Ôlivơ Tuýt - Chương 48

CHƯƠNG XLVIII

XAIKIT CHẠY TRỐN

Trong tất cả những hành động tội ác được bóng tối che giấu đã xảy ra trong phạm vi rộng lớn của Luân Đôn từ khi bóng đêm bao trùm thành phố, đây là hành động xấu xa nhất. Trong tất cả những điều khủng khiếp đã đầu độc bầu không khí ban mai, đây là hành động hèn hạ nhất và tàn nhẫn nhất.

Mặt trời - mặt trời rực rỡ, đem lại không những ánh sáng mà cả một sự sống mới, lòng hy vọng và sự tươi vui cho con người - chợt xuất hiện trên đô thị đông đúc, tưng bừng chói lọi. Nó tỏa ánh sáng như nhau qua những tấm kính màu đắt tiền cũng như qua những tấm kính vỡ vá víu bằng giấy, qua những nóc tròn của các nhà thờ cũng như qua những khe hở mục nát. Nó chiếu sáng căn phòng ở đấy người đàn bà bị giết nằm sóng soài. Nó chiếu sáng tất cả. Xaikit tìm cách ngăn cản không cho nó vào, nhưng nó vẫn cứ ùa vào. Nếu như cảnh tượng đã là kinh khủng trong buổi sáng ảm đạm thì bây giờ dưới ánh sáng chói lọi này, nó còn khủng khiếp đến đâu.

Xaikit đứng im lìm bất động; hắn ho sợ quá không thể cử động được. Có tiếng rên rỉ và một bàn tay cựa quậy, và vừa hoảng sợ vừa điên rồ, hắn đã nện xuống và nện nữa. Một lần hắn đã ném cái chăn lên thân hình đó, nhưng điều đó càng làm cho hắn khiếp đảm khi tưởng tượng đôi mắt, đôi mắt đang lừ lừ dịch về phía hắn, còn dễ sợ hơn là khi thấy đôi mắt ấy nhìn lên trừng trừng như đang ngắm nhìn ánh phản chiếu vũng máu rung rinh nhảy múa trong tia nắng ở trên trần. Hắn lại kéo cái chăn lên, và kìa, cái xác người toàn máu me và thịt, không còn gì nữa... nhưng thịt sao mà khủng khiếp và sao mà nhiều máu đến thế!

Hắn đánh một que diêm, đốt lên một ngọn lửa và tống gậy vào lửa. Đầu gậy có tóc, tóc bốc cháy và biến thành tro, tro này bị không khí thổi vào quay tít lên trên lò sưởi. Ngay cả điều đó cũng làm cho hắn khiếp sợ, mặc dầu hắn táo bạo. Nhưng hắn nắm cái vũ khí này cho đến khi nó gãy đôi và hắn chất nó lên lớp than đá để đốt và biến nó thành tro bụi. Hắn rửa ráy và lau chùi quần áo. Có những chỗ không thể gột đi được, hắn cắt ra thành từng mảnh và đốt đi. Những dấu vết kia tản mát bê bết khắp phòng. Ngay cả chân con chó cũng bê bết máu.

Trong suốt thời gian này, hắn không hề quay lưng lại cái xác lần nào, đúng thế, hắn không hề quay lưng lại lần nào. Sau khi đã làm xong những công việc chuẩn bị như vậy, hắn bước lùi ra phía sau, về phía cửa, kéo con chó theo mình, nó sẽ lại giẫm phải máu và mang những bằng chứng của tội ác ra ngoài đường. Hắn nhẹ nhàng đóng cửa, khóa lại rồi cầm theo chìa và rời khỏi nhà.

Hắn đi sang bên kia đường và ngước mắt nhìn lên cửa sổ để yên tâm là từ bên ngoài nhìn không thấy gì. Một chiếc rèm đã được kéo lên, Nenxi đã kéo cái rèm ấy để những tia nắng mà cô ta sẽ không bao giờ thấy lại lọt vào. Cái rèm nằm ở đấy cạnh cửa sổ. Hắn biết lắm. Trời ơi! Ánh mặt trời lùa vào đúng chỗ ấy!

Nhưng hắn chỉ liếc mắt nhìn trong giây lát. Hắn cảm thấy nhẹ cả người khi ra khỏi phòng. Hắn huýt sáo gọi con chó và tháo đi thật nhanh.

