thư viện của tớ”, cô tự hào nói với Milena.

Từ các cuộc dạo chơi một mình trong thành phố, cô trở về hoàn toàn ngây ngất. Cô thích hòa vào đám đông không tên nhộn nhạo, vào các giờ cao điểm, trên vỉa hè và trong các cửa hàng. Giá như anh nhìn thấy thế giới này, Milos! Mọi người ùa đi và xô đẩy anh mà không nhìn anh. Chúng ta có cảm giác là một con kiến giữa triệu triệu con khác. Nếu như anh ở đây với em, chúng ta sẽ phải nắm tay nhau để không bị lạc. Em đi vào các cửa hàng, các hàng thuốc, hàng ngũ kim, các tiệm màu… Em bới tìm các mặt hàng. Em lại làm thế khi nào em có thêm tiền, thật tuyệt biết bao nếu như anh ở đây, tình yêu của em…

Nhưng điều cô còn thích hơn nữa, đó là bước đi không mục đích, mỗi ngày một xa hơn và vui sướng khám phá ra một cây cầu mới, một quảng trường xinh xắn, một nhà thờ nho nhỏ. Cô đi với bước chân nhanh nhẹn, thu mình trong chiếc áo khoác, cho đến khi cảm thấy đôi chân mỏi mệt. Khi ấy, cô mới bắt tàu điện hay xe buýt về trung tâm thành phố.

Cô Dora có lý: những người ở đây không được đáng mến cho lắm. Hay đúng hơn, nên nói là họ luôn đề phòng lẫn nhau. Ít khi họ cười với nhau, ít có những cuộc chuyện trò vui vẻ. Họ có vẻ u buồn, sự thật là thế. Đôi khi Helen bắt gặp những cái nhìn thân thiện, nhưng họ quay đi ngay lập tức. Cô học rất nhanh cách phát hiện các nhân viên an ninh của hội Phalange cũng như những tên lính gác, vào buổi tối: những gã đàn ông thường giấu khuôn mặt xảo trá sau tờ báo như trong các tiểu thuyết trinh thám rẻ tiền, nhưng người ta dễ dàng đoán được đôi tai chúng làm việc nhiều hơn là cặp mắt.

Một buổi chiều, khi bước xuống khỏi xe điện, cô thấy trong áo khoác giấy mời đến dự một cuộc họp, và cô ngỡ đó là những người chống đối hội Phalange. Cô nhớ lại người đàn ông trẻ ngồi gần cô và có lẽ anh ta đã tuồn lá thư vào trong túi áo cô. Anh ta có vẻ duyên dáng và dễ mến. “Một cái bẫy đấy! Cô Dora thốt lên. Nhất định không được đến!” Và cô ấy yêu cầu cô không bao giờ được tự do nói chuyện với những người không quen, ngay cả với những người duyên dáng và dễ mến. “Một người bạn mới, cho dù là ai đi chăng nữa, cũng phải được một người đáng tin cậy giới thiệu, nếu không cần phải đề phòng.”

Mấy ngày sau, khi cô đi bộ về nhà hàng, có những tiếng kêu thét lên: “Chú ý! Cảnh sát đây!” Cô không kịp tránh và bị ba người đàn ông cầm dùi cui hất ngã, chúng đuổi theo một người cao kều. Chúng đuổi kịp anh ta, đánh đập anh ta. Anh ta ngã xuống đất và co quắp hai chân, hai tay gầy gò lại để tự vệ, nhưng bọn chúng vẫn ra đòn tới tấp, vào đầu, vào lưng anh ta.

- Dừng lại! Helen thét lên, sững sờ vì khiếp sợ, trong khi người bất hạnh kia vẫn co rúm một cách vô ích và những kẻ tàn nhẫn vẫn huỳnh huỵch nện anh ta. Dừng lại! Các ông giết anh ấy mất!

Cô nhận ra xung quanh cô mọi người chạy trốn hết, trừ một người đàn ông trẻ mặc một chiếc áo chui đầu, cổ áo dựng lên che khuất mặt.

