Vợ người du hành thời gian - Phần II - Chương 02 phần 1

Thư viện khoa học
giả tưởng

Thứ Tư, 8/3/1995
(Henry 31 tuổi)

HENRY: Matt và tôi đang chơi
trốn tìm trong các giá sách ở khu vực sách đặc biệt. Cậu ấy tìm tôi vì chúng
tôi phải tổ chức buổi Show ‘N Tell thư pháp cho ủy viên quản trị Newberry và
câu lạc bộ các quý bà thư pháp của bà ấy. Tôi trốn cậu ấy vì đang cố mặc quần
áo đầy đủ vào người trước khi cậu ấy thấy tôi.

“Thôi nào, Henry, họ đang
đợi.”, Matt gọi vọng ra từ đâu đó trong khu vực sách một mặt. Tôi kéo quần lên
trong khu vực sách nghệ thuật Pháp thế kỉ 20. “Đợi một chút, tớ muốn tìm thứ
này đã”, tôi gọi với ra. Tôi tự nhủ sẽ phải học thuật nói bụng phát ra
những âm thanh nghe như thể của một người đang ở xa cho những trường hợp như
thế này. Giọng Matt đang tiến lại gần hơn, “Cậu biết bà Connelly sẽ rất lo lắng
nếu chậm trễ, quên thứ cậu đang tìm đi, ra đây...” Matt thò đầu vào đúng lúc
tôi đang cài cúc áo. “Cậu đang làm gì đấy?”

“Sao cơ?”

“Cậu lại trần truồng mà chạy
lông nhông hả?”

“Có lẽ vậy.” Tôi giả đò thờ
ơ.

“Vì Chúa, Henry, đưa xe đây.”
Matt túm lấy chiếc xe chất đầy sách và bắt đầu kéo về phía phòng đọc. Cánh cửa
kim loại nặng nề mở ra rồi đóng lại. Tôi đi tất, xỏ giày vào, thắt cà vạt, phủi
bụi trên áo khoác và mặc lên người. Rồi tôi bước vào phòng đọc, đứng đối
mặt với Matt qua chiếc bàn học dài vây quanh bởi các quý bà trung niên giàu có,
và bắt đầu diễn thuyết về những cuốn sách viết tay của thiên tài thư pháp
Rudolf Koch. Matt trải lớp nỉ rồi mở hồ sơ và những món đồ thông thái về Koch
ra. Đến cuối buổi, cậu ấy tỏ ra có vẻ sẽ không giết chết tôi lần này. Các quý
bà hạnh phúc bỏ đi ăn trưa. Matt và tôi đi quanh bàn, nhét sách trở lại hộp của
chúng và vào xe đẩy.

“Tớ xin lỗi vì sự chậm trễ”,
tôi nói.

“Nếu không phải vì cậu có
tài”, Matt đáp, “thì chúng tôi đã thuộc da cậu và dùng để đóng Bản
tuyên ngôn của Chủ nghĩa Khỏa thân
 rồi.”

“Chẳng có cuốn sách nào như
thế cả.”

“Cược không?”

“Không.” Chúng tôi đẩy xe trở
lại các giá sách và bắt đầu xếp chúng lên. Tôi khao Matt bữa trưa ở Beau Thai,
và mọi chuyện được xí xóa, nhưng không được quên.

Thứ Ba, 11/4/1995 (Henry
31 tuổi)

HENRY: Có một dãy cầu thang ở
thư viện Newberry mà tôi rất e ngại. Nó nằm cuối hành lang dài chạy qua suốt
bốn tầng, ngăn cách phòng đọc khỏi những dãy giá sách. Nó không hùng vĩ như cầu
thang chính với những bậc thang cẩm thạch và chấn song chạm trổ. Nó không có
khoang hở. Nó được lắp đèn huỳnh quang, tường bê tông xỉ than, bậc thang bê
tông sơn các dải an toàn màu vàng. Cửa kim loại không cửa sổ ở mỗi tầng. Nhưng
đây không phải là những điều khiến tôi ái ngại. Điều tôi sợ ở dãy cầu thang này
là cái lồng.

Cái lồng cao bốn tầng ở giữa
trung tâm cầu thang.