Hắn đi qua Ixlinhtân, bước lên ngọn đồi ở Haigây, ở đấy có tảng đá dựng lên kỷ niệm Huyttinhtân(33), rồi lại đi xuống đồi Haigây. Hắn đi không có mục đích và phân vân không biết nên đi đâu, chưa xuống hết ngọn đồi, hắn rẽ sang phải, đi theo con đường nhỏ qua những cánh đồng, đi vòng qua Caen Ut và cứ thế đi ra Hămxtet Hít. Đi hết con đường trũng ở thung lũng Henthơ hắn bước lên bờ sông đối diện và băng qua con đường nối liền các làng Hămxtet và Haigây, hắn đi dọc theo phần còn lại của bãi hoang đến những cánh đồng ở Northơ Endơ, rồi nằm ngủ cạnh một hàng rào ở đấy.

(33) Một nhân vật lịch sử ở thế kỷ XV. Tảng đá dựng lên trên một đường phố thuộc khu vực Haigây ở Luân Đôn nơi mà theo truyền thuyết Đích Huyttinhtân, một cậu bé học nghề buôn định chạy trốn khỏi Luân Đôn, nhưng đến đây nghe tiếng chuông nhà thờ và có tiếng nói bảo cậu quay trở lại, báo trước cho biết cậu sẽ ba lần làm thị trưởng thành Luân Đôn.

Lát sau, hắn lại đứng lên rồi lại đi, không phải đi xa về phía nông thôn mà quay trở về Luân Đôn theo con đường cái lớn, rồi đi lộn lại, để sau đó lại quay trở về Luân Đôn nhưng mới được một đoạn, hắn lại đi lang thang qua những cánh đồng và nằm trên các bờ hố để nghỉ, rồi lại chồm dậy để tìm một nơi khác, và lại làm như thế, lại đi lang thang.

Hắn có thể đến một nơi nào vừa gần vừa vắng vẻ để kiếm một ít thịt và rượu! Hắn nghĩ đến Henđân. Đó là một chỗ tốt, không xa cho lắm, lại tránh được lối đi lại của hầu hết mọi người. Hắn rảo bước đến đấy, khi chạy, khi dừng, thẫn thờ đi chậm như sên với cái vẻ băn khoăn kỳ lạ, hay cúi gập mình xuống lấy gậy bâng quơ đập vào những hàng rào! Nhưng khi đến đấy, tất cả những ngà hắn gặp - cả những đứa trẻ hắn gặp ở ngoài cửa - cũng đều nhìn hắn với con mắt ngờ vực. Hắn lại quay trở lại, không đủ can đảm mua một cái gì để ăn hay để uống, mặc dầu trong mấy giờ liền hắn không ăn uống gì, và một lần nữa, hắn lại lang thang ở Hít không biết đi đâu.

Hắn thơ thẩn hết dặm này đến dặm khác, nhưng vẫn quay trở lại chỗ cũ. Buổi sáng và buổi trưa đã qua và ngày cũng đã gần hết. Nhưng hắn vẫn cứ thơ thẩn đây đó, đi đi lại lại, vẫn cứ loanh quanh ở một nơi. Cuối cùng, hắn ra đi và rảo bước về hướng Hatfin.

Đã chín giờ tối khi người đàn ông mệt nhoài và con chó kiệt sức chân bước khập khiễng vì không quen đi như vậy lần xuống ngọn đồi cạnh nhà thờ một cái làng yên tĩnh, thất thểu đi trên con đường làng rồi len lén bước vào một cái quán nhỏ, mà ánh sáng leo lét đã dẫn chúng đến. Lửa cháy trong lò sưởi, một vài bác nông dân đang uống rượu bên lò sưởi. Họ nhường chỗ cho người lạ mặt nhưng hắn vẫn ngồi ở góc xa nhất ăn uống một mình hay đúng hơn với con chó của hắn. Thỉnh thoảng hắn ném cho con chó một mẩu thức ăn.

