Vợ người du hành thời gian - Phần II - Chương 02 phần 2

Kendrick quay lại và tôi choáng váng trước sự khác biệt trên khuôn mặt ông ấy. Tàn phá không phải là từ thỏa đáng. Ông ấy trống rỗng; có điều gì đó đã biến mất. Sự tự tin, vững chãi, niềm tin. Tôi đã quá quen với việc sống trong sự bất ổn nên tôi quên rằng người ta thường ưa thích mặt đất vững chãi.

“Henry DeTamble”, Kendrick nói.

“Xin chào.”

“Tại sao cậu đến tìm tôi?”

“Vì tôi phải đến tìm ông. Đó không phải vấn đề của sự lựa chọn.”

“Định mệnh?”

“Ông có thể gọi nó thế nào cũng được. Mọi chuyện trở nên lẫn lộn khi ông là tôi, nguyên nhân và hệ quả rối vào nhau.”

Kendrick ngồi xuống bàn. Chiếc ghế kêu lên kẽo kẹt. Tiếng động khác duy nhất là tiếng mưa. Ông ấy thò tay vào túi tìm thuốc, lấy chúng ra và nhìn tôi. Tôi nhún vai. Ông ấy châm thuốc và hút một hồi. Tôi quan sát ông ấy.

“Làm sao cậu biết?” ông ấy nói.

“Tôi đã nói với ông rồi. Tôi đã nhìn thấy tờ giấy khai sinh.”

“Khi nào?”

“Năm 1999.”

“Không thể nào.”

“Vậy thì ông giải thích đi.”

Kendrick lắc đầu. “Tôi không thể. Tôi đã cố tìm cách giải thích, nhưng không thể. Mọi thứ... đều chính xác. Ngày, giờ, cân nặng, và... sự bất thường.” Ông ấy nhìn tôi tuyệt vọng. “Sẽ ra sao nếu chúng tôi quyết định đặt tên thằng bé khác đi... Alex, hay Fred, hay Sam...?”

Tôi lắc đầu, rồi dừng lại khi nhận ra tôi đang làm theo ông ấy. “Nhưng ông đã không làm vậy. Tôi sẽ không nói ông không thể, nhưng ông đã không. Tất cả những gì tôi làm chỉ là thuật lại. Tôi không phải nhà tiên tri.”

“Cậu có con không?”

“Không.” Tôi không muốn thảo luận chuyện này, mặc dù cuối cùng tôi sẽ phải. “Tôi rất tiếc về chuyện Colin. Nhưng ông biết không, nó là một cậu bé đáng yêu.”

Kendrick nhìn tôi chằm chằm. “Tôi đã tìm hiểu nguyên nhân sai sót. Kết quả xét nghiệm của chúng tôi không may đã bị nhầm với cặp vợ chồng tên Kenwick.”

“Ông sẽ làm gì nếu ông biết trước?”

Ông ấy nhìn đi chỗ khác. “Tôi không biết. Vợ tôi và tôi theo đạo Công giáo, nên tôi nghĩ kết quả cũng vẫn sẽ như vậy. Thật mỉa mai...”

“Phải.”

Kendrick dụi thuốc và châm một điếu khác. Tôi cam chịu cơn đau đầu vì khói thuốc.

“Nó hoạt động thế nào?”

“Cái gì cơ?”

“Chuyện du hành thời gian mà cậu làm.” Ông ấy có vẻ tức giận. “Cậu đọc thần chú? Trèo lên cỗ máy?”

Tôi cố tìm cách giải thích hợp lí. “Không. Tôi không làm gì cả. Nó cứ thế diễn ra. Tôi không thể điều khiển, tôi chỉ... một phút trước mọi thứ đều ổn, phút sau tôi đã ở nơi khác, vào một thời gian khác. Như chuyển kênh. Tôi chỉ đột nhiên thấy mình ở một không gian và thời gian khác.”

“Cậu muốn tôi làm gì với nó?”

Tôi nhướn người tới trước, để nhấn mạnh. “Tôi muốn ông tìm hiểu tại sao, và dừng nó lại.”

Kendrick mỉm cười. Đó không phải là một nụ cười thân thiện. “Tại sao cậu muốn làm vậy? Có vẻ như nó khá hữu dụng đối với cậu. Biết hết những điều mà người khác không biết.”

“Nó nguy hiểm. Và sớm hay muộn nó cũng sẽ giết chết tôi.”

“Tôi không thể nói rằng tôi sẽ buồn.”

