Trận đấu mùa đông - Phần II - Chương 07

7. Buổi hòa nhạc

Khoảng cuối đông, cái lạnh bất ngờ ụp xuống khiến thành phố đóng băng dưới bầu trời xám bẩn. Mọi người trong nhà chừng nào có thể và, đến nửa ngày, các quảng trường, đường phố, đại lộ và công viên không có một bóng người, chỉ còn hàng trăm con quạ to lạnh cóng đến đậu trên các cành cây trụi lá. Chỉ duy nhất dòng sông đầy sức mạnh kháng cự được với sự khắc nghiệt này. Nó không chịu để bị đông cứng và tiếp tục thản nhiên trôi cùng dòng nước đen của nó.

Trong một thời gian, Helen từ bỏ các cuộc đi dạo, thay vì thế, các buổi chiều cô ngồi trong phòng đọc sách. Cô vặn to máy sưởi, chui vào trong chăn và chúi đầu vào cuốn tiểu thuyết yêu thích. Cô thấy dường như trong giai đoạn này, không có gì quan trọng có thể xảy ra, thế giời bị đóng băng lại. Nhưng cô cũng cảm thấy giữa sự trống rỗng của đợt băng giá này, nhiều điều sâu thẳm và lạ lẫm vận động trong cô. Như thể mặt đất đang ấp ủ trong hơi ấm bụng cô một cuộc sống bí mật và phập phồng. Cần phải chờ đợi…

Đôi khi, cuốn sách rơi xuống hai đầu gối và cô ngây người hồi lâu, đôi mắt dán lên một vết ố trên tường hay trên trần nhà, trong vẻ mơ màng đau khổ. Anh đang ở đâu, Milos ơi? Em yêu biết bao được nhìn lại mái tóc xoăn kỳ cục của anh, nắm chặt đôi bàn tay rộng của anh trong đôi bàn tay em, nói chuyện với anh, ôm hôn anh. Bọn chúng đối xử với anh có tệ lắm không? Dù thế nào anh cũng không quên em chứ?

Những suy nghĩ ấy làm nỗi buồn đè nặng lên cô, nhưng cô cần những khoảng khắc được lãng du cùng tình yêu vắng mặt ấy. Cô bắt đầu viết nhật ký, mỗi ngày cô đều viết cho người yêu dấu. Milos yêu quý, hôm nay em đã đi làm muộn. Em giải thích với anh… Milos yêu quý, cô Dora thật là không chịu nổi, anh có tưởng tượng được là sáng nay... Cô hài lòng kể về các sự kiện nhỏ nhặt trong cuộc sống của cô. Cô cũng tưởng tượng đến những việc bọn họ sẽ làm sau này, cả hai người, khi họ ở cùng nhau, nhưng cô không bao giờ viết ra được.

Cô vẫn trông ngóng Bartolomeo đến thăm, cậu ấy đã hứa sẽ đến thông báo cho cô ngay khi có tin tức mới. Cậu ấy không đến. Cô tự an ủi mình bằng cách nhớ đến điều cậu ấy đã nói bên bờ sông: “Anh biết nhiều chuyện, nhưng anh không được phép kể chúng cho em...” Một hôm, Milena tiết lộ cho cô biết Bartolomeo đã tham dự nhiều cuộc họp, nhưng cô ấy cũng vậy, không thể nói gì hơn về chuyện đó.