Câu chuyện trao đổi của những người gặp nhau ở đây là bàn về những cánh đồng chung quanh, về những người nông dân, và khi những đầu đề này đã cạn, họ nói về tuổi một ông già quá cố nào đó đã được chôn cất vào ngày chủ nhật trước; những người trẻ tuổi có mặt ở đấy cho người kia là rất già, trái lại những người già thì lại cho ông ta là hãy còn rất trẻ - không già hơn chính ông ta, một cụ già tóc bạc nói - ít nhất ông ta còn sống được mươi mười lăm năm nữa nếu như ông ta biết khéo giữ gìn, ví thử ông ta đã khéo giữ gìn sức khỏe.

Trong câu chuyện trao đổi này không có cái gì để thu hút sự chú ý hay gây nên sự sợ hãi. Tên ăn trộm, sau khi trả tiền, ngồi yên lặng không ai chú ý đến trong cái góc của mình, và đã gần như thiêm thiếp ngủ, bỗng sự xuất hiện ồn ào của một người mới đến làm cho hắn phần nào tỉnh dậy. Đó là một anh chàng ngộ nghĩnh, nửa bán hàng rong và nửa lang băm, anh ta đã đi bộ khắp các vùng quê để bán đá mài, da liếc dao cạo, dao cạo, xà phòng thơm, xi đánh yên ngựa, thuốc cho chó và ngựa, nước hoa rẻ tiền, thuốc xức tóc và những món hàng đại loại như vậy mà anh ta mang trong một cái hòm đeo lủng lẳng trên lưng. Anh ta bước vào là một dịp để trao đổi những lời bông đùa thân mật với những người ở nông thôn, việc trao đổi này vẫn cứ râm ran tiếp tục cho đến khi anh ta đã ăn tối xong và mở cái hòm kho tàng của mình. Lúc này anh ta khéo léo kết hợp buôn bán với đùa nghịch.

“Của này thế nào? Ăn tốt chứ, anh Hari?”. Một nông dân cười nhăn nhở chỉ mấy cái bánh xà phòng nằm ở một góc.

“Cái này”, người kia nói, tay cầm một bánh giơ ra, “đó là thứ thuốc vô giá và công hiệu để xóa bỏ mọi vết nhơ, han gỉ bùn, mốc, những vết lốm đốm những chỗ bẩn trên lụa, xa tanh, vải, nhiễu thảm, len mêrinô hay các thứ hàng len khác. Những vết nhơ của rượu, của trái cây, của bia, của sơn, của nước của hắc ín, mọi vết nhơ đều lập tức biến đi khi ta gột với thứ thuốc công hiệu và vô giá này. Nếu một cô nào thấy danh dự của mình bị hoen ố, cô ta chỉ cần nuốt một cái bánh và được chữa ngay lập tức... vì đó là thuốc độc. Nếu một anh chàng nào muốn chứng minh điều đó, anh ta chỉ cần xơi một miếng vuông tí xíu là yên chuyện ngay - vì nó cũng làm người ta thỏa mãn hoàn toàn như là một viên đạn và mùi vị còn khói chịu hơn, do đó xơi nó càng vinh dự hơn. Giá một miếng một penni. Có ích như thế mà một miếng chỉ có giá một penni thôi”.

Có hai người mua ngay và có nhiều người lắng nghe, rõ ràng là đang phân vân. Người bán nhận thấy thế càng nói liến thoắng hơn.

“Thứ này bán rất chạy đến nỗi làm không kịp”, anh chàng nói. “Có mười bốn cối xay nước và sáu máy hơi nước và một bộ pin bao giờ cũng lo chế tạo cái thứ này, nhưng sản xuất cũng không đủ nhanh, mặc dầu những người đàn ông làm việc vất vả đến nỗi họ vì thế mà chết và người ta trợ cấp các bà vợ góa mỗi năm hai mươi bảng cho mỗi đứa con và với tiền thưởng là năm mươi bảng cho những đứa con sinh đôi. Giá mỗi miếng một penni cũng được và bốn đồng một phần tư penni cũng xong. Những vết nhơ của rượu, của trái cây, của bia, của sơn, của hắc ín, của bùn, của máu! Đây là một vết nhơ trên chiếc mũ của một ông ở đây và tôi sẽ lau nó sạch trước khi ông ta có thể đãi tôi một cốc bia!”.

“Thế nào?”, Xaikit giật mình kêu lên. “Trả mũ cho tôi!”.