Chẳng có nghĩa lí gì để tiếp tục. Tôi đứng dậy và bước ra khỏi cửa. “Tạm biệt, bác sĩ Kendrick.” Tôi bước chậm rãi dọc hành lang, để ông ấy có thể gọi tôi lại, nhưng ông ấy không làm vậy. Đứng trong thang máy, tôi khổ sở ngẫm lại rằng bất cứ điều sai sót gì đã diễn ra, nó buộc phải diễn ra theo cách đó, và sớm hay muộn nó sẽ tự giải quyết. Tôi mở cửa và thấy Clare đang đợi bên kia đường. Cô ấy quay đầu lại và có một biểu cảm của sự hi vọng, sự mong đợi trên khuôn mặt cô ấy khiến tôi tê tái. Tôi sợ phải kể lại cho cô ấy biết. Trong lúc băng qua đường về phía cô ấy, hai tai tôi ù cả lên và tôi mất thăng bằng. Tôi đã ngã, nhưng thay vì xuống đường, tôi gập người xuống thảm. Tôi nằm im nơi tôi ngã xuống cho đến khi nghe thấy một giọng nói trẻ con quen thuộc, “Henry, chú ổn chứ?” Tôi nhìn lên và thấy chính mình, ở tuổi lên tám, đang ngồi trên giường nhìn tôi.

“Chú ổn, Henry.” Thằng bé vẫn hoài nghi. “Thực mà, chú ổn.”

“Chú muốn uống chút Ovaltine không?”

“Được thôi.” Thằng bé bước xuống giường, chập chững đi ngang căn phòng xuống hành lang. Đang là nửa đêm. Nó lục lọi quanh căn bếp một hồi, rồi quay trở lại với hai tách sô-cô-la nóng. Chúng tôi uống chậm rãi trong im lặng. Sau khi uống xong, Henry mang tách trở lại bếp và rửa chúng. Không được để bằng chứng lại. Khi thằng bé bước vào phòng, tôi hỏi, “Có chuyện gì vậy?”

“Không có gì. Cháu đã đến gặp một bác sĩ khác ngày hôm nay.”

“Chú cũng vậy. Cháu đã gặp ai?”

“Cháu quên tên rồi. Một ông già, tai ông ấy mọc đầy tóc.”

“Cuộc gặp thế nào?”

Henry nhún vai. “Ông ấy không tin cháu.”

“Cháu nên từ bỏ thì hơn. Không ai trong số bọn họ sẽ tin cháu. Người chú gặp hôm nay có tin chú, nhưng ông ấy không muốn giúp đỡ.”

“Tại sao vậy?”

“Có lẽ ông ta không thích chú.”

“Ồ, chú muốn đắp chăn không?”

“Có lẽ chỉ một cái.” Tôi lột khăn trải giường ra khỏi giường của Henry và cuộn tròn trên sàn nhà. “Chúc ngủ ngon.” Tôi thấy một ánh sáng lóe lên từ hàm răng trắng của tôi nhỏ giữa màu xanh ảm đạm của căn phòng ngủ, và rồi thằng bé quay đi, cuộn tròn lại mơ màng ngủ, bỏ lại tôi nhìn đăm đăm lên trần nhà, mong mỏi được quay trở lại với Clare.

CLARE: Henry bước ra khỏi tòa nhà, có vẻ không vui, và đột nhiên anh ấy hét lên rồi biến mất. Tôi bật ra khỏi xe và chạy tới nơi Henry vừa đứng, chỉ một vài giây trước, nhưng dĩ nhiên giờ chỉ còn đống quần áo ở lại. Tôi nhặt chúng lên và đứng đó một lát, giữa con đường. Một khuôn mặt đàn ông từ trên cửa sổ tầng ba nhìn xuống tôi. Rồi ông ấy biến mất. Tôi quay trở lại xe rồi ngồi nhìn đăm đăm vào chiếc áo xanh sáng và quần vải đen của Henry, tự hỏi có nên ở lại. Tôi có cuốn Trở lại Brideshead trong túi xách, nên tôi quyết định nán lại phòng khi Henry quay về. Trong lúc tìm cuốn sách, tôi nhìn thấy một người đàn ông tóc đỏ chạy về phía mình. Ông ấy dừng lại ở cửa khách và nhìn tôi. Đây chắc hẳn là Kendrick. Tôi mở khóa cửa và ông ấy lên xe, rồi ông ấy chẳng biết phải nói gì.

“Xin chào”, tôi nói. “Ông chắc hẳn là David Kendrick. Tôi là Clare DeTamble.”

“Phải…” ông ấy hoàn toàn bối rối, “Phải, phải rồi. Chồng cô...”

“Vừa biến mất giữa ban ngày.”

“Phải!”

“Ông có vẻ ngạc nhiên.”