Một buổi chiều, bỗng dưng cô thấy chán tình cảnh ủ ê này, chán ngồi kiểu khép kín thế này. Cô mặc chiếc áo chui cổ dày nhất, đội chiếc mũ đầy màu sắc, ních chặt trong chiếc áo khoác và ra ngoài. Xe điện không chạy nữa, có lẽ trời lạnh đã làm hỏng máy móc. Một mình đi trên các vỉa hè vắng lặng, cô có cảm tưởng như đang bước đi trong một thành phố ma. Đi qua trước mặt nhà hát cũ, cô dừng lại và cẩn thận đi lên các bậc thang láng những váng băng. Làm sao có thể tưởng tượng được nhiều năm trước Dora cùng khoác tay Eva-Maria Bach đi lên cũng những bậc thang này, cả hai đều vô tư và vui sướng? Trên cánh cửa đã bị khóa và bị ghi đầy những chữ tục tĩu, cô phát hiện tờ quảng cáo. Cô không kịp quay đi, các chữ tục đã ấp đến trước mặt cô: Những trận đấu mùa đông… Sàn đấu… Đặt chỗ…

Hình minh họa, rất thực, là hai thanh kiếm màu đen dưới chùm ánh sáng đỏ nhạt của máy chiếu, một của người chiến thắng máu nhỏ giọt, một của kẻ chiến bại, bị gãy trong cát.

Những ngày sau đó, cô sống trong sợ hãi và chán nản. Cô cảm thấy mình sẽ ốm mất và tâm sự với cô Dora vào một buổi tối. Bất chấp lạnh giá làm rát đôi má họ, hai người vẫn đi dọc bờ sông, chú ý không để ai nghe lỏm.

- Nhưng cô Dora, ai sẽ đến xem những cảnh rùng rợn ấy, cô có thể nói với cháu được không?

- Thông thường thì tất cả các cốp của hội Phalange, Helen ạ. Những người phản đối sẽ bị coi như các “trường hợp tế nhị” và vì vậy bị nghi ngờ là có thể phản bội tổ chức sớm hay muộn.

- Nhưng như thế không đủ để lấp đầy các hàng ghế ngồi được! Hình như đông đến gãy cả chân tay vì chen lấn cơ mà...

- Đúng vậy, rất nhiều người đến đó.

- Nhưng vì sao ạ?

- Hoàn toàn đơn giản thôi, phải, cô tin là họ thích thế. Họ còn đến đó để thể hiện, cô nghĩ vậy, để lọt vào tầm mắt của những kẻ đứng đầu nhanh hơn, để có thể trở thành thành viên trong hội. Những thanh niên cũng được các ông bố kéo đến.Họ phải chứng tỏ họ có khả năng chịu đựng được những cảnh đó mà không nôn mửa. Thực ra, nó giống như một lễ kết nạp, nghi lễ phải trải qua trong các bộ lạc nguyên thủy. Sau đó, họ tin rằng họ là những người đàn ông.

- Những người đàn ông ư? Những kẻ man rợ thì có… Helen khẽ nói. Điều đó làm cháu thấy chán nản.

- Đúng. Tuy vậy, họ vẫn là anh em đồng loại của chúng ta về nguyên tắc… Đôi khi cô còn tự hỏi phải chẳng cô yêu quý các con vật hơn.

- Cô tin là còn có thể xảy ra điều gì đó không? Các trận đấu sẽ bắt đầu trong vòng hai tuần nữa, mà với cháu dường như nó xảy ra ngay trong ngày mai vậy. Cháu vô cùng lo lắng cho Milos. Cháu không thể nào ngủ được.

- Cô không biết, Helen ạ. Cô hy vọng là có. Cần tiếp tục hy vọng bất chấp tất cả những điều đen tối này xung quanh chúng ta. Cô nhớ điều tồi tệ nhất đã xảy ra chỉ mới vài ngày trước, vậy mà đã mười lăm năm. Thế nên cô tự nhủ điều tốt đẹp nhất có thể cũng như vây. Ngay cả nếu điều đó sẽ không bao làm những người đã mất của chúng ta sống lại.

- Cô tin vào Chúa chứ, cô Dora?

- Ngày trước, cô còn nghi ngờ. Kể từ khi bọn chúng đập nát bàn tay cô, và chúng thả lũ chó tấn công cô Eva, thì cô không còn tin nữa. Nhưng cô không muốn làm những người khác không tin vào Chúa… Cháu hỏi cô, thì cô nói với cháu như vậy.