Mới nhìn, nó trông hệt như
lồng thang máy, nhưng không có thang máy, trước đây cũng không. Không ai ở
Newberry biết cái lồng này dùng để làm gì, hay tại sao nó được lắp ráp. Tôi
đoán chắc để ngăn người ta khỏi nhảy xuống cầu thang và đáp xuống đất trong
hình hài bầy nhầy một đống. Cái lồng được sơn màu vàng be. Nó được làm từ thép.

Khi tôi mới đến làm việc ở
Newberry, Catherine đã dẫn tôi đi khắp mọi ngóc ngách. Cô ấy tự hào chỉ cho tôi
các dãy giá sách, phòng phân loại và phòng chưa đem vào sử dụng ở phía đông,
nơi Matt tập hát, phòng ngủ nhỏ bừa bộn đến kinh ngạc của McAllister, phòng làm
việc cá nhân của nhân viên, phòng ăn. Lúc Catherine mở cửa cầu thang, khi trên
đường đến phòng thảo luận, tôi đã bị hoảng loạn trong giây lát. Tôi liếc nhìn
đống dây nhợ lòng thòng của cái lồng và khựng lại, như một con ngựa bất kham.

“Đó là cái gì vậy?” Tôi hỏi Catherine.

“Ồ, đó là cái lồng”, cô ấy trả lời.

“Lồng thang máy?”

“Không, chỉ là một cái lồng thôi. Tôi không nghĩ nó có chức năng gì cả.”

“Ồ.” Tôi bước lại gần, nhòm vào trong. “Có cửa ở dưới không?”

“Không. Không thể vào trong đó được.”

“Ồ.” Chúng tôi bước lên cầu thang và tiếp tục chuyến tham quan.

Kể từ đó, tôi đã tránh không sử dụng cầu thang. Tôi cố không nghĩ đến cái
lồng; tôi không muốn bày vẽ chuyện. Nhưng nếu tôi hiện hình trong đó, sẽ không
có cách nào thoát ra.

Thứ Sáu, 9/6/1995 (Henry 31 tuổi)

HENRY: Tôi hiện hình trên sàn nhà vệ sinh nam dành cho nhân viên ở tầng bốn
thư viện Newberry. Tôi đã đi mấy ngày trời, lạc ở năm 1973, đâu đó vùng quê
Indiana. Tôi mệt, đói và râu ria lởm chởm; tệ nhất là, mắt tôi thâm tím và tôi
không thể tìm thấy quần áo của mình. Tôi đứng dậy và đóng cửa buồng vệ sinh,
ngồi xuống nghĩ. Trong lúc tôi đang nghĩ, có người bước vào, kéo khóa quần và
làn nước tiểu chảy ra. Sau khi xong việc, anh ta kéo khóa và đứng yên trong vài
giây, ngay lúc đó tôi hắt hơi.

“Ai đó?” Roberto nói. Tôi ngồi im. Qua khe hở dưới cửa, tôi thấy Roberto
đang từ từ cúi người xuống và nhìn vào chân tôi.

“Henry?” ông ấy nói. “Tôi sẽ bảo Matt mang quần áo cho cậu. Vui lòng mặc
vào rồi đến văn phòng tôi.”

Tôi lẻn vào văn phòng Roberto và ngồi xuống đối diện ông ấy. Ông ấy đang có
điện thoại, nên tôi lén nhìn vào tờ lịch trên bàn. Đang là thứ Sáu. Đồng hồ
phía trên chỉ 2 giờ 17. Tôi đã biến mất hơn 22 tiếng. Roberto từ tốn đặt ống
nghe xuống và quay sang tôi. “Đóng cửa lại”, ông ấy nói. Đây đơn thuần chỉ là
hình thức, vì các bức tường của văn phòng của chúng tôi không thực sự cao kín
tới trần nhà, nhưng tôi vẫn làm theo lời ông ấy bảo.

Roberto Calle là một học giả lỗi lạc về thời kì Phục Hưng Ý và là chủ nhiệm
của phòng sưu tập đặc biệt. Ông ấy là một người đàn ông trung niên hồng hào,
râu quai nón, và rất thân thiện; ông ấy đang nhìn tôi buồn bã sau cặp kính cận
và nói, “Thư viện không thể chấp nhận chuyện này được, cậu hiểu chứ?”

“Vâng, tôi hiểu.”

“Tôi có thể hỏi làm sao mắt cậu lại thâm quầng ấn tượng thế chứ?”