“Ông ơi, tôi sẽ lau nó sạch ngay lập tức”, người kia đáp và đưa mắt ra hiệu với đám đông, “trước khi ông có thể bước ngang qua phòng để lấy mũ. Tất cả các vị hãy nhìn cái vết nhơ màu sậm trên mũ của ông này, không lớn hơn một đồng silinh nhưng dày hơn một nửa đồng Craonơ. Dù đó là vết nhơ của rượu, của trái cây, của bia, của nước, của sơn, của hắc ín hay của bùn, của máu...”.

Người kia chưa kịp nói thêm thì Xaikit buông ra một lời nguyền rủa khó chịu, đã lật đổ chiếc bàn, giật ngay mũ ở trên tay anh ta và xông ra khỏi nhà.

Cùng với cái tâm trạng bồn chồn và lưỡng lự phân vân cứ bám riết lấy hắn, - ngay cả hắn - suốt ngày, tên giết người nhận thấy hắn không bị theo dõi và chắc rằng người ta cho hắn là một chàng say rượu càu nhàu, lại quay trở lại thành phố.

Hắn lẩn tránh ánh sáng chói lòa từ những ngọn đèn của một chiếc xe ngựa đang đứng ở ngoài phố và vừa đi qua chiếc xe thì hắn bỗng nhận ra đó là một chiếc xe thư từ Luân Đôn đến và đang đậu cạnh nhà bưu điện nhỏ bé. Hắn gần như đoán biết điều gì sẽ xảy ra, nhưng hắn vẫn bước qua đường và lắng nghe.

Người đưa thư vẫn đứng ở cửa đợi túi thư. Vào lúc đó, một người đàn ông ăn mặc giống như một người coi rừng xuất hiện và người đưa thư trao cho anh ta một cái rổ nằm sẵn trên lề đường.

“Cái này là cho những người của anh đấy”, người đưa thư nói. “Này, bảo trong ấy nhanh tay lên chứ, nghe chưa? Mẹ kiếp cái túi thư nhà anh, tối hôm kia nó đã không sẵn sàng rồi, làm ăn thế là không được, hiểu không?”.

“Có tin gì mới ở trên phố không, anh Ben?”. Người coi rừng hỏi, xích lại gần cửa chớp để càng dễ dàng ngắm nhìn những con ngựa hơn.

“Không, tôi chẳng nghe gì mới”, người kia đáp và tháo đôi tất tay. “Lúa mì có lên giá một chút. Tôi có nghe nói đến một vụ giết người ở đầu đường Xpaitânfin, nhưng tôi không tin lắm”.

“Ôi chao đúng thật mà”, một người đàn ông trong xe thò đầu ra ngoài cửa sổ nói, “một vụ giết người khủng khiếp!”.

“Thật thế à, ông?”. Người đưa thư hỏi, tay sờ mũi. “Đàn ông hay đàn bà thế ông?”.

“Đàn bà”, người kia đáp, “người ta cho rằng...”.

“Nào anh Ben”, người đánh xe sốt ruột nói.

“Mẹ kiếp cái túi thư ở đây?”. Người đưa thư nói. “Có phải cậu chui vào đấy ngủ không?”.

“Đây rồi.”. Trưởng phòng bưu điện chạy ra, kêu lên.

“Đây rồi!”. Người đưa thư càu nhàu. “Chà, cái cô trẻ tuổi, giàu có sắp phải lòng tôi cũng đang đến với tôi đấy, nhưng tôi không biết lúc nào thì cô ấy phải lòng tôi. Này nắm lấy, Xo-ong rồi!”.

Tù và vang lên vui vẻ và chiếc xe đã đi khuất.

Xaikit vẫn đứng ở ngoài đường, vẻ thản nhiên trước những điều hắn vừa nghe và không có gì làm hắn bối rối ngoài cảm giác hoang mang không biết đi đâu. Cuối cùng hắn quay trở lại và đi theo con đường từ Hatfin đến Xanh Anban.