“Thì...”

“Chẳng phải anh ấy đã nói với ông rồi sao?” Tôi chưa có ấn tượng gì với người đàn ông này lắm, nhưng vẫn là kiên trì. “Tôi rất tiếc về chuyện của cháu bé. Nhưng Henry nói rằng nó là một đứa trẻ đáng yêu, và nó vẽ rất giỏi, nó có trí tưởng tượng rất tốt. Con gái ông cũng rất tài năng, mọi chuyện rồi sẽ ổn. Ông sẽ thấy.”

Ông ấy há hốc miệng nhìn tôi. “Chúng tôi không có con gái. Chỉ mình... Colin.”

“Ông sẽ. Tên cô bé là Nadia.”

“Đó là một cú sốc. Vợ tôi rất buồn bực...”

“Nhưng mọi chuyện rồi sẽ ổn cả. Thật đấy.” Trước sự ngạc nhiên của tôi, người đàn ông xa lạ này bật khóc, hai vai ông ấy rung lên nức nở, vùi mặt trong bàn tay. Sau vài phút, ông ấy dừng lại và ngẩng đầu lên. Tôi đưa ông ấy tờ Kleenex và ông ấy hỉ mũi.

“Tôi xin lỗi”, ông ấy nói.

“Đừng bận tâm. Chuyện gì xảy ra trong đó vậy, với ông và Henry? Tại sao lại căng thẳng vậy?”

“Làm sao cô biết?”

“Anh ấy đã rất căng thẳng, đó là nguyên nhân khiến anh ấy biến mất.”

“Cậu ấy đã đi đâu?” Kendrick nhìn quanh như thể tôi đang giấu Henry dưới ghế sau.

“Tôi không biết. Không phải ở đây. Chúng tôi đã hi vọng ông có thể giúp đỡ, nhưng có lẽ chúng tôi đã nhầm.”

“Tôi không biết tôi có...” Đúng lúc đó Henry xuất hiện trở lại ngay trên chính vị trí mà anh ấy biến mất. Một chiếc xe cách đó chưa đến 20 feet đang phóng tới, và người lái xe đạp mạnh thắng trong lúc Henry nhảy bổ lên đầu xe tôi. Người đàn ông kéo cửa kính xuống, Henry ngồi dậy, và người đàn ông hét lên điều gì đó rồi phóng đi mất. Máu đang hát rầm rầm quanh tai tôi. Tôi nhìn qua Kendrick, người đang cứng họng. Tôi nhảy ra khỏi xe, và Henry trượt xuống khỏi đầu xe.

“Chào em, Clare. Suýt chút nữa hả?” Tôi ôm chầm lấy anh ấy; anh ấy đang run rẩy. “Em giữ quần áo của anh ở đó chứ?”

“Có, trên xe... ồ, mà, Kendrick đang ở đây.”

“Sao? Ở đâu cơ?”

“Trong xe.”

“Tại sao?”

“Ông ấy nhìn thấy anh biến mất và có vẻ nó đã tác động đến bộ não của ông ấy.”

Henry thò đầu vào cửa lái. “Xin chào.” Anh ấy với tay lấy quần áo và bắt đầu mặc vào. Kendrick bước ra khỏi xe và hối hả đi quanh chúng tôi.

“Cậu đã ở đâu?”

“Năm 1971. Tôi đã uống Ovaltine với tôi hồi tám tuổi, trong phòng ngủ của tôi, vào lúc một giờ sáng. Tôi đã ở đó chừng bốn tiếng đồng hồ. Mà ông hỏi làm gì?” Henry nhìn Kendrick lạnh lùng trong lúc chỉnh lại cà vạt.

“Không thể tin nổi.”

“Ông có thể nói vậy cho đến khi chán, nhưng không may nó lại là sự thật.”

“Ý cậu là cậu trở lại hồi tám tuổi?”

“Không. Ý tôi là tôi đã ngồi trong phòng ngủ của mình vào năm 1971, vẫn mang hình hài như lúc này, 32 tuổi, và trò chuyện với chính tôi lúc tám tuổi. Uống Ovaltine. Chúng tôi đã nói với nhau về sự ngờ vực của những người làm nghề y.” Henry đi vòng qua xe và mở cửa. “Clare, đi thôi. Chuyện này thật vô nghĩa.”

Tôi bước về phía cửa lái. “Tạm biệt, bác sĩ Kendrick. Chúc may mắn với Colin.”

“Đợi đã…” Kendrick ngập ngừng, lấy lại bình tĩnh. “Đây là hội chứng gen di truyền?”