- Lũ khốn! Chúng mày sẽ phải trả giá! Anh ta cũng hô lên và vội vã chuồn đi.

Anh ta tin vào đôi chân của mình để thoát khỏi đám cảnh sát và anh ta có lý. Một trong ba tên đuổi theo anh ta khoảng một trăm mét rồi từ bỏ.

- Tao nhớ mặt mày rồi! người đàn ông trẻ tuổi khinh miệt nói trong lúc quay nhìn lại lần cuối. Tao nhớ mặt ba thằng chúng mày và tao sẽ nhận ra chúng mày, chúng mày hãy tin thế!

Tên cảnh sát chửi anh ta vài câu và trở lại với các đồng sự. Helen vẩn không nhúc nhích.

- Vấn đề gì thế, cô gái? hắn lên tiếng khi đến trước mặt cô. Không hả? Thế thì tôi khuyên cô nên đi khỏi đây.

Ngày hôm sau, và có lẽ vì vụ việc ấy, cô không muốn đi dạo một mình, và cô rủ Milena đi cùng,

- Cậu có thể bỏ rơi Bartolomeo của cậu một buổi chiều…

- Không phải là Bart ở bên tớ các buổi chiều đâu.

- À, thế thì là ai vậy?

Milena ngập ngừng một chút.

- Nếu cậu hứa với tớ không nói lại với bất cứ ai…

- Tớ hứa với cậu.

- Thế thì đi nào. Suy cho cùng, cậu biết cũng tốt.

Hai cô đi trên các con phố dẫn lên khu phố cổ. Vỉa hè lấp lánh váng băng và hai cô gái phải bám vào nhau để không bị trượt ngã. Milena cười một mình, nóng lòng chia sẻ bí mật của riêng cô. Chưa bao giờ Helen thấy bạn rạng rỡ và vui tươi như thế. Cô chỉ cảm thấy chạnh lòng một chút vì cảnh lẻ loi và đơn chiếc của riêng mình. Một cục buồn dâng lên trong cổ họng. Milena nhận ra thoáng gợn của người bạn gái và hiểu ngay lập tức. Cô dừng lại và vòng tay ôm bạn.

- Thứ lỗi cho tớ nhé.

- Không. Có gì để tha thứ chứ. Cậu có quyền vui sướng mà. Tớ không ghen tị đâu.

Một đốm buồn ngang qua trong mắt Milena.

- Đừng tưởng là tớ vui sướng, Helen ạ. Tớ sẽ không bao giờ có thể có cảm giác ấy được nữa, khi mà giờ đây tớ biết chuyện bọn chúng đã làm với mẹ tớ. Tớ rất sợ tớ không thể khuây khỏa được. Nhưng điều đó đôi khi cũng không ngăn tớ cảm thấy hài lòng. Đấy, hôm nay tớ cảm thấy hài lòng. Hài lòng vì có Bart, hài lòng vì được ở bên cậu, hài lòng vì đi đến nơi tớ sắp đến…

Vì Helen chỉ còn biết gật đầu, Milena mới nới lỏng vòng tay một chút và nắm lấy tay bạn:

- Helen à?

- Ừ.

- Milos chắc chắn còn sống. Tớ không thể không nói với cậu điều này nữa.

Helen rùng mình.

- Làm sao cậu biết điều đó?

- Qua Bart và Ngài Jahn. Hai người đó chắc chắn thế.

- Làm sao mà họ biết điều đó?

- Họ sẽ giải thích với cậu. Và nữa là, theo Bart nói, nếu Milos còn sống và nếu anh ấy có một phần năm mươi cơ hội thoát được, thì chắc chắn anh ấy sẽ thoát được. Bart hiểu rõ anh ấy. Hãy giữ niềm tin nhé.

