Hồng lâu mộng - Chương 018 - Phần 2

Giả phi hỏi:

- Tại sao nơi này không đề biển?

Thái giám đi theo hầu, quì tâu:

- Đấy là chính điện, không dám tự tiện đề trước.

Giả phi gật đầu. Thái giám mời Giả phi ngồi nhận lễ. Hai bên thềm tấu nhạc. Hai viên thái giám dẫn bọn Giả Xá, Giả Chính xếp hàng ở dưới thềm. Chiêu Dung truyền dụ: "miễn lễ". Mọi người lui ra. Lại dẫn bọn Giả mẫu từ thềm bên đông lên. Chiêu Dung lại truyền dụ: "miễn lễ”. Mọi người lại lui ra. Ba tuần dáng trà xong. âm nhạc nghi. Giả phi xuống ngai, vào nhà bên thay áo, rồi lên xe ra vườn chơi. Đến nhà Giả mẫu, Giả phi muốn làm lễ gia đình, Giả mẫu quì xuống ngăn lại. Thoạt gặp mặt nhau, Giả phi rỏ nước mắt, một tay nắm Giả mẫu một tay nắm Vương phu nhân. Ba người đều thổn thức, nói không ra lời. Hình phu nhân, Lý Hoàn, Vương Hy Phượng, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đứng bên cạnh cũng đều rỏ nước mắt không nói gì. Một lúc Giả phi mới nén buồn, cười gượng an ủi:

- Ngày trước đã đưa tôi đến chỗ không bao giờ được về gặp người nhà, nay may được về đây, mẹ con lại không cười, không nói, cứ khóc! Chốc nữa tôi đi, biết bao giờ lại được gặp nhau?

Nói xong Giả phi không nhịn được, lại thổn thức khóc.

Hình phu nhân vội đến khuyên giải. Giả mẫu mời Giả phi về chỗ ngồi. Giả phi theo thứ tự hỏi han từng người, lại khóc một phen nữa. Rồi đến những người coi việc ở phủ đông, phủ tây đứng ngoài hiên làm lễ. Sau lần lượt đến bọn hầu đàn bà con gái. Giả phu nhân:

- Dì Tiết, Bảo Thoa, Đại Ngọc ở đâu không đến.

Vương phu nhân thưa:

- Vì họ là ngoại, không có chức vị gì, nên không dám thiện tiện vào hầu.

Giả phi liền bảo mời vào. Một lúc, Tiết phu nhân vào, muốn theo quốc lễ, nhưng Giả phi truyền miễn cho, rồi cùng kể “Hành chi thanh phân”, trên gác, lên lầu, qua ngòi, quanh núi, nhìn ngắm quanh co, chỗ nào cũng trang hoàng lộng lẫy, cái gì cũng tô điểm mới lạ. Nguyên phi khen ngợi không ngớt, lại khuyên: “Làm thế này là quá lạm, lần sau không nên xa xỉ quá. Đến chính điện, Nguyên phi truyền miễn lễ, mọi người vào chỗ ngồi. Tiệc yến bắt đầu. Giả mẫu ngồi dưới tiếp, bọn Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư thì dâng canh, nâng chén.

Nguyên phi truyền lấy bút mực sẵn, tay mở giấy hoa tiên, chọn chỗ nào vừa ý thì đặt tên. Tên vườn thì đặt là “Đại quan viên”(9), biển ở chính diện đề là: “Cố ân tư nghĩa”(10).

(9). Vườn lớn, nhiều phong cảnh đẹp, làm cho người du lãm có một tầm mắt bao la.

(10). Trông thấy ơn vua thì nghĩ đến nghĩa lớn.

Câu đối đề:

Trời đất mở lòng nhân, con đỏ dân đen đều mến phục,

Xưa nay rộng ân điển, chín cháu muôn nước đội vinh quang.