“Phải”, Henry đáp. “Nó là hội chứng gen di truyền, và chúng tôi đang tìm cách để có con.”

Kendrick mỉm cười buồn bã. “Một việc mạo hiểm.”

Tôi mỉm cười đáp lại. “Chúng tôi đã quen với việc mạo hiểm. Tạm biệt.” Henry và tôi bước vào xe, lái khuất đi. Khi rẽ vào cao tốc Lake Shore Drive, tôi nhìn qua Henry và ngạc nhiên thấy anh ấy đang cười hớn hở.

“Anh vui mừng vì chuyện gì vậy?”

“Kendrick. Ông ấy đã hoàn toàn bị thuyết phục.”

“Anh nghĩ vậy sao?”

“Chắc rồi.”

“Vậy thì tốt. Nhưng ông ấy có vẻ chậm tiêu.”

“Không đâu.”

“Nếu anh đã nói vậy.” Chúng tôi lái xe về nhà trong yên lặng, sự yên lặng hoàn toàn khác hẳn với lúc đến. Kendrick gọi cho Henry vào tối hôm đó, họ lên lịch để bắt đầu tìm cách giúp Henry trụ lại với hiện tại.

Thứ Sáu, 12/4/1996 (Henry 32 tuổi)

HENRY: Kendrick ngồi cúi đầu. Hai ngón tay cái của ông ấy di chuyển vòng quanh mép lòng bàn tay như thể chúng đang muốn chạy trốn. Chiều đã qua, văn phòng của Kendrick chìm trong ánh sáng vàng rực rỡ; Kendrick ngồi yên không nhúc nhích, ngoại trừ hai ngón tay cái đang ngọ nguậy, và lắng nghe những gì tôi nói. Tấm thảm Ấn Độ màu đỏ, những cái chân bằng thép của chiếc ghế bành vải dệt màu be đang sáng bừng. Thuốc lá của Kendrick, một gói Camels, nằm yên chưa được đụng đến trong lúc ông ấy lắng nghe. Đôi gọng vàng của cặp kính tròn ông ấy đang đeo nổi lên dưới ánh sáng; vành tai phải của Kendrick đỏ ửng, mái tóc như lông cáo và làn da hồng hào bóng loáng trong ánh nắng hệt như những bụi cúc vàng trong chậu đồng trên bàn ở giữa chúng tôi. Cả buổi chiều, Kendrick đã ngồi đó trên ghế của mình và lắng nghe.

Còn tôi đã kể cho ông ấy nghe mọi chuyện. Sự khởi đầu, việc học cách thích ứng, sự vội vã của sinh tồn và thú vui của việc biết trước tương lai, nỗi kinh hãi khi biết những việc không thể ngăn chặn, sự thống khổ của những mất mát. Giờ, chúng tôi ngồi trong yên lặng. Cuối cùng ông ấy ngẩng đầu lên và nhìn tôi. Trong đôi mắt sáng của Kendrick là một nỗi buồn mà tôi muốn xóa bỏ; sau khi trút tất cả lên mình ông ấy, tôi muốn thu chúng lại và bỏ đi, tránh cho ông ấy khỏi nghĩ về tất cả những điều này. Ông ấy với tay lấy bao thuốc, rút ra một điếu và châm lửa, rít vào rồi nhả ra một làn mây xám.

“Cậu có gặp khó khăn về giấc ngủ?”

“Có.”

“Có thời điểm đặc biệt trong ngày nào cậu thường có xu hướng… biến mất?”

“Không… có lẽ sáng sớm nhiều hơn các thời điểm khác.”

“Cậu có bị đau đầu?”

“Có.”

“Đau nửa đầu?”

“Không. Đau áp lực. Và sự bóp méo hình ảnh, mùi.”

“Hừm.” Kendrick đứng dậy. Đầu gối ông ấy kêu lên răng rắc. Ông ấy đi tới đi lui trong phòng, hút thuốc, đi dọc theo mép của tấm thảm. Tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu khi ông ấy dừng lại và ngồi xuống. “Nghe này”, ông ấy nói vẻ tư lự, “có một khái niệm gọi là đồng hồ sinh học. Chúng kiểm soát các nhịp ngày đêm, giữ cho cậu đồng bộ hóa với mặt trời, đại loại vậy. Chúng tôi đã thấy chúng trong rất nhiều loại tế bào khác nhau, trong khắp cơ thể, nhưng chúng đặc biệt gắn chặt với thị giác, và có vẻ cậu phải đối mặt với nhiều triệu chứng về thị giác. Các tế bào nhân nằm ngay trên cơ quan thị giác của cậu, có tác dụng như nút khởi động lại, điều khiển cảm giác về thời gian của cậu… vậy nên chúng ta sẽ bắt đầu với nó.”