- Chỉ cần tớ quay lại sớm hơn một giờ cùng với bác sĩ Josef thôi! Helen lắc đầu tự trách mình. Chỉ một giờ thôi, và tớ sẽ cứu được anh ấy! Tớ cũng vậy, cũng cho rằng mình sẽ mãi mãi không khuây khỏa được…

- Cậu đã làm được điều không thể. Thôi đi nào, chúng ta sẽ muộn mất.

Họ tiếp tục đi. Lên cao hơn một chút, vì có hai người phụ nữ đi ngược lại phía họ, Milena cẩn thận che mặt bằng mũ áo khoác.

- Nếu không họ sẽ còn nghĩ tớ là một con ma!

- À đúng rồi, đúng là thế. Cậu giống mẹ cậu lắm hả? Cậu đã xem ảnh bà ấy chưa?

- Rồi.

- Và thế nào?

- Thế nào à, đó chính là tớ với bộ quần áo và kiểu tóc của hai mươi lăm năm trước! Cô Dora đã cho tớ một tấm ảnh lúc tớ còn là đứa bé trong vòng tay mẹ. Tớ sẽ cho cậu xem. Mẹ rất đẹp, cậu sẽ thấy.

Trong khu phố ở xa trung tâm khu phố cổ nhất, tòa nhà có mặt ngoài lở vữa nằm ở góc hai con phố. Hai cô gái trẻ bước vào canh cổng cổ lỗ và trèo lên cầu thang bộ chật hẹp thoang thoảng mùi sáp ong.

- Cậu đưa tớ đi đâu thế? Helen hỏi khi họ lên đến tầng sáu và tầng trên cùng.

Không trả lời, Milena gõ lên cánh cửa không đề tên ai, và người mở cửa là cô Dora tươi tắn.

- Này, con mang khán giả đến cho chúng ta đấy hả?

- Không nên hả cô?

- Có chứ, tất nhiên là có. Con đã làm rất tốt. Vào đi, Helen, hoan nghênh cháu đã đến. Và để áo khoác của cháu đằng kia, trên giường ấy.

Người ta có cảm tưởng như đang ở trong một ngôi nhà búp bê mà con búp bê bị lấy ra. Không gian chật hẹp, đồ đạc giản dị, và các bức tường trống trơn trừ một bản dàn bè hòa tấu ghim hàng ngang trên lớn giấy dán tường phòng khách.

- Đó là bản chép tay của Schubert đấy, cô Dora nói khi bắt gặp cái nhìn của Helen.

- Một bản sao ạ?

- Không. Là bản gốc, do chính tay ông đã viết. Cháu có thể xem.

Helen hoài nghi lại gần, và xem xét trang giấy đơn sơ hơi ngả vàng, các nốt nhạc được viết tay như vội vã theo các nhịp phách và nét chữ bay lượn đẹp đẽ của nhà soạn nhạc.

- Mực… Người ta có thể nói nó vừa mới được viết… Cháu không thể tin nổi… Đây là một tài liệu hiếm, không phải thế ạ?

- Vô cùng hiếm, Dora tươi cười.

- Và… cháu muốn nói, nó rất có giá trị…

- Nếu bán bản dàn bè, cô có thể mua được cả tòa nhà này. Và cả tòa nhà ở bên cạnh.

- A. Và… cô không bán nó sao?

- Không. Cô ngốc nghếch nhỉ? Thế cháu nghĩ sao?

- Cháu không biết… Helen xúc động trả lời.

- Nó đã luôn ở đó. Giống như chiếc đàn piano ngoài kia. Một chiếc piano hiệu Steinway nhé! Người ta sẽ tự hỏi làm thế nào mang được nó lên đây. Cầu thang quá hẹp và các cửa sổ cũng vậy. Đó là một điều bí ẩn. Một bí ẩn làm cô thích thú. Cô cứ tưởng tượng người ta đã dỡ mái nhà ra để đưa nó vào.

- Cô đã luôn ở đây à, cô Dora?