- Nhưng vậy thì ai cho cô sức mạnh để sống... như cô đang sống?

- Như cô đang sống ư?

- Vâng. Cô cười suốt, cô biết an ủi, cô vui nhộn...

- Người ta không cần sức mạnh để được như thế. Và cả để buồn rầu hay độc ác cũng không, nhỉ?Cô không biết. Đó chắc là cách kháng cự của cô. Nhưng đó cũng là cách kháng cự của cháu. Hai cô cháu mình đều giống nhau. Chẳng thiên tài gì, nhưng cứng rắn!

Cô phá lên cười và nắm chặt tay Helen.

- Cháu muốn gì chứ: không phải tất cả chúng ta đều là Milena được!

- Theo cô, Milena có tư chất tốt như mẹ bạn ấy không ạ?

- Con bé được thiên phú cho tư chất khác. Giọng của con bé chắc chắn không khỏe bằng giọng của chị Eva. Không đầy đặn bằng, nếu muốn nói như vậy cũng được. Nhưng chính vì thế, con bé thể hiện các âm cao thỏa mái hơn. Và con bé có khả năng tìm thấy nhiều sắc thái, làm cho cháu có cảm tưởng như nghe một giai điệu mới mà thực ra cháu đã biết từ suốt bốn mươi năm qua.Cháu hiểu không?

- Cháu hiểu. Với bạn ấy, mọi thứ luôn luôn là lần đầu tiên.

Chính xác. Và hơn nữa, con bé có duyên, và điều đó cô không biết phải giải thích sao. Nó ở ngoài khía cạnh kỹ thuật. Có thể là phẩm chất tâm hồn con bé… Rất kỳ diệu. Tóm lại cô có thể nói với cháu: Milena sẽ là một ca sĩ xuất chúng. Nếu như những con lợn nhỏ không ăn thịt con bé...

Hai tên cảnh sát béo tròn, cổ áo bằng da lông để dựng sau cái đầu cạo trọc của chúng, cắt ngang qua họ bằng bước chân chậm chạp, lườm lườm nhìn họ và biến mất trong bóng tối.

- Nếu như những con lợn “béo” không ăn thịt bạn ấy, Helen đính chính lại bằng giọng khe khẽ.

Khoảng mười ngày sau, khi đến nhà ăn làm việc phục vụ bữa tối, cô bất ngờ không thấy cô Dora đâu.

- Cô ấy đâu? Cô hỏi hơn mười người nhưng tất cả đều không ai biết.

Sát bức tường trong cùng, một cái bục mới được kê lên, trên đó có một vật dược che dưới tấm vải màu xanh da trời.

- Cái gì vậy?

- Chúng tôi không biết.

Buổi tối hôm đó không ai biết gì hết.

Cô bắt đầu làm việc, có phần bối rối vì sự vắng mặt của người bạn lớn. Khách hàng, như thường lệ, kéo từ mười chín giờ, ních chặt trong khăn quàng và áo khoác mùa đông. Chỉ trong vài phút, tiếng ồn ào đã tràn ngập cả hai phòng. Helen cuối cùng cũng thích thú cuốn theo vũ điệu ba lê thường ngày của những cô gái chạy bàn trong chiếc tạp dề màu xanh da trời, sự phối hợp giữa các cô, thử thách lặp lại mỗi ngày để chống chọi với những cái bụng đói, mang đồ ăn ra, dọn bát đĩa, lau chùi và cuối cùng làm cho nhà hàng trở lại với vẻ yên ắng ban đầu của nó.