“Tôi nghĩ tôi đã va vào cây.”

“Dĩ nhiên rồi. Tôi mới ngớ ngẩn làm sao khi không nghĩ ra chuyện đó.” Chúng
tôi ngồi và nhìn nhau. Roberto nói, “Hôm qua tôi tình cờ nhìn thấy Matt ôm một
chồng quần áo đi vào văn phòng của cậu. Vì đây không phải là lần đầu tiên tôi
nhìn thấy Matt đi loanh quanh với quần áo trên tay, nên tôi hỏi cậu ấy đã lấy
đâu ra chỗ quần áo đó, và cậu ấy nói rằng cậu ấy nhặt được nó trong phòng vệ
sinh nam. Tôi lại hỏi vì sao cậu ấy cảm thấy cần phải chuyển đống quần áo đó
tới văn phòng của cậu, và cậu ấy bảo vì chúng trông như những gì cậu đã mặc, và
đúng vậy. Và vì không ai có thể tìm thấy cậu, nên chúng tôi đã để chồng quần áo
lên bàn của cậu.”

Ông ấy dừng lại như thể đáng ra tôi phải nói gì, nhưng tôi không thể nghĩ
ra điều gì hợp lí để nói. Ông ấy tiếp tục, “Sáng nay Clare gọi điện và báo với
Isabelle rằng cậu bị cúm, không thể đi làm.” Tôi tựa đầu vào tay. Mắt tôi đang
giật liên hồi. “Cậu tự giải thích đi”, Roberto nói.

Tôi rất muốn được nói, Roberto ạ, tôi bị mắc kẹt ở năm 1973 và
không thể trở lại. Tôi đã ở Muncie, Indiana, suốt mấy ngày trời và phải sống
trong chuồng gia súc. Tôi đã bị thụi bởi gã chủ chuồng gia súc đó vì hắn nghĩ
tôi đang tính giở trò đồi bại với con cừu của gã. 
Nhưng dĩ nhiên tôi
đã không nói vậy. Tôi nói, “Tôi thực sự không thể nhớ được gì, Roberto ạ. Tôi
xin lỗi.”

“Thôi thì, có lẽ Matt đã thắng.”

“Thắng gì cơ?”

Roberto mỉm cười, tôi nghĩ có lẽ ông ấy sẽ không đuổi việc tôi. “Matt cược
rằng cậu sẽ không thèm giải thích. Amelia đặt tiền vào cửa bắt cóc bởi
người ngoài hành tinh. 
Isabelle cược cậu có dính líu đến đường dây ma
túy quốc tế, đã bị bắt cóc và bị giết bởi xã hội đen.”

“Catherine thì sao?”

“Ồ, Catherine và tôi tin rằng tất cả những chuyện này là do sở thích tình
dục kì quái lập dị không thể nói ra có liên quan đến thoát y và sách.”

Tôi hít một hơi dài. “Nó giống chứng động kinh hơn”, tôi nói.

Roberto có vẻ hoài nghi. “Động kinh? Cậu biến mất trưa ngày hôm qua. Cậu bị
thâm tím một bên mắt và trầy xước khắp tay lẫn mặt. Tôi đã sai bảo vệ đi tìm
cậu khắp mọi ngóc ngách của tòa nhà; họ bảo tôi rằng cậu có sở thích cởi quần
áo giữa những giá sách.”

Tôi nhìn chằm chằm vào móng tay của mình. Khi tôi ngẩng lên, Roberto đang
đăm chiêu nhìn ra cửa sổ. “Tôi không biết phải làm gì với cậu, Henry ạ. Tôi rất
ghét nếu phải thiếu cậu; khi cậu ở đây và ăn vận đầy đủ, cậu khá... xuất sắc,
hữu ích. Nhưng cứ thế này thì không được.”

Chúng tôi ngồi và nhìn nhau trong vài phút. Cuối cùng Roberto nói, “cam
đoan với tôi chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra nữa.”

“Tôi không thể. Tôi ước nếu tôi có thể.”

Robert thở dài, rồi xua tay về phía cửa. “Đi. Đi phân loại bộ sưu tập
Quigley đi. Nó sẽ giữ cậu tránh xa khỏi phiền toái một thời gian.” (Bộ sưu tập
Quigley, vừa được hiến tặng, là tuyển tập Victoria gồm hơn 2.000 bản, chủ yếu
là kịch dài tập). Tôi gật đầu vâng lời và đứng dậy.