Chỗ có biển đề: “Hữu phượng lai nghi” thì đặt tên là: “Tiêu Tương quán”(11) Chỗ đề: “Hồng hương lục ngọc”, thì đổi là: “Di hồng khoái lục”(12), và đặt tên là: “Di hồng viện”. Chỗ đề “Hành chí thanh phân” thì đặt tên là: “Hành vu uyển”. Chỗ đề: “Hạnh liêm tại vọng” thì đặt tên là: “Cán các sơn trang”(13) lầu giữa đặt tên là: “Đại quan lâu”. Lầu bên đông đặt tên là: “Xuyết cẩm các”(14). Lầu bên tây đặt tên là: “Hàm phương ác". Lại còn những tên “Lục phong hiên”, “Ngẫu hương tạ”(15), “Từ lang châu”(16), “Hành diệp chứ”. Biển đề có những chữ: “Lê hoa xuân vũ”, “Đồng tiễn thu phong”(17), “Địch lộ dạ tuyết”(18). Nguyên phi lại truyền không nên bỏ những câu đối và bức hoành đã đề trước, rồi đề một bài tứ tuyệt như sau:

(11). Quán tên sông Tiêu, sông Tương.

(12). Màu đỏ, màu xanh cùng vui tươi.

(13). Trại giặt vải ở gần núi.

(14). Lầu trăng gấm.

(15). Thơm mùi ngó sen.

(16). Hoa súng tía.

(17). Lá ngô đồng gặp gió mùa thu.

(18). Hoa lan gặp đêm tuyết.

Non nước bao quanh khéo lạ lùng,

Biết bao công của mới làm xong.

Thợ trời thêm thợ người tô điểm,

Gọi Đại quan viên có xứng không?

Nguyên phi đề xong, cười bảo các chị em:

- Tôi xưa nay vẫn kém tài mẫn tiệp, không quen ngâm vịnh, các em đều đã biết cả. Đêm hôm nay gọi là nghĩ qua loa để khỏi phụ cảnh này thôi. Bao giờ rỗi tôi sẽ soạn bài “Đại quan viên ký” và bài “Tình thân tụ” để kỷ niệm ngày hôm nay. Chị em cũng nên mỗi người đề một cái biển, vịnh một bài thơ, chớ vì tài mọn của tôi mà phải gò bó. Bảo Ngọc cũng biết đề vịnh, điều ấy đáng mừng. Trong các nơi, ta thích nhất “quán Tiêu Tương” và “Hành Vu uyển” rồi đến “viện Di Hồng” và “Cát cân sơn trang”, bốn nơi này phải có thơ đề vịnh riêng mới được. Những câu đề trước tuy cũng khá, nhưng phải làm mỗi nơi một bài thơ, để ta thử tài tại chỗ, mới không phụ công ta vất vả dạy dỗ từ bé!

Bảo Ngọc vâng lời, lui ra nghĩ thơ.

Trong bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân thì Thám Xuân hơn cả. Nhưng biết trước không thể đua tài với họ Tiết, họ Lâm được, tuy nhiên, nàng cũng phải gắng gượng làm cho qua chuyện. Lý Hoàn cũng gắng sức làm một bài. Giả phi lần lượt xem:

Biển đề KHOÁNG TÍNH DI TÌNH

Phong cảnh vườn này thực lạ ghê.

Vâng lời đề biển, thẹn tay đề.

Cõi trần đâu có nơi nào thế,

Dạo cảnh ai là chẳng phải mê!

Nghênh Xuân

Biển đề VẠN TƯỢNG TRANH HUY(19).

(19). Muôn vẻ đua sáng.

Vườn này xây đắp thực nguy nga,

Vâng mệnh đề thơ thẹn bút hoa.

Tinh xảo nhường nào không kể xiết,

Quả nhiên muôn vật đẹp thêm ra.

Thám Xuân

Biển đề VĂN CHUƠNG TẠO HÓA

Non nước bao quanh mấy dăm dài,

Lâu đài cao ngất giữa từng mây.

Sánh cùng nhật nguyệt cùng tươi sáng,

Bác thợ trời kia cũng kém tài.

Tích Xuân

Biển đề VĂN THÁI PHONG LƯU

Bốn bề non nước cảnh chơi vơi,

So với Bồng lai đẹp tuyệt vời.

Quạt lướt màu xanh làn cỏ ngát,

Quần xòe sắc đỏ cánh hoa r

Ngọc chờ đời thịnh càng lên giá.

Tiên ở đài dao lại xuống chơi.

Từ lúc vườn này chào khách quí,

Phàm trần đã đến được bao người.

Lý Hoàn

Biển đề NGƯNG HUY CHUNG THỤY(20).

(20). Họp mọi màu sáng và chung đức điểm lành.

Vườn hoa xây cạnh đế thành,

Một vùng trời đẹp mây lành lạ sao.