Cô tự nhủ chắc chắn cô sẽ làm được một việc khác trong cuộc đời cô, nhưng trong lúc chờ đợi cô trả ơn Ngài Jahn bằng cách hoàn thành hoàn hảo nhiệm vụ ông đã giao cho cô. Cô đã ra sao nếu không có ông ấy? Không có bác sĩ Josef, không có chú Mitaine? Tất cả những con người ấy tạo nên các mắt xích của một dây chuyền bí mật, cô đoán vậy. Có bao nhiêu người trong số những người nam nữ công nhân ngồi bên những chiếc bàn kia chia sẻ cùng một mong ước cháy bỏng được tự do trở lại, mọi người lại có thể nói chuyện với nhau, ca hát và mở lại cửa nhà hát? Ba tháng đã qua ở nhà hàng, Helen chưa từng nghe thấy bất cứ từ nào về cuộc nổi dậy. Một sự im lặng đến đinh tai! Nhưng có thể chỉ cần một ai đó dám là người đầu tiên để sau đấy mọi người đứng lên và mở trái tim họ?

Cô vừa mang đồ tráng miệng ra một chiếc bàn, một khay các bát nhỏ đựng đầy xi rô hoa quả, thì nghe thấy tiếng leng keng phía sau. Cô quay lại. Ngài Jahn đứng trên một chiếc ghế, lóng ngóng. Cái bụng to béo của ông xô lệch chiếc áo vest cài cúc, không cần duyên dáng. Ông cố làm mọi người im lặng bằng cách gõ thìa vào miệng cốc.

- Xin hãy lắng nghe! Xin hãy lắng nghe các bạn của tôi!

- Hiếm khi nhìn thấy Ngài Jahn lại dừng trước đám đông như thế. Trừ phi ông có lý do thật đặc biệt, và vẻ tò mò hiển hiện trên các khuôn mặt.

- Các bạn của tôi, xin hãy nghe tôi nói…

- Trước khi ông nói, Helen còn kịp thời nhận thấy khoảng chục người đàn ông khỏe mạnh đứng trước cửa ra vào, khoanh tay trước ngực. Cái đầu dài của họ, phần cổ gần như không có của họ, khối bụng và ngực đồ sộ của họ không khiến ai nghi ngờ: những nhân-mã. Cô chưa nhìn thấy họ bao giờ và cô bị ấn tượng vì ngoại hình đồ sộ của họ

- Các bạn của tôi… Jahn bắt đầu.

Cùng lúc đó, trong các bếp, mọi người xả hơi một chút sau khoảng thời gian “cháy” đồ ăn thường lệ. Giờ đây thì người ta đã mang đi những món tráng miệng cuối cùng, các lệnh gọi món đã im bặt, mọi người bắt đầu sắp xếp cất đồ và lau chùi các bếp ăn. Đó cũng là lúc bếp trưởng Lando thể hiện màn độc tấu như mọi ngày. Không ngắt quãng công việc, ông vui vẻ hát một bài opera. Sự chính xác tất nhiên là không, nhưng sức mạnh thì có. Mặt đỏ bừng, ông kết thúc nốt nhạc cuối vang vang, và cúi chào như một diva trong tiếng vỗ tay và tiếng cười.

Cặm cụi bên một trong số các chậu kẽm to đùng ở bồn rửa, Milena đang rửa bát đĩa với hai cô gái khác. Cả ba cùng cười đùa, nhưng Milena vội vã kết thúc công việc và đi ăn trong căng tin. Cô chết vì đói mất. Giờ này có lẽ Bartolomeo đã ở đấy.

- Kathleen, có người hỏi cậu trong phòng ăn đấy!

Lúc đầu, người ta phải gọi cô đến hai hay ba lần trước khi cô có phản ứng với cái tên mới của mình. Bây giờ, cô đã quen với cái tên đó, và cô quay lại ngay tức khắc.

- Trong phòng ăn ư? Ai lại muốn gặp tôi cơ chứ?

Cậu trai dang tay làm dấu hiệu không biết.

- Người ta hỏi cậu.

- Ai hỏi tôi thế?

- Ngài Jahn.