- Ồ không! Đây là nhà cô giáo dạy piano của cô, một bà già điên khùng thiên tài và không thể chịu đựng được, bà thường xông đinh hương, và bà ném giày vào lưng cô khi cô chơi sai nốt nhạc. Khi bà mất, cô đã mua lại căn hộ này. Đó là thời gian cô kiếm được tiền nhờ chơi nhạc. Lúc đó, cô thấy nó hoàn toàn bình thường. Cô đã không biết rằng đây chính là thiên đường. Người ta chỉ phát hiện ra thiên đường khi người ta mất nó, và nhớ ra tổ ấm khi người ta bị lạc. Thôi, cô đi pha trà và chúng ta bắt đầu vào việc.

Helen cởi giày, ngồi trên chiếc phô tơi có tay vịn, thu hai đầu gối lên tận ngực và không nhúc nhích nữa. Cô Dora đến bên đàn piano, ngồi trên chiếc ghế đẩu. Cô xắn tay áo và lắc lắc những lọn tóc hung của mình. Còn Milena, đứng yên, một tay đặt lên mép phím đàn, tập trung như thể cô sắp trình diễn trong một buổi hòa nhạc. Mái tóc vàng dựng ngược, trái lại, càng làm tăng thêm vẻ đẹp hiền hậu của khuôn mặt cô.

- Chúng ta bắt đầu, Milena. Tập lại bài số 547 nhé.

- Đồng ý. Em sẵn sàng rồi.

Dora nhẹ nhành dạo những nốt nhạc đầu tiên, và khi Milena mở miệng, xung quanh cô lại như mọi lần: trạng thái của không gian và các đồ vật đều thay đổi. Toàn thân Helen run rẩy.

Du holde Kunst, in wieviel grauen Stunden,

Wo mich des Lebens wilder Kreis umstrickt

Hast du mein Herz…

- Con vào trước rồi, Dora dừng lại, con vào trước chỗ “Hast du”. Lại nhé,…

Đối với Helen, Milena không vào lời nhanh, cũng không vào lời chậm, mà là hoàn hảo. Dẫu vậy cô gái trẻ cũng hát lại, một cách ngoan ngoãn, hát lại từ đầu. Cô vượt qua trở ngại và cô Dora tán thưởng gật đầu: “Thế chứ, phải thế chứ…” Và nụ cười của cô có nghĩa: “Thế đấy, với con không cần nhắc lại một thứ đến mười lần!” Helen cảm thấy niềm hãnh diện đặc biệt ấy khi một người em trai hay em gái mà người ta biết đến tư chất từ lâu, cuối cùng cũng thể hiện trước thế giới. Cô nhớ lại góc sân trường nội trú nơi Milena hát tặng cô ngày trước. Cái ngày ấy với cô sao mà đã xa xôi thế. Cô cũng nhớ lại câu hỏi đùa của Paula, người mẹ tinh thần to béo: “Cô bạn Milena của con thế nào, con vẫn luôn hâm mộ cuồng nhiệt bạn ấy chứ?” Vào lúc này đây, cô còn ngưỡng mộ bạn mình hơn lúc nào hết.

Helen còn bị say mê vì bàn tay phải biến dạng của cô Dora chạy trên các phím ngà. Thỉnh thoảng, cô phải ngừng một phút để bàn tay được nghỉ ngơi đôi chút và để xoa bóp bên cổ tay bị đau.

- Vượt quá quãng năm, cô rất khó mở đủ các ngón tay, còn đối với những đoạn lướt bằng ngón cái, thì xin chào!

Đó là ngôn ngữ khó hiểu đối với Helen.

- Cháu thì không nhận thấy gì hết, cô nói coi như lời động viên. Dường như với cháu thì ngược lại, cô chơi đàn tuyệt hay.

- Điều đó khẳng định cháu không biết nhiều về âm nhạc! Dora vừa trả lời vừa cười phá lên và huơ bàn tay bị hỏng. Còn với cô, thì rất đơn giản, cô có cảm giác như là đang chơi đàn bằng chân vậy!