Rời hang oanh đã đậu cao,

Trúc kia đợi phượng múa chào cùng vui.

Gió văn thổi lúc ra chơi,

Thăm nhà trọn hiếu dạy người theo noi.

Tài tiên cao diêu tuyệt vời,

Thẹn mình còn dám thêm lời nữa sao?

Tiết Bảo Thoa

Biển đề THẾ NGOẠI TIÊN NGUYÊN(21)

(21). Suối cõi tiên ở ngoài cõi trần.

Dạo chơi Người lại thêm vui,

Cõi tiên nào phải là nơi bụi hồng!

Đep thay mượn cảnh non sông,

Điểm tô cảnh lại lạ lùng đẹp hơn.

Rượu kim cúc ngát mùi hương,

Chào mừng người ngọc rõ ràng hoa tươi.

Mong sao trên đội ơn trời,

Vườn này thường được đón mời xe loan.

Lâm Đại Ngọc

Nguyên phi xem xong khen mãi, cười nói:

- Rút cục bài của em Tiết, em Lâm hơn hẳn các bài. Chị em chúng ta không ai bằng.

Ngay đêm ấy, Đại Ngọc định trổ hết tài át hẳn mọi người. Không ngờ Nguyên phi chỉ bảo đề mấy chữ hoành biển và một bài thơ, nên không dám trái lời, chỉ làm qua loa một bài thơ cho tác trách.

Bảo Ngọc mới làm xong hai bài “Tiêu Tương quán” và “Hành vu uyển”, đang nghĩ bài “Di hồng viện”. Bảo Thoa liếc mắt nhìn, thấy trong bản nháp của Bảo Ngọc có câu “Lục ngọc xuân do quyển”(22). Nhân lúc mọi người không để ý, bèn đẩy Bảo Ngọc bảo:

(22). Ngọn ngọc mùa xuân còn đang cuốn (chỉ cây chuối).

- Quý phi không thích những chữ “hồng hương lục ngọc” mới đổi ra “di hồng khoái lục”, giờ anh lại dùng hai chữ “lục ngọc” như thế chả phải là cố làm trái ý người hay sao? Vả chăng điển tích lá chuối cũng có nhiều, nên đổi đi là phải.

Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa nói thế, gạt mồ hôi nói:

- Bây giờ tôi nghĩ mãi cũng chẳng nhớ ra được điển tích nào?

Bảo Thoa cười:

- Anh chỉ đổi chữ “lục ngọc” làm chữ “lục lạp”(23) là được.

(23). Cây sáp xanh.

Bảo Ngọc nói:

- Chữ “lục lạp” xuất xứ ở đâu?

Bảo Thoa khẽ bĩu môi, gật đầu nói:

- Đêm nay mới có thế mà anh đã cuống lên, sau này thi ở trước đền vàng, có lẽ họ Triệu, họ Tiền, họ Tôn, họ Lý cũng quên tất. Bài thơ Vịnh ba tiêu của Hàn Dực nhà Đường có câu: “Lãnh chúc vô yên lục lạp can”(24) anh quên rồi à!

(24). Ngọn đuốc không có khói mà cây sáp xanh cứ khô dần.

Bảo Ngọc nghe xong chợt nhớ ra cười nói:

- Đáng chết! Đáng chết! Chữ ngay trước mắt tôi cũng không nghĩ ra. Chị đáng là “Nhất tự sư”(25) vậy. Từ rầy tôi xin gọi là thầy, chứ không dám gọi là chị nữa.

(25). Thầy dạy một chữ.

Bảo Thoa khẽ cười nói:

- Làm nhanh đi, đừng chị chị em em nữa. Ai là chị? Người mặc áo vàng ngồi trên kia mới là chị.

Sợ làm mất thì giờ của Bảo Ngọc, Bảo Thoa vừa cười nói, vừa quay đi chỗ khác.

Bảo Ngọc làm xong bài này, mới là ba bài. Bấy giờ Đại Ngọc chưa được trổ hết tài, vẫn chưa mãn nguyện. Nhân thấy Bảo Ngọc nghĩ ngợi khó khăn, nghĩ bụng: “Sao ta không làm giúp vài bài cho anh ấy đỡ mệt”. Rồi chạy đến bên bàn Bảo Ngọc khẽ hỏi đã làm xong chưa. Bảo Ngọc nói:

- Mới làm xong ba bài, còn thiếu bài “Hạnh liêm tại vọng”.