Cô tháo đôi găng tay cao su và đi theo cậu trai. Có chuyện gì đó không bình thường. Ông chú to béo ấy vẫn luôn dứt khoát cấm cô lộ mặt ở trên kia, và lần này lại chính là ông gọi cô lên. Cô đi lên cầu thang, ngạc nhiên vì sự im lặng không giống như thường ngày trong cả tầng nhà, và đẩy cánh cửa. Bác Jahn đợi cô ở phía sau. Ông vội vàng nắm lấy cánh tay cô, như thể lo sợ cô sẽ ba chân bốn cẳng chạy trốn mất vậy:

- Lại đây.

Cô để ông kéo đi, sửng sốt, đầu hết nhìn sang phải lại nhìn sang trái. Ánh mắt cô chỉ bắt gặp những đôi mắt chăm chú nhìn thẳng vào mặt cô. Các thực khách trong phòng thứ hai cũng đến nhập với những người trong phòng thứ nhất, đông tới nỗi người ta chỉ có thể dành đúng một lối đi giữa những chiếc ghế dài. Milena không hề cảm thấy lo lắng, mà chỉ vô cùng sửng sốt. Cô cứ phập phồng như thế đến tận cuối phòng. Ở dưới chân bục, cô Dora tươi tắn đón cô.

- Đến đây với cô nào.

Cô đi lên ba bậc thang và đứng trên sân khấu. Phía sau cô, một cậu trai nhảy lên và kéo tấm vải màu xanh da trời, để lộ ra một chiếc đàn piano vuông. Đến lúc này, Milena không có thời gian và phản xạ phản đối được nữa.

- Xảy ra chuyện gì vậy ạ? Cô ấp úng, nhưng cô sợ mình đã hiểu vấn đề.

- Đây là một buổi hòa nhạc, người đẹp ạ, cô Dora trả lời. Cô sẽ chơi đàn piano và con sẽ hát. Chúng ta biết làm việc đó, không phải thế sao?

Người trình diễn cùng cô mặc chiếc váy màu kem xinh xắn. Một bông hoa màu đỏ cài lên mái tóc hung xoăn của chị. Không chần chừ, cô ngồi lên chiếc ghế đẩu và chơi một giai điệu vui vẻ.

- Đáng lẽ các cô nên báo trước với con… Milena vẫn còn cự nự.

- Cô xin lỗi, bọn cô đã quên mất…

Milena thấy không có lối thoát nào khác cho cô ngoài cách hát. Cô chọn vị trí đứng quen thuộc, gần bên cô Dora, tay phải đặt lên cạnh đàn, và cô không cử động nữa, tin chắc mình không thể hát vấp. Cô mạnh dạn nhìn gian phòng trong đó người ta chỉ để một chút ánh sáng và cô nhận ra lần đầu tiên trong đời, cô đứng trước công chúng thực sự.

Rất nhiều người gửi đến cô những nụ cười cổ vũ và lòng khoan dung của họ làm cô cảm động. Cô nhận ra Bartolomeo, ngồi trên lưng tựa của một chiếc ghế, gần cửa sổ, giữa đám bạn của cậu. Cậu vẫy hai ngón tay về phía cô. Sẽ thật là đáng tiếc, cô tự nhủ, nếu mình không thể làm họ vui lòng, mình không được làm thế. Giờ đây sự im lặng trở nên tuyệt đối và sự chờ đợi đã lên đến đỉnh điểm.

- Schubert, bài số 764… Dora khẽ nói, nhưng, đúng lúc sắp chơi đoạn đầu tiên, cô ấy tạm ngừng lại và kín đáo ra hiệu bằng tay với Milena. Cô gái trẻ không hiểu.

- Có chuyện gì ạ? Cô khẽ hỏi.