Helen nhận thấy chuỗi cười của mình có một chút vui quá mức.

- Các đĩa hát của cô Eva-Maria Bach còn không ạ? Cô bỗng hỏi.

- Có. Cô có một đĩa ở đây, nhưng Milena không muốn nghe.

- Đúng vậy, Milena xác nhận. Việc đó làm con sợ. Nhưng vì hôm nay có Helen ở đây, con tin rằng mình sẽ có đủ dũng cảm.

- Thật sự chứ?

- Thật sự.

Dora biến mất trong phòng ngủ của cô và trở lại với một chiếc đĩa bằng than đen trong vỏ hộp. Cô ấy giơ ra với Milena:

- Đây này, cô không có gì khác ngoài cái này, và vài tấm ảnh cô đã đưa con xem. Đây chính những báu vật của cô. Cô đã giấu chúng trong một chiếc va li và gửi ở nhà một người bạn trước khi rời khỏi thủ đô cùng với Eva. Cô đã làm đúng. Bọn chúng đã khoắng sạch căn hộ và mang tất cả đi. Tất cả. Trừ chiếc piano quá to này! Và cháu biết thứ mà chúng đã để lại không, Helen, cái bọn ngu đần ấy?

- Bản viết tay của Schubert ạ?

- Hoàn toàn chính xác! Nó đã nằm chính xác ở đây, như cháu nhìn thấy hôm nay: ghim trên tường, rất dễ nhìn thấy. Đó là thứ duy nhất đáng ra bọn chúng phải lấy, nếu như bọn chúng bớt ngu dốt một chút! Cô tin rằng mình sẽ cười chuyện đó suốt cả cuộc đời cô!

Milena lật vỏ hộp đĩa trong tay, trên đó chỉ in hình vẽ một bó hoa màu hoa cà. Cô khẽ đọc:

- Đĩa ghi chất lượng cao… Dàn nhạc giao hưởng… Giọng nữ trầm Cô Eva-Maria Bach… Người ta gọi mẹ là “cô” ạ?

- Đúng vậy. Lúc bấy giờ chị ấy chưa đến hai lăm tuổi. Đừng quên điều này. Và chị ấy chưa lấy chồng…

- Nhưng lúc đó mẹ đã có con rồi?

- Đúng vậy. Lúc đó con chừng hai tuổi, cô chắc thế. Con có hai má thật bụ và con…

- Con không biết liệu cuối cùng mình có đủ can đảm… Các tấm hình con đã xem, nhưng còn giọng hát…

Helen là người cầm đĩa và đặt lên máy hát mà cô Dora đã nâng sẵn chiếc nắp nặng nề bằng gỗ đánh véc ni. Đĩa ghi âm “chất lượng cao” kêu lạo xạo và ọc ọc khủng khiếp. Dora chỉnh âm thanh thật nhỏ.

- Những người hàng xóm của cô đều đáng tin cậy, nhưng chúng ta không bao giờ biết được, họ có thể có khách…

Đoạn trích bắt đầu bằng vài nhịp violon, và với hai cô gái trẻ, sự chờ đợi gần như là không thể chịu đựng nổi. Đó như thể Eva-Maria Bach sắp đột ngột đẩy cánh cửa phòng và bước vào. Giọng hát cuối cùng cũng cất lên, xa xôi và bình yên:

What is life to me without thee?

What is left if you are dead?

(Cuộc sống sẽ là gì với em nếu không có anh?

Còn lại gì với em nếu anh đã mất?)

Trong lòng xáo trộn, Milena giấu mặt trong đôi bàn tay và không mở tay ra cho đến hết đoạn nhạc đệm. Helen lắng nghe, hoàn toàn bị chinh phục bởi âm vực rộng và âm sắc trầm của giọng contralto. Cô cũng thấy dường như bạn cô vẫn còn quá non trẻ nếu so sánh với giọng hát ấy. Cô Dora cười, đôi mắt ánh lên niềm xúc động.