Đại Ngọc nói:

- Đã vậy anh cứ chép ba bài kia đi, còn bài này tôi sẽ làm giúp.

Nói xong nghĩ ngợi một lúc, làm xong một bài, viết vào mảnh giấy, vê tròn ném cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc giở ra xem, thấy hay hơn ba bài của mình nhiều, vội chép cẩn thận rồi đưa nộp. Nguyên phi xem thấy

HỮU PHƯỢNG LAI NGHI

Ngọc tốt vừa ra quả,

Đang chờ phượng đến chơi.

Rờn rờn xanh mấy ngọn,

Thoang thoáng mát đầy nơi.

Qua bực, e thềm ướt.

Lọt rèm thơm sặc mùi,

Bóng kia đừng rung động,

Giấc mộng đẹp đường dài.

HÀNH CHỈ THANH PHÂN

Vườn kia im lặng như tờ

Hành la đua nở đương chờ đợi ai?

Có xuân xanh lẫn màu trời,

Dải hồng tha thướt quyệt mùi hương thơm.

Khói bay nhè nhẹ bên đường,

Áo quần xanh đẫm hơi sương lạnh lùng.

“Trì đường” là khúc hóa công,

Anh em họ Tạ giấc nồng nàn thay.

DI HỒNG KHOÁI LỤC

Một vùng sân vắng ngày dài,

Thuyền quyên hai ả cả hai đẹp dòn,

Trời xuân anh vẫn cuộn tròn,

Áo hồng thơ thẩn khuya còn đứng đây.

Bên kia áo đỏ gió bay,

Khói xanh, dựa đá bên này đỡ chơi.

Trước gió đông đứng hàng đôi,

Chủ nhân ướm hỏi ai người biết thương?

HẠNH LIÊM TẠI VỌNG

Cờ rượu treo mời khách,

Kề non dựng một tòa.

Cỏ thơm ao tắm ngỗng,

Dâu tốt yến xây nhà.

Rau xuân xanh bát ngát,

Mùi lúa nức gần xa.

Đời thịnh nào ai đói.

Canh cửi vội chi mà.

Bảo Ngọc kính đề

Nguyên phi xem xong, thích lắm, nói:

- Học đã tiến rồi đấy!

Lại bảo:

- Trong bốn bài, thì bài “Hạnh liêm” hơn cả.

Rồi đổi tên “Cán cát sơn trang” làm “Đạo hương thôn”(26).

(26). Thơm mùi lúa.

Nguyên phi sai Thám Xuân lấy giấy hoa tiên chép cẩn thận những bài thơ ấy, rồi cho thái giám đưa ra nhà ngoài. Bọn Giả Chính xem, đều khen ngợi mãi. Giả Chính lại dâng bài “Qui tính tụng”. Nguyên phi sai lấy các đồ vàng ngọc thưởng cho Bảo Ngọc và Giả Lan. Giả Lan hãy còn bé, chưa hiểu gì, chỉ biết theo mẹ và chú đến tạ.

Giả Hoàn bị ốm từ trong năm đang điều dưỡng nên không nói đến.

Bấy giờ Giả Tường đã dẫn một ban hát đứng ở dưới lầu, chờ mãi sốt ruột, chợt có một viên thái giám chạy đến bảo: thơ làm xong rồi, đem trình ngay các mục vở hát lên. Giả Tường vội đem trình các mục vở hát và danh sách mười hai ca nữ. Một lúc thấy chấm bốn vở:

(1) Hào yến,

(2) Khất sảo,

(3) Tiên duyên,

(4) Li hồn.

Giả Tường vội xếp đặt các vở đem ra diễn. Những điệu hát lên cao, lanh lảnh, những điệu múa biến ảo như ma, tuy chỉ là lối biểu diễn hóa trang, nhưng nỗi vui buồn đều biểu lộ rõ

Hát xong, bọn thái giám bưng lên một mâm kẹo bánh, hỏi:

- Ai là Linh Quan?

Giả Tường biết là để thưởng cho Linh Quan, vội vàng nhận lấy và bảo Linh Quan ra tạ ơn. Thái giám nói: Quí phi truyền “Linh Quan giỏi lắm, hát thêm hai vở nữa. Vở gì cũng được”.