- Cái tạp dề… Dora nói. Cởi cái tạp dề bếp của con ra…

Nhận thấy trang phục đang mặc hơi đặc biệt một chút với một nữ ca sĩ, Milena há mồm trong cách diễn tả quá thảm hại khiến khán giả cười phá lên. Trong lúc cuống quýt cởi chiếc tạp dề trắng, cô chỉ làm nút buộc sau lưng thắt chặt thêm, và phải gọi cô Dora giúp đỡ. Chỉ có điều cô Dora cũng không làm việc đó được khá hơn. Cô cố gắng gỡ sợi dây nhưng vô ích, người ta càng cười nhiều hơn. Việc này kéo dài trong một phút tưởng chừng như vô tận, sau đó đến lượt Milena cũng không thể ngăn cô bật cười, và cuối cùng cô cũng ban tặng cho mọi người khuôn mặt rạng ngời của cô. Đến lúc ấy, tất cả những người đã từng biết đến Eva-Maria Bach đều thấy xáo trộn. Họ nhận ra đôi mắt sáng biết cười của người mà ngày trước họ đã vô cùng yêu quý, nụ cười khoáng đạt của chị, niềm vui sống của chị. Chỉ còn thiếu mái tóc dài vàng óng.

- Schubert, bài số 764, Dora nhắc lại, và lần này, đó là phần khởi đầu thú vị.

Có lẽ chưa bao giờ Milena lại hát dở đến thế. Dường như cô mắc không sót một lỗi nào trong số tất cả các lỗi mà cô đã kiên nhẫn lần lượt sửa chữa trong bấy nhiêu thời gian tập luyện. Lúc thì cô vào trước, lúc thì cô vào sau, cô đảo lộn lời bài hát, giọng cô luôn bị run. Đến nốt nhạc cuối cùng cô nhìn Dora, đôi mắt đẫm nước, giận dữ với chính bản thân mình. Nhưng cô không kịp thất vọng. Những tràng vỗ tay nổi lên, và lập tức lắng xuống khi Dora vào nhạc một bài dân ca khác. Phần sau đó diễn ra tốt đẹp hơn. Cô gái dần dần cảm thấy yên tâm hơn. Sự bình yên của nội tâm đậu lại trong cô, và cuối cùng giọng cô cất lên, dày dặn và thanh thản.

Chỉ ngồi được một bên mông trên đầu chiếc ghế dài, Helen nín thở phía cuối phòng. Bên cạnh cô, một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi khẽ gật đầu và không kìm nén được vẻ xúc động.

- Con bé hát gần như cũng hay bằng mẹ, con bé này. À, giá như cô từng nghe Eva của chúng tôi hát, cô gái ạ… Khi tôi nghĩ đến điều bọn chúng làm với cô ấy, tôi thấy kinh tởm quá.

Cảnh chen lấn và vài lời chửi rủa to tiếng khiến họ quay lại. Ở cửa ra vào, các nhân-mã khống chế một người đàn ông rõ ràng đang tìm cách rời khỏi phòng.

- Không được ra ngoài… người to lớn nhất ung dung khẳng định khi nhấc gã kia lên khỏi mặt đất. Ngài Jahn đã nói như vậy.

Rồi anh ta đặt gã kia trở về đúng chỗ ngồi của hắn và ấn tay lên vai để giữ hắn, như thể người ta làm với một đứa trẻ con hiếu động.

Trật tự trở lại, Dora và Milena còn thể hiện bốn bài dân ca nữa. Helen nhận ra bài hát cuối cùng, bạn cô đã từng hát nhiều lần trước mặt cô.

Du holde Kunst, in wieviel grauen Stunden,

Wo mich des Lebens wilder Kreis umstrickt

Hast du mein Herz…

Cô ngân nga và mọi người lắng nghe. Họ nhận ra những lần chuyển giọng dù là nhỏ nhất của cô, thậm chí cả tiếng động vô cùng nhẹ của ngón tay cô trên phần gỗ của chiếc đàn piano, trong một thoáng nghĩ. Và khi nốt nhạc cuối vang lên, chỉ còn lại sự im lặng mà không ai dám phá vỡ.