Lúc tôi mở cửa, Roberto nói, “Henry, nó tệ đến mức cậu không thể kể cho ta
nghe?”

Tôi ngập ngừng, “Phải”, rồi nói. Roberto im lặng. Tôi đóng cửa lại và đi về
văn phòng. Matt đang ngồi sau bàn của tôi, chép lịch của cậu ấy sang của tôi.
Cậu ấy ngước lên nhìn lúc tôi bước vào. “Ông ấy có đuổi việc cậu không?” Matt
hỏi.

“Không”, tôi đáp.

“Tại sao không?”

“Chịu.”

“Kì lạ. Mà này, tớ đã thay cậu giảng buổi thuyết trình cho Những Người Thợ
Đóng Sách Chicago rồi đấy.”

“Cảm ơn. Đãi cậu bữa trưa mai đền đáp nhé?”

“Được thôi.” Matt ghi vào cuốn lịch trước mặt. “Chúng ta có buổi Show ‘N
Tell cho lớp Lịch sử Nghệ thuật In máy từ Columbia trong 45 phút nữa.” Tôi gật
đầu và lục tìm trên bàn của mình danh sách ấm phẩm chuẩn bị phải đưa ra.
“Henry?”

“Sao?”

“Cậu đã ở đâu?”

“Muncie, Indiana. 1973.”

Matt đảo mắt và cười mỉa mai. “Coi như tớ chưa hỏi.”

Chủ Nhật, 17/12/1995
(Clare 24 tuổi, Henry 8 tuổi)

CLARE: Tôi đến thăm Kimy vào
buổi trưa Chủ Nhật đầy tuyết tháng Mười Hai. Tôi đã ra ngoài mua sắm cho Giáng
Sinh, và giờ đang ngồi trong căn bếp của Kimy uống sô-cô-la nóng, sưởi ấm hai
bàn chân trên chiếc lò sưởi ốp sát chân tường, kể cho bà nghe những câu chuyện về
đồ trang trí và giá cả. Kimy chơi bài một mình trong lúc chúng tôi nói chuyện;
tôi ngưỡng mộ cách xào bài điêu luyện của bà, cách bà đập quân bài đỏ lên bài
đen. Nồi thịt hầm đang sôi trên bếp. Có tiếng động trong phòng ăn; một chiếc
ghế đổ xuống. Kimy ngẩng đầu lên, quay người.

“Kimy”, tôi thì thầm. “Có một
cậu bé dưới bàn ăn.”

Có tiếng khúc khích. “Henry?”
Kimy hỏi với ra. Không có tiếng trả lời. Bà đứng ở ngưỡng cửa. “Này, anh bạn.
Thôi ngay đi. Mặc quần áo vào.” Kimy đi vào phòng ăn. Tiếng thì thầm. Tiếng
khúc khích. Im lặng. Bỗng nhiên có một cậu bé trần truồng đang đứng ở cửa nhìn
tôi chằm chằm, và bất ngờ như khi đến, cậu bé biến mất. Kimy quay trở lại,
ngồi xuống bàn và tiếp tục chơi bài.

“Ôi”, tôi nói.

Kimy mỉm cười. “Gần đây những
việc như vậy không còn diễn ra thường xuyên nữa. Giờ mỗi khi nó đến, nó đều đã
trưởng thành. Nó không thường đến như trước.”

“Cháu chưa từng thấy anh ấy
đi xuôi dòng thời gian như vậy, tới tương lại.”

“Thì cháu đâu đã có nhiều
tương lai với nó.”

Mất một vài giây tôi mới
hiểu ý bà. Tôi tự hỏi tương lai đó sẽ như thế nào, và rồi tôi nghĩ đến tương
lai nới rộng, dần dần mở ra đủ nhiều để Henry đến với tôi từ quá khứ. Tôi uống
sô-cô-la và nhìn đăm đăm ra khu vườn đóng băng của Kimy.

“Bà có nhớ anh ấy không?” tôi
hỏi.

“Có, ta nhớ. Nhưng giờ nó đã
lớn. Mỗi khi nó đến chỗ ta trong hình hài một đứa trẻ, nó giống như một bóng ma
vậy. Cháu hiểu không?” Tôi gật đầu. Kimy kết thúc ván bài, gom bài lại. Bà nhìn
tôi mỉm cười. “Khi nào các cháu định sinh con, hả?”