“Ừm, được thôi”, tôi nói vì ông ấy đang nhìn tôi và trông đợi sự hồi đáp. Kendrick lại đứng dậy và bước về phía cánh cửa mà tôi đã không chú ý đến trước đó, mở nó ra và biến mất trong khoảng một phút. Khi quay trở lại, ông ấy cầm đôi găng tay nhựa và kim tiêm trên tay.

“Xắn tay áo lên”, Kendrick yêu cầu.

“Ông làm gì vậy?” tôi vừa hỏi vừa kéo tay áo lên quá khuỷu. Ông ấy không trả lời, mở gói kim tiêm, thấm tay tôi bằng miếng gạc, buộc nó lại và tiêm cho tôi một cách lành nghề. Tôi nhìn đi chỗ khác. Mặt trời đã lặn, bỏ rơi căn phòng trong bóng tối ảm đạm.

“Cậu có bảo hiểm y tế không?” ông ấy hỏi, rút kim tiêm và tháo tay tôi ra. Ông ấy lót bông và dán băng cá nhân lên trên vết tiêm.

“Không. Tôi sẽ tự trả mọi chi phí. Tôi dí ngón tay lên chỗ nhức, gập khuỷu tay lại.

Kendrick mỉm cười. “Không, không. Cậu sẽ là thí nghiệm khoa học nhỏ của tôi, sử dụng quỹ NIH cho việc này.”

“Việc gì?”

“Chúng ta sẽ không chơi đùa.” Kendrick dừng lại, cầm đôi găng tay đã sử dụng và lọ thủy tinh nhỏ chứa máu của tôi mà ông ấy vừa rút. “Chúng ta sẽ giải mã DNA của cậu.”

“Tôi tưởng việc đó mất hàng năm trời?”

“Đúng vậy, nếu cậu giải mã bộ gen. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc nghiên cứu các đối tượng khả dĩ. Nhiễm sắc thể 17 chẳng hạn.” Kendrick ném đôi găng tay và kim tiêm vào thùng rác hiệu Biohazard và viết thứ gì đó lên chiếc lọ thủy tinh chứa máu. Ông ấy ngồi xuống trở lại đối diện với tôi và đặt lọ thủy tinh lên bàn, cạnh bao thuốc Camels.

“Nhưng bộ mã gen của con người sẽ không được hoàn thành cho đến năm 2000. Ông sẽ lấy gì để so sánh?”

“Năm 2000? Nhanh vậy sao? Cậu chắc chứ? Ta đoán là chắc. Để trả lời cho câu hỏi của cậu, một chứng bệnh… đứt đoạn… như của cậu thường có vẻ giống chứng cà lăm, sự lặp lại của một mã, mà về cơ bản, là không tốt. Như hội chứng Huntington chẳng hạn, chỉ là một tập hợp những mã bộ ba CAG trên nhiễm sắc thể số 4.”

Tôi đứng dậy và duỗi tay chân. Tôi cần cà phê. “Vậy là xong? Tôi đi được chưa?”

“Tôi muốn chụp cắt lớp não bộ của cậu, nhưng không phải hôm nay. Tôi sẽ lên lịch cho cậu ở bệnh viện. MRI, CAT, và X quang. Tôi cũng sẽ gửi cậu đến một người bạn của tôi, Alan Larson; ông ấy có một phòng thí nghiệm giấc ngủ ở ngay giảng đường này.”

“Thú vị nhỉ”, tôi nói và từ từ đứng dậy để máu không chạy hết lên đầu.

Kendrick nhìn tôi. Tôi không thể thấy đôi mắt ông ấy, cặp kính cận đang sáng lóa ở góc độ này. “Nó rất thú vị”, ông ấy nói. “Đó là một mảnh ghép kì bí mà cuối cùng chúng tôi cũng có công cụ để tìm ra…”

“Tìm ra gì?”

“Bất kể nó là thứ gì. Bất kể cậu là gì.” Kendrick mỉm cười và tôi nhận thấy răng của ông ấy không đều và ố vàng. Ông ấy đứng dậy, chìa tay ra, và tôi bắt lấy, nói cảm ơn; có sự ngập ngừng ngượng ngùng: chúng tôi lại là những người xa lạ một lần nữa, sau buổi trưa thân mật vừa trải qua cùng nhau. Tôi bước ra khỏi văn phòng, đi xuống cầu thang và ra tới đường, nơi mặt trời đang đợi tôi. Bất kẻ tôi là gì? Tôi là thứ gì? Tôi là thứ gì?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3