- Trong chiếc giỏ của em… Dora khẽ nói và cô chơi hai nhịp của giai điệu.

Những khuôn mặt sáng lên. Trong chiếc giỏ của em! Milena sắp hát bài Trong chiếc giỏ của em!

Từ rất lâu người ta đã quên tác giả của bài dân ca thơ ngây và hoàn toàn đơn giản ấy, bài hát được hát chậm rãi, nhẹ nhàng, không dữ dội. Bài hát đã truyền qua nhiều thế kỷ, nhẹ nhàng và u sầu, mà không một ai cố tìm để hiểu ý nghĩa. Chúa mới biết tại sao hội Phalange cứ đinh ninh trong đầu rằng bài hát có chứa một ẩn ý, và thế là chúng cấm bài hát ấy. Và hiển nhiên biến giai điệu nhỏ ấy thành vật lấy phúc cho Kháng chiến là một phương pháp tốt nhất, cũng giống như cách con lợn khổng lồ Napoléon trở thành vật lành của Kháng chiến vậy. Không bao giờ ai biết có thứ gì ở bên trong chiếc giỏ đậy khăn ấy. Người ta chỉ biết thứ không có trong đó, và có lẽ đó là điều đã kích động cơn điên dại của những kẻ theo hội Phalange.

Trong chiếc giỏ của em, Milena bắt đầu hát,

Trong chiếc giỏ của em, không có những quả anh đào,

Hoàng tử của em ơi,

Những quả anh đào đỏ chót,

Cũng không có những quả hạnh.

Không có những chiếc khăn tay,

Những chiếc khăn tay thêu,

Cũng không có những hạt ngọc trai.

Không có mệt nhọc và phiền muộn, tình yêu của em,

Không có mệt nhọc và phiền muộn…

Những người đầu tiên hát theo giai điệu ấy là mấy người phụ nữ, một cách dè dặt. Rồi giọng trầm của một người đàn ông phía cuối phòng. Ai là người đứng lên đầu tiên? Điều đó không thể biết được, nhưng chỉ vài giây sau, tất cả phòng đều đã đứng dậy. Chỉ duy nhất một người vẫn ngồi chính là gã đã muốn ra ngoài vài phút trước. Lại vẫn chính là anh chàng nhân-mã chắn đường hắn ta lúc trước giờ đây nắm cổ áo vest hắn và bắt hắn đứng lên như những người xung quanh. Không một ai chịu hát nhỏ nữa, họ hòa giọng mình với tiếng hát của những người khác, không gượng ép. Những lời thơ ngây của bài hát vang lên như tiếng rì rầm âm thầm từ mặt đất.

Trong chiếc giỏ của em, không có con gà mái,

Cha ơi,

Con gà mái để người vặt lông.

Cũng không có con vịt.

Không có đôi găng tay bằng nhung,

Đôi găng tay được may cẩn thận.

Không có mệt nhọc và phiền muộn, tình yêu của em ơi,

Không có mệt nhọc và phiền muộn.

Helen cũng không phải là ngoại lệ: xung quanh cô, mấy chục người lớn tuổi rút khăn mùi soa và nước mắt lăn trên má. Vì một bài dân ca! Trong khi vỗ tay bằng tất cả sức lực, cô cũng cảm thấy cổ họng nghẹn lại. Đừng lo lắng, Milos! Người ta sẽ đến! Em không biết như thế nào, nhưng người ta sẽ đưa anh ra khỏi đó!

Buổi hòa nhạc kết thúc. Ngài Jahn đi lên sân khấu, tặng hai nữ nghệ sĩ mỗi người một bó hoa và ôm hôn họ. Các nghệ sĩ đi xuống, trong khi mấy người đàn ông đã chuyển chiếc đàn piano đi và bắt đầu tháo dỡ bục. Helen rất muốn đến khen ngợi hai người bạn, nhưng cô không làm sao đến gần được khi đám đông kín đặc xung quanh hai người. Một lúc sau, khi mọi người đã rời khỏi phòng, cô hoàn thành nốt công việc dọn dẹp và sắp xếp cùng những người bạn. Khi cuối cùng cô cũng được trở về phòng ngủ, đã quá mười hai giờ đêm.