What is life, life without thee?

What is life without my love?

(Cuộc sống là gì, cuộc sống không có anh?

Cuộc sống là gì nếu không có tình yêu của em?)

- Hôm nay với con thế là đủ, Milena khẽ nói ở nốt nhạc cuối cùng. Con sẽ nghe phần tiếp theo vào một ngày khác…

Cả ba cùng lau nước mắt và cười khi đồng thời lấy ra khăn mùi soa.

- Con thấy sao? Dora hỏi, sau khi đã cất chiếc đĩa vào trong hộp.

- Con thấy là mình còn phải làm việc rất nhiều…

- Con có lý. Vậy thì chúng ta lại tiếp tục nhé?

- Chúng ta tiếp tục nào.

Khi Helen và Milena rời khỏi khu phố cổ, đèn đường đã được thắp lên. Hai người đi đường tắt theo các con phố nhỏ và dốc, với các bậc thang đá. Lúc về đến quảng trường, nơi có nhà hàng Jahn, hai cô bất ngờ gặp Bartolomeo ở đó, cậu cũng đang từ đâu về, một cái khăn màu đen to sụ quấn quanh cổ.

- Bart ơi, Milena gọi, Helen muốn anh kể với bạn ấy điều anh biết Milos.

- Lại đây, Helen, chàng trai nói, hai chúng ta sẽ đi dạo một chút và anh sẽ kể cho em.

Họ để Milena ở lại và đi về phía dòng sông. Đầu tiên, họ đi theo con đường dọc bờ sông rồi dừng lại mà không biết rằng ngay phía trước là chiếc ghế dài Hai Rưỡi vừa ngồi ở đó trước khi bị đập chết bằng cái ống xả của Mitaine. Hòa với giọng họ là tiếng các con sóng rì rầm yên ả.

- Tha lỗi cho anh vì đã không nói với em sớm hơn, Bart bắt đầu, nhưng anh không tự quyết định được.

- Nó tế nhị lắm sao ạ?

- Ừ. Trước hết em phải biết điều này: Ngài Jahn đã luôn luôn tin chắc Milos còn sống.

- Làm sao bác ấy lại chắc chắn đến thế?

- Bác ấy biết rõ bọn người của hội Phalanghe và cách thức chúng hành động. Nếu như chúng vội vã chở Milos trên chiếc xe kéo, thì đó là bởi vì cậu ấy không chết, nếu không bọn chúng đã đào một cái hố cách đó trăm mét và ném cậu ấy xuống đấy. Bọn chúng không phải loại người ôm ấp xác chết kẻ thù.

Sâu thẳm trong cô, Helen cũng đã luôn nghĩ như vậy. Và nhất là, ngoài những lý lẽ, cô có niềm tin tuyệt đối, găm chặt trong tâm hồn, rằng bạn trai cô vẫn sống. Cô cảm thấy điều đó trong từng thớ thịt. Nếu không, làm sao cô lại có thể nói chuyện với cậu ấy như cô vẫn thường xuyên làm như vậy, dù đêm hay ngày, tâm sự với cậu ấy những bí mật, những khó khăn và niềm hạnh phúc của cô?

- Hơn nữa, Bartolomeo nói tiếp, Ngài Jahn đã được những người trong mạng lưới xác nhận: Milos vẫn sống. Chỉ có điều, phần tiếp theo hơi đáng lo ngại một chút, và đó là lý do tại sao anh không nói được với em về chuyện này.

- Em nghe anh nói đây, Helen nói và một cái rùng mình chạy khắp cơ thể.

- Là thế này, nếu như bọn chúng đã rộng lượng với cậu ấy và chữa chạy cho cậu ấy, Bartolomeo tiếp tục, thì đó là vì chúng đã có ý đồ trong đầu.

- Là gì?