“Cháu không biết nữa, Kimy.
Cháu không chắc bọn cháu có thể.”

Bà đứng dậy, đi về phía bếp
và khuấy nồi thịt hầm. “Không nói trước được”

“Phải.” Không biết trước
được.

Lát sau, Henry và tôi nằm
trên giường của mình. Tuyết vẫn đang rơi; chiếc lò sưởi phát ra những tiếng cục
cục yếu ớt. Tôi quay sang Henry, anh ấy nhìn tôi và tôi nói, “Hãy cùng tạo ra
em bé nào.”

Thứ Hai, 11/3/1996 (Henry
32 tuổi)

HENRY: Tôi đã tìm được bác sĩ
Kendrick; ông ấy đang làm việc ở bệnh viện Đại học Chicago. Hôm nay là một ngày tháng Ba lạnh và
ẩm ướt. Tháng Ba ở Chicago
giống như sự cải thiện của tháng Hai, nhưng đôi khi không phải vậy. Tôi bước
lên tàu điện và ngồi ngược chiều đi. Chicago
trôi qua sau lưng chúng tôi và không lâu sau chúng tôi đã ở đường 59. Tôi xuống
tàu và vật lộn dưới cơn mưa tuyết. Đang là chín giờ sáng, thứ Hai. Mọi người ủ
rũ, khự nự lại với thực tế phải bước vào một tuần làm việc mới. Tôi thích công
viên Hyde. Nó khiến tôi có cảm giác như đã thoát ra khỏi Chicago
và bước vào một thành phố khác, Cambridge
chẳng hạn. Các tòa nhà bằng đá xám xịt u ám dưới cơn mưa và những rặng cây khô
nhỏ từng giọt nước nặng nề xuống lữ khách qua đường. Tôi cảm thấy như vừa vượt
qua cơn bão tôi sẽ thuyết phục được Kendrick, cho dù tôi đã thất bại nhiều lần
khi thuyết phục nhiều bác sĩ khác. Ông ấy sẽ là bác sĩ của tôi, vì trong tương
lai ông ấy là bác sĩ của tôi.

Tôi bước vào một tòa nhà nhái
phong cách Mies bên cạnh bệnh viện. Tôi đi thang máy lên tầng ba, mở cánh cửa
bằng kính có treo bảng tên màu vàng khắc chữ Bác sĩ C.P Shane và Bác Sĩ
D.L Kendrick,
 báo tên cho lễ tân và ngồi xuống một trong những chiếc
ghế bọc màu hoa oải hương. Phòng đợi có màu hồng và tím, có lẽ để làm an dịu
bệnh nhân. Bác sĩ Kendrick là nhà nghiên cứu di truyền học, và không ngẫu
nhiên, là một triết gia; vế sau chắc hẳn để bù đắp cho thực tế khắc nghiệt của
vế trước. Hôm nay không có ai ở đây ngoài tôi. Tôi đến sớm mười phút. Giấy dán
tường hình sọc có màu giống hệt của Pepto-Bismol. Nó đối lập với bức tranh cối
xay nước chỉ độc màu xanh và nâu trước mặt tôi. Nội thất theo phong cách giả
thuộc địa, nhưng có một tấm thảm khá đẹp, một loại thảm Ba Tư mềm, và tôi cảm
thấy tiếc thay cho nó, bị mắc kẹt ở đây, trong phòng chờ rùng rợn này. Lễ tân
là một người phụ nữ trung niên có vẻ ngoài hiền hậu với những nếp nhăn từ
nhiều năm tắm nắng; da bà ấy rám nắng, giữa tháng Ba, ở Chicago.

Đúng 9 giờ 35, tôi nghe có
tiếng người trong hành lang và một phụ nữ tóc vàng bước vào phòng chờ cùng với
một cậu bé ngồi trên xe lăn. Cậu bé có vẻ bị mắc chứng liệt não hay gì đó tương
tự. Người phụ nữ mỉm cười với tôi; tôi mỉm cười đáp lại. Khi cô ấy quay người,
tôi nhận ra cô ấy đang có mang. Lễ tân nói, “Cậu có thể vào, cậu DeTamble”, và
tôi mỉm cười với cậu bé trong lúc đi ngang qua. Đôi mắt to của cậu bé nhìn tôi
đáp, nhưng cậu bé không cười lại.