Trên lối về, cô gõ cửa phòng Milena, nhưng không có tiếng trả lời. Cô lại đi xuống hai tầng và đến gõ cửa phòng Bartolomeo. Ở đây cũng không, không có ai cả. Cô về ngủ và nghe ngóng một cách vô ích trong đêm tối tiếng động của chìa tra trong ổ khóa phòng bên cạnh. Khoảng bốn giờ sáng, cô nghe thấy hình như có tiếng súng nổ đằng xa. Cô thức dậy, đứng lên ghế và mở cửa sổ mái. Một làn hơi lạnh buốt phả vào mặt cô. Mấy chiếc ô tô con đang phóng nhanh qua cầu Hoàng gia. Còn có thêm những tiếng súng, tiếng quát tháo, từ đằng xa, rồi sau đó là im lặng. Helen đi ngủ lại, đầy sợ hãi và hy vọng lẫn lộn.

Lúc mờ sáng, cô giật mình tỉnh giấc vì tiếng cánh cửa vỡ do bị đạp bằng chân. Cô thức dậy, kinh hãi, nghĩ rằng họ cố vào phòng cô, nhưng những người đàn ông ùa cả vào trong phòng Milena, ở bên cạnh. Cuộc khua khoắng diễn ra dữ dội nhưng nhanh chóng, không có cái gì to tát để lấy đi hay đập vỡ. Ngay khi bọn chúng đi khỏi, cô đứng dậy và thấy ngoài hành lang còn có năm cô gái khác trong bộ áo ngủ. Họ đều nín lặng vì kinh sợ, các cuốn sách của Milena vung vãi trên nền nhà, giá kệ bị đập gãy, những đồ linh tinh bị giẫm nát, các bản nhạc bị xé rách.

- Thật đáng sợ… cô gái trẻ nhất nấc lên và ôm chặt chiếc gối trong ngực, như để tự bảo vệ.

- Hình như cuộc nổi dậy đã bắt đầu vào đêm nay, một cô khác nói.

- Làm sao cậu biết?

- Các chị không nghe thấy những tiếng súng nổ sao? Và nữa là Ngài Jahn đã biến mất.

- Khi nào vậy?

- Lúc tối. Ông ấy đã đi với Kathleen, và với anh chàng cao kều vẫn thường ra ngoài cùng cô ấy.

- Bartolomeo ư? Họ đã ra đi? Helen ấp úng. Họ đã không nói gì với tôi cả!

- Cũng không nói gì với tôi, cô gái kia trả lời. Nhưng buồng ngủ của tôi nhìn ra con phố đằng sau. Đúng ngay sau buổi hòa nhạc, tôi đã nhìn qua cửa sổ và tôi thấy họ lên hai chiếc ô tô con.

- Hai chiếc ô tô ư? Một cái thôi cũng đủ, đúng không?

- Không, còn có nhiều người khác nữa. Tôi nhìn thấy cả Lando, ông bếp trưởng, và cả các nhân-mã đứng canh cửa. Tất cả bọn họ đi cùng nhau.

- Đi đâu vậy?

- Sao mà tôi biết được chứ?

- Đúng vậy. Tôi xin lỗi…

Helen ở lại một mình trong phòng Milena để thu dọn một chút. Trong số các bản nhạc bị xé rách, cô nhặt trúng bài Chiếc giỏ nhỏ mà trong đó không có gì hết. Cô mang về phòng và cất vào túi trong của áo khoác.

Rồi cô lại lên giường nằm nóng lòng chờ đợi ngày mới xuất hiện.