Hắn cứ tiếp tục dấn bước, nhưng khi đã để lại thành phố ở phía sau và lao vào trong cảnh cô độc, tối tăm của con đường, hắn cảm thấy một nỗi sợ hãi và khủng khiếp len vào người làm cho hắn hoang mang đến tột độ. Mọi vật trước mắt hắn, dù có thực hay chỉ là một cái bóng, dù bất động hay động đậy, đều trông giống như một vật gì dễ sợ. Nhưng những điều sợ hãi này không thấm gì so với cái cảm giác vẫn ám ảnh hắn về hình dáng khủng khiếp sáng nay mà hắn thấy đang theo sát gót hắn. Hắn có thể phân biệt hình dáng của nó ở trong bóng tối, nhận ra những chi tiết nhỏ nhất của những đường nét và thấy nó hình như bước đi cứng đờ và trang trọng như thế nào. Hắn có thể nghe tiếng quần áo của nó sột soạt giữa những lá cây và mọi hơi thở của gió đến với hắn đều mang theo tiếng kêu cuối cùng khe khẽ kia. Nếu hắn dừng lại thì nó cũng dừng lại. Nếu hắn bỏ chạy, nó đuổi theo, nhưng không phải nó chạy - nếu như nó chạy còn đỡ dễ sợ - nó giống như một cái thây ma còn có một sức sống máy móc và được một ngọn gió buồn ảo não thổi chầm chậm là là trên mặt đất mang đi.

Thỉnh thoảng, hắn quay trở lại với thái độ kiên quyết tuyệt vọng, quyết định đánh đuổi con ma kia đi, mặc dầu biết rằng nó chỉ là một ảo ảnh, không có sự sống nhưng tóc hắn dựng lên trên đầu và máu hắn lạnh cứng lại, vì bóng ma kia cũng quay ngoắt lại cùng với hắn và lúc đó nó đứng sau lưng hắn. Buổi sáng, hắn đã giữ cho con ma ấy ở trước mặt mình, nhưng nay thì bao giờ nó cũng ở đằng sau lưng. Hắn dựa lưng vào lề đường và cảm thấy cái bóng đang đứng trên cao, nổi bật trên trời đêm lạnh buốt. Hắn ném mình xuống đường, lưng nằm dài trên đường. Cái bóng đứng ở cạnh đầu hắn, im lặng, thẳng tắp và bất động - một cái bia mộ sống, với những chữ trên bia viết bằng máu.

Đừng nên nghĩ rằng những tên giết người tránh khỏi pháp luật, và cho rằng chắc là Thượng đế ngủ say. Chỉ riêng trong một phút dằng dặc của tình trạng hoảng sợ này cũng đã gấp mấy chục lần những cái chết dữ dội.

Trên cánh đồng hắn đi qua, có một kho lúa có thể ẩn náu ban đêm ở đấy. Trước cửa mọc ba cây bạch dương lớn làm cho bên trong tối om và gió rền rĩ khi xuyên qua đám cây, tạo nên tiếng than thở ghê rợn. Hắn không thể đi xa hơn được nữa trước lúc bình minh và ở đây hắn nằm dài áp người vào tường để chịu đựng một cuộc tra tấn mới.

Lúc này, ảo ảnh lại xuất hiện, còn thường xuyên và kinh khủng hơn cái ảo ảnh mà hắn đã thoát khỏi. Đôi mắt mở to nhìn trừng trừng kia, đục mờ và đờ đẫn đến nỗi thà hắn phải nhìn còn hơn là nghĩ đến chúng, đã xuất hiện giữa cảnh tối tăm. Trong đôi mắt có ánh sáng, nhưng không rọi chiếu vào đâu cả. Chỉ có đôi mắt thôi, nhưng chúng lại ở khắp nơi. Nếu như hắn nhắm mắt lại thì trước mắt hắn lại xuất hiện căn phòng với mọi vật mà hắn đã biết rất rõ - cố nhiên có một vài vật mà lẽ ra hắn đã quên nếu như không dựa vào trí nhớ mà phục hồi lại - mỗi vật đều xuất hiện ở vị trí quen thuộc. Cái xác vẫn nằm ở chỗ của nó, và đôi mắt vẫn hệt như hắn nhìn thấy khi hắn chạy trốn. Hắn đứng lên, và lao ra ngoài đồng. Cái bóng kia vẫn ở đằng sau hắn. Hắn lại bước vào kho lúa và lại thu hình nằm xuống. Đôi mắt đã ở đấy trước khi hắn đặt mình xuống.