Giả Tường vội vàng vâng lời, bảo diễn thêm hai vở “Du tiên” và “Kinh mộng”.

Linh Quan nói:

- Không quen hát hai vở ấy.

Hắn nhất định không nghe và xin hát hai vở “Tương ước và “Tương mạ”. Giả Tường ngăn không được, đành để cho hát, Nguyên phi thích lắm, truyền: “Không nên bắt ép đám trẻ con quá, để nó học tập dần”. Và đặc cách thưởng cho hai tấm nhiễu trong cung, hai cái túi và mấy thoi vàng bạc nhỏ. Tan tiệc Nguyên phi lại ra ngắm cảnh những chỗ chưa dạo qua. Chợt thấy ngôi chùa ở bên núi, Nguyên phi vội vàng rửa tay, thắp hương lễ phật, đề biển bốn chữ “Khổ hải từ hàng”(27), rồi đặc cách ban thưởng cho bọn ni cô, đạo cô.

(27). Bè từ bi độ chúng sinh trong bể khổ.

Một lúc thái giám quì tâu: “Đồ ban thưởng sắp cả rồi, xin theo lệ phân phát”. Rồi trình bản kê lên. Nguyên phi xem từ đầu đến cuối, không nói gì, truyền cứ theo thế mà làm. Thái giám đem xuống ban cho mọi người. Giả mẫu được một đôi như ý(28) bằng vàng và bằng ngọc, một cái gậy bằng gỗ trầm hương, một chuỗi tràng hạt, bốn tấm đoạn “phú quí trường xuân”(29), bốn tấm phiễu “phúc thọ miên trường”(30), mười hai thoi vàng “bút đĩnh như ý”(31), mười thoi bạc “cát khánh hữu dư”(32). Hai phần của Hình phu nhân, Vương phu nhân cũng thế, chỉ kém cái gậy, thoi như ý và tràng hạt. Giả Kính, Giả Xá, Giả Chính, mỗi phần hai bộ tân thư ngự chế, hai hộp mực quí, hai chiếc chén vàng. Còn đồ biếu khác thì cũng như trên. Chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc, mỗi người một bộ tân thư, một cái nghiên quí, bốn thoi vàng bạc đúc kiểu mới. Bảo Ngọc, Giả Lan thì hai cái vòng bằng vàng bạc, bốn thoi vàng bạc. Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư, mỗi người bốn thoi vàng bạc, bốn thứ đồ biếu. Hai mươi bốn thứ đồ biếu, tiền năm trăm quan, thì thưởng cho bọn vú bõ và a hoàn hầu Giả mẫu và các phòng. Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Dung đều mỗi người một thứ đồ biếu, hai thoi vàng bạc. Một trăm tấm lụa hoa, một nghìn lạng vàng bạc, rượu ngự tiếc hoa thì thì cho bọn trông nom công việc bày biện, đi lại, coi ban hát, trông đèn nến ở hai phủ Vinh, Ninh. Năm trăm quan thưởng cho những người trông nom bếp nước, chèo hát, các trò chơi, sai vặt...

(28). Nguyên là một tên đồ dùng để gãi lưng về sau làm đồ trần ngoạn, hoặc bằng vàng, hoặc bằng ngọc, ngụ ý chúc tụng những sự tốt lành.

(29), (30), (31), (32). Đều là những danh từ chúc tụng.

Mọi người tạ ơn xong, viên thái giám chấp sự tâu: “Nay đã đến giữa giừ sửu, mời loan giá về cung”.

Nguyên phi lại nước mắt giàn giụa, nhưng phải gượng cười cầm tay Giả mẫu và Vương phu nhân dặn dò nhiều lần: “Giữ lấy sức khỏe, không nên thương nhớ. Hiện giờ ơn trên rộng rãi, mỗi tháng cho vào cung thăm một lần, gặp mặt cũng dễ dàng, việc gì phải buồn rầu? Nếu sang năm ơn trên lại cho về thăm nhà, thì không nên bày vẽ xa xỉ như thế này”. Giả mẫu khóc nức nở, nói không ra lời. Nguyên phi tuy không nỡ rời tay, nhưng vì theo phép tắc nhà vua, nên đành dằn lòng lên xe. Mọi người khuyên giải Giả mẫu và Vương phu nhân rồi dìu về nhà.