Lúc tôi bước vào văn phòng
của bác sĩ Kendrick, ông ấy đang viết ghi chú vào hồ sơ. Tôi ngồi xuống và ông
ấy vẫn tiếp tục viết. Ông ấy trẻ hơn tôi nghĩ; cuối ba mươi. Tôi đã luôn nghĩ
bác sĩ phải là những người già. Đó là kết quả của tuổi thơ không ngừng gặp bác sĩ.
Kendrick có mái tóc đỏ, mặt mảnh dẻ, râu quai nón và cặp kính dầy cộm có dây
đeo. Ông ấy trông hơi có chút giống D.H Lawrence. Ông ấy đang mặc một bộ vét
màu xám than và cà vạt xanh sẫm nhỏ, kẹp cà vạt cá hồi. Một chiếc gạt tàn đầy
tràn dưới khuỷu tay; căn phòng ngập khói thuốc, cho dù lúc này ông ấy không
hút. Mọi đồ vật trông rất tân thời: các ống thép, vải dệt màu be, gỗ vàng. Ông
ấy ngẩng lên nhìn tôi và mỉm cười.

“Chào buổi sáng, cậu
DeTamble. Tôi có thể giúp gì cho cậu?” Ông ấy nhìn vào lịch của mình. “Có vẻ
như tôi không có nhiều thông tin của cậu ở đây. Cậu gặp vấn đề gì?”

Dasein[1] .”

[1] Dasein (tiếng Đức): sự tồn tại.

Kendrick khựng lại. “Dasein? Sự
tồn tại? Sao lại như vậy?”

“Tôi mắc chứng mà tôi sẽ được
nói cho biết là chứng suy giảm thời gian. Tôi gặp khó khăn để trụ lại với hiện
tại.”

“Gì cơ?”

“Tôi đi xuyên thời gian.
Không tự nguyện.”

Kendrick bối rối, nhưng nén
lại. Tôi thích ông ấy. Ông ấy đang gắng tiếp chuyện tôi như với một người tỉnh
táo, cho dù tôi chắc rằng ông ấy đang cân nhắc nên gửi tôi đến bác sĩ tâm thần
nào.

“Nhưng tại sao cậu lại cần
một nhà di truyền học? Hay cậu đang hỏi ý kiến tôi với tư cách triết gia?”

“Đó là căn bệnh thuộc di
truyền. Cho dù sẽ là khá thú vị nếu được nói chuyện với ai đó về vấn đề dễ chịu
hơn của rắc rối này.”

“Cậu DeTamble, cậu hiển nhiên
là một chàng trai thông minh... nhưng tôi chưa bao giờ nghe đến căn bệnh này.
Tôi e rằng không thể giúp gì được cho cậu.

“Ông không tin tôi.”

“Phải. Tôi không tin cậu.”

Giờ thì tôi mỉm cười đau khổ.
Tôi cảm thấy tệ hại về việc này, nhưng không còn cách nào khác. “Tôi đã gặp khá
nhiều bác sĩ, nhưng đây sẽ là lần đầu tiên tôi đưa ra điều gì đó làm bằng
chứng. Dĩ nhiên sẽ không ai tin tôi. Ông và vợ đang trông chờ sự ra đời của cậu
con trai vào tháng sau phải không?”

Ông ấy cảnh giác. “Phải. Làm
sao cậu biết?”

“Vài năm nữa tôi sẽ được nhìn
thấy giấy khai sinh của con trai ông. Tôi đã trở về quá khứ của vợ tôi và viết
ra những thông tin trong phong bì này. Cô ấy đưa lại cho tôi khi chúng tôi gặp
nhau trong hiện tại. Giờ thì tôi đưa nó cho ông. Mở nó ra sau khi con trai ông
chào đời.”

“Chúng tôi sắp sinh con gái.”

“Không, ông nhầm rồi”, tôi từ
tốn nói. “Nhưng hãy đừng đôi co về chuyện đó. Giữ nó lại, và mở nó ra sau khi
đứa bé ra đời. Đừng vứt nó đi. Sau khi đọc, hãy gọi cho tôi, nếu ông muốn.” Tôi
đứng dậy và ra về. “Chúc may mắn”, tôi nói, cho dù gần đây tôi không còn tin
vào may mắn nữa. Tôi thực sự rất thương cho ông ấy, nhưng không còn cách nào
khác.