Và ở đây, hắn sống trong một tình trạng khủng khiếp mà không một ai ngoài hắn có thể biết, chân tay run cầm cập, và mồ hôi lạnh toát ra từ mọi lỗ chân lông. Bỗng đột nhiên hắn nghe trong gió có tiếng la hét ở xa và có những tiếng nói gào lên xen lẫn nhau trong cảnh hoảng loạn và ngạc nhiên sửng sốt. Mọi tiếng nói của con người ở cái nơi heo hút này, dù cho điều đó có làm cho hắn hoảng sợ thực sự thì cũng vẫn là một điều an ủi đối với hắn. Hắn lấy lại được sức khỏe và nghị lực trước tình trạng bản thân bị nguy hiểm và nhảy chồm lên lao ra ngoài trời.

Bầu trời rộng lớn hình như bốc lửa. Những ngọn lửa vươn cao lên trong không trung, bắn ra những tia lửa tung tóe, cuộn tròn lấy nhau, chiếu sáng bầu trời trong vòng mấy dặm và đẩy những đám khói về phía hắn đứng. Những tiếng la hét ngày càng lớn khi có thêm những giọng mới góp vào và hắn có thể nghe tiếng kêu “Cháy nhà!” xen lẫn với tiếng chuông cứu hỏa vang lên, tiếng những vật nặng rơi xuống, tiếng ngọn lửa kêu lách tách trong khi nó quấn lấy một vài vật cản trở mới và bốc lên cao tựa hồ như thức ăn làm cho nó phấn chấn. Khi hắn nhìn thì tiếng động tăng lên. Ở đấy có đàn ông, đàn bà, có ánh sáng, có cảnh nhốn nháo. Đối với hắn, điều đó giống như một cuộc sống mới. Hắn cắm đầu lao thẳng về phía trước, xông qua những lùm cây và bụi rậm, nhảy qua các cánh cổng và hàng rào cũng điên rồ như con chó của hắn đang chạy trước hắn và vừa lao nhanh vừa sủa inh ỏi.

Hắn chạy đến nơi có tai nạn. Có những bóng người ăn mặc phong phanh chạy qua chạy lại. Người thì ra sức lôi những con ngựa khiếp đảm ra khỏi tàu ngựa, người thì xua gia súc khỏi sân và chuồng của chúng, người thì xông vào giữa những đám tàn lửa tung tóe như mưa và những xà nhà đỏ rực đang đổ xuống ầm ầm để mang đồ vật ra khỏi ngôi nhà bốc cháy ngùn ngụt. Những chỗ trống mà trước đây một giờ là những cửa ra vào, cửa sổ để lộ một đám lửa cháy giần giật; những bức tường đu đưa và đổ ụp xuống cái giếng lửa chì và sắt bị nấu chảy đổ xuống đất, trắng và nóng bỏng. Đàn bà, trẻ con kêu inh ỏi và đàn ông hò hét cổ vũ khuyến khích nhau ầm ĩ. Các bơm nước hoạt động tới tấp tiếng nước rít và réo khi rơi xuống đám gỗ cháy rừng rực làm cho tiếng ồn ào thêm kinh khủng. Hắn cũng gào lên khản cả cổ, và tìm cách quên đi bản thân mình, hắn lao vào giữa đám đông người nhất.

Hắn xông xáo đây đó đêm ấy, khi ở bên các bơm nước, khi lao qua lửa và khói nhưng không bao giờ ngừng xen vào nơi ồn ào nhất và đông người nhất. Hắn leo lên rồi tụt xuống thang, trèo lên những mái nhà, đi trên những sàn gỗ kêu cọt kẹt và run rẩy dưới sức nặng của hắn, xông qua những viên gạch và những tảng đá rơi xuống như mưa. Hắn có mặt ở mọi nơi trong đám cháy lớn này. Nhưng hắn dường như mang một sức sống nhiệm màu, và không hề bị sây sát hay bầm tím, không mệt mỏi hay suy nghĩ cho đến khi trời hửng sáng, và chỉ còn lại khói và những dấu vết hoang tàn cháy đen.