- Ờ, anh sẽ nhắc lại những lời Ngài Jahn nói, như thế sẽ đơn giản hơn. Những người của hội Phalange khinh thường kẻ yếu và kẻ thua cuộc. Chúng không ngần ngại loại bỏ họ, giống như vứt bỏ một con vật ốm yếu. Nhưng chúng tôn trọng những kẻ mạnh. Trong khi đó, đối với chúng, Milos là kẻ mạnh. Cậu ấy đã chứng minh điều đó khi giết chết Pastor. Hơn nữa chúng còn phát hiện cậu ấy là một đô vật. Thế nên bọn chúng đã chữa chạy cho cậu ấy, và bây giờ, bọn chúng sẽ sử dụng cậu ấy trong các trận đấu của chúng.

- Trong các trận đấu của chúng ư? Helen nhắc lại, và cô có cảm giác không còn chút máu nào.

Làm sao có thể khéo léo giải thích về sự dã man của sàn đấu và về những cảnh bệnh hoạn ở đó được chứ? Bartolomeo cố gắng hết sức để làm điều đó, nhưng bất chấp tất cả nỗ lực của cậu, cậu chỉ trình bày được những điều không thể chịu nổi: “Không, người ta không thoát khỏi trận đấu.” “Đúng, cần có một trong hai người phải chết.” “Không, không có sự ban ơn, không bao giờ.”

- Các trận đấu mùa đông bắt đầu vào tuần tới, cậu nói hết để đi đến tận cùng sự thật. Và Milos sẽ có mặt ở đó…

Trong khoảnh khắc, cậu hy vọng Helen sẽ tát cậu, để trừng phạt cho những điều ghê rợn cậu vừa tuôn ra. Có lẽ cậu sẽ thoải mái hơn nếu cô làm như vậy, vì cậu tự ghét bản thân khi phải nói ra những điều ấy.

- Chúng ta sẽ làm gì? cuối cùng cô cũng lên tiếng bằng giọng yếu ớt.

- Anh không biết, Bartolomeo trả lời. Tất nhiên bọn anh đã nghĩ đến việc đưa cậu ấy ra khỏi đó, nhưng chỉ đến gần thôi đã là không thể. Các trại được quân đội canh gác.

- Thế thì không làm được gì ư? Helen khóc.

- Có chứ. Ngài Jahn nói không được để mất can đảm. Ngài nói rằng “Mọi chuyện đang nhúc nhích”.

- Mọi chuyện đang nhúc nhích ư?

- Đúng vậy. Mạng lưới đang sôi sục từ vài tháng nay. Anh phải giữ bí mật, đáng lẽ anh không được nói với em, nhưng mặc kệ.

- Thế tức là gì? Sắp có một cuộc nổi dậy ư? Khi nào vậy? Trước các trận đấu mùa đông chứ? Bart! Hãy trả lời em.

- Anh gần như không biết gì hết, Helen ạ. Họ chỉ tiết lộ cho anh một số chuyện nhỏ nhặt bởi vì anh có họ Casal và anh là con trai của bố anh, nhưng anh mới mười bảy tuổi, em hiểu không, chứ không phải sáu mươi tuổi như Ngài Jahn! Nếu anh biết được bất cứ chuyện gì, anh sẽ nói cho em. Hứa đấy!

“Hứa đấy!” Cậu đã nói từ này theo cách của Milos, dù không cố tình muốn thế. Helen gục trán lên hõm vai cậu. Cậu quá cao. Cậu nhẹ nhàng vuốt mái đầu cô.

- Đừng tuyệt vọng, Helen ạ. Khi chuyện trở nên thật xấu, hình như bố anh có thói quen nói để động viên mọi người: “Đừng lo lắng, dòng sông vẫn còn với chúng ta…”

Họ quay lại và nhìn vẻ tĩnh mịch của những con nước tối sẫm, gợn sóng lăn tăn ở những xoáy nước lấp lánh. Trên cây cầu Hoàng gia, từ phía xa xa, những chiếc ô tô cứ lướt đi trong vẻ yên lặng của màn đêm buông xuống.