“Tạm biệt, cậu DeTamble”, bác
sĩ Kendrick nói lạnh lùng. Tôi ra về. Trong lúc bước tới thang máy, tôi tự nhủ
chắc hẳn ông ấy đang mở phong bì ra ngay lúc này. Bên trong là một dòng chữ
đánh máy. Viết:

Colin Joseph Kendrick

6 tháng Tư, 1996, 1 giờ 18
phút sáng

6 pound, 8 auxơ, nam

Hội chứng Down.

Thứ Bảy, 6/4/1996, 5 giờ
32 phút sáng (Henry 32 tuổi, Clare 24 tuổi)

HENRY: Chúng tôi đang quấn
vào nhau và ngủ. Cả đêm chúng tôi không ngừng tỉnh giấc, trở mình, ngồi dậy rồi
trở lại giường. Đứa trẻ nhà Kendrick sẽ ra đời đêm nay. Không lâu nữa điện
thoại sẽ đổ chuông. Nó đổ chuông. Điện thoại ở bên giường của Clare, cô ấy nhấc
máy và nói “Xin chào?” rất khẽ, rồi đưa nó cho tôi.

“Làm sao cậu biết? Làm
sao cậu biết?” 
Kendrick gần như thì thầm.

“Tôi rất tiếc. Tôi rất lấy
làm tiếc.” Không ai trong chúng tôi nói gì một hồi. Tôi nghĩ Kendrick đang
khóc.

“Hãy đến văn phòng của tôi.”

“Khi nào?”

“Ngày mai”, ông ấy nói, rồi
cúp máy.

Thứ Bảy, 7/4/1996 (Henry
32 và 8 tuổi, Clare 24 tuổi)

HENRY: Clare và tôi đang lái
xe đến công viên Hyde. Chúng tôi đã im lặng trong suốt quãng đường. Trời đang
mưa, và cần gạt nước đem đến cho dòng nước chảy khỏi mặt kính sự gián đoạn nhịp
nhàng.

Như thể để tiếp tục cuộc trò
chuyện mà chúng tôi không hẳn đang có. Clare nói, “Thật không công bằng.”

“Gì cơ? Kendrick?”

“Vâng.”

“Bản chất của tự nhiên là
không công bằng.”

“Ồ,... không. Ý em là, phải,
chuyện của đứa bé rất đáng thương, nhưng em muốn nói chúng ta. Không công bằng
khi chúng ta lợi dụng nó như vậy.”

“Ý em là không đàng hoàng?”

“Phải.”

Tôi thở dài. Lối ra khỏi
đường 57 đã hiện ra. Clare rẽ rồi tấp vào lề đường. “Anh đồng ý với em là vậy,
những đã quá trễ. Và anh đã thử...”

“Phải, dù sao cũng đã quá
muộn.”

“Phải.” Chúng tôi lại chìm
vào im lặng. Tôi chỉ dẫn cho Clare ra khỏi mê cung đường một chiều, và không
lâu sau chúng tôi đã ở trước tòa nhà văn phòng của Kendrick.

“Chúc anh may mắn.”

“Cảm ơn em.” Tôi hồi hộp.

“Nhớ lịch sự.” Clare hôn tôi.
Chúng tôi nhìn nhau, tất cả hi vọng của tôi chìm trong cảm giác tội lỗi với
Kendrick. Clare mỉm cười rồi nhìn đi nơi khác. Tôi ra khỏi xe và ngắm Clare lái
chậm rãi xuống đường 59 và rẽ qua Midway. Cô ấy có việc ở phòng tranh Smart.

Cửa chính không khóa, tôi đi
thang máy lên tầng ba. Không có ai trong phòng đợi của Kendrick, tôi đi qua nó
xuống hành lang. Cửa phòng Kendrick để mở. Phòng không bật điện. Kendrick đang
đứng sau bàn làm việc, lưng quay lại phía tôi, nhìn ra ngoài cửa sổ xuống con
đường mưa bên dưới. Tôi đứng yên lặng trước ngưỡng cửa hồi lâu. Cuối cùng tôi
bước vào trong phòng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3