Sau khi cơn kích động điên cuồng đã qua, ý thức khủng khiếp về tội ác của hắn lại quay trở lại mạnh gấp mười lần. Hắn nhớn nhác nhìn quanh, vì người ta đang túm tụm từng đám nói chuyện với nhau và hắn sợ mình là đầu đề câu chuyện của họ. Khi thấy hắn giơ ngón tay vẫy, con chó liền vâng theo và cả hai lén lút rút lui. Hắn đi ngang qua một cái bơm cứu hỏa nơi có một vài người đang ngồi và họ gọi hắn đến cùng ăn chung. Hắn ăn một ít bánh mì và thịt, và khi hắn uống một ngụm bia, hắn nghe những người cứu hỏa từ Luân Đôn đến đang nói chuyện về tên giết người.

“Thằng cha nghe nói đã đi Biêcminham”, một người nói, “nhưng người ta vẫn chưa tóm được hắn, vì cảnh sát đang lùng sục và vào khoảng tối mai ở tất cả vùng này mọi người đều sẽ biết chuyện này”.

Hắn vội vã rời khỏi nơi đó và mải miết bước cho đến khi gần như ngã gục trên đường. Lúc đó, hắn nằm bên lề một con đường hẻm và đánh một giấc dài nhưng chập chờn và vất vả. Hắn lại đi lang thang, băn khoăn và lưỡng lự, nỗi lo sợ phải sống một đêm cô độc nữa cứ ám ảnh hắn.

Đột nhiên, hắn nảy ra một quyết định tuyệt vọng: quay về Luân Đôn.

“Ở đấy ít nhất cũng có người để mình trò chuyện”, hắn nghĩ bụng, “lại có một nơi ẩn náu tốt. Chẳng ai nghĩ rằng sẽ tóm được mình ở đấy sau khi nghe nói mình đã ở vùng này. Tại sao mình không thể ở đấy một hai tuần, rồi bắt lão Fâyjin phải cho mình tiền để chuồn sang Pháp. Mẹ kiếp! Mình phải chơi cái nước cờ liều này mới được!”.

Hắn liền hành động theo sự thúc đẩy này và chọn những con đường vắng vẻ nhất, hắn bắt đầu lên đường trở về. Hắn quyết định ẩn náu ở cách Luân Đôn không xa, rồi lọt vào thủ đô lúc nhá nhem tối và men theo một con đường quanh co đến thẳng nơi mà hắn đã dự định sẽ đến.

Nhưng còn con chó? Nếu người ta miêu tả hắn thì thế nào họ cũng không quên rằng con chó đã biến mất và chắc nó đi theo hắn. Điều này có thể khiến hắn bị bắt khi đi ngoài đường. Hắn quyết định nhận chìm con vật và vừa đi vừa đảo mắt nhìn quanh tìm một cái ao gần đường, trên đường đi, hắn nhặt một hòn đá nặng về buộc vào chiếc khăn tay.

Con vật ngước mắt nhìn ông chủ khi hắn đang tiến hành công việc chuẩn bị này. Không biết do bản năng nên nó đoán biết mục đích của những sự chuẩn bị hay do cái nhìn nghiêng của tên ăn trộm trông nghiêm khắc hơn mọi ngày, nhưng nó lùi lại phía sau, đi cách xa chủ hơn một chút so với mọi ngày, và thu mình lại, cụp đuôi tiến lên chậm rãi hơn.

Khi ông chủ nó dừng lại ở bên bờ một cái ao và quay ngoắt người lại gọi nó thì nó đứng phắt lại.

“Mày có nghe tao gọi không? Lại đây!”, Xaikit quát. Con chó bước đến do thói quen, nhưng khi Xaikit cúi xuống để buộc cái khăn vào cổ nó thì nó thốt lên một tiếng gầm gừ khe khẽ và bước lùi lại.

“Quay lại!”, tên ăn trộm bảo.

Con chó không cử động, Xaikit buộc một cái nút lỏng và lại gọi nó.

Con chó tiến lên, rút lui, dừng lại một lát, quay ngoắt người và tháo chạy thực nhanh.

Xaikit huýt sáo lần này lượt khác và ngồi xuống đợi con chó quay trở lại. Nhưng không con chó nào xuất hiện và cuối cùng hắn tiếp tục lên đường.