Ôlivơ Tuýt - Chương 50

CHƯƠNG L

ĐUỔI THEO VÀ TRỐN THOÁT

Ở gần khúc sông Têmdơ tiếp giáp với nhà thờ Rôthhai, nơi những ngôi nhà trên bờ sông bẩn thỉu nhất và những chiếc thuyền trên sông đen kịt nhất vì bụi than và khói của những căn nhà thấp mái xây sát nhau, là những khu dân cư hôi hám nhất, kỳ quặc nhất, khác thường nhất trong số nhiều khu dân cư ẩn nấp ở Luân Đôn mà phần lớn những người dân thành phố này hoàn toàn không biết ngay cả tên gọi của chúng.

Để đến nơi này, bạn đọc phải đi qua cả một mê cung những đường phố chật hẹp, ngột ngạt và bùn lầy, ở đấy những người cục cằn nhất và nghèo khổ nhất của dân sống bên bờ sông lo việc những vật chỉ cần thiết cho tầng lớp bần cùng. Những hàng hóa rẻ tiền nhất và kém cỏi nhất được chất thành đống, những quần áo tầm thường nhất và thô sơ nhất lủng lẳng trước cửa nhà người bán hàng và tuôn ra ngoài bao lơn và cửa sổ. Len lỏi giữa những người lao động không có việc làm thuộc tầng lớp thấp nhất, những người khuân vác than và đá balat, những người đàn bà táo tợn, những trẻ em rách rưới và những vật vứt bỏ của dân sống bên sông, bạn bước đi vất vả, khó chịu trước những cảnh bẩn thỉu và những mùi hôi thối bốc lên từ những đường hẻm chật chội với những lối rẽ trái rẽ phải, và vì tiếng động inh tai điếc óc của những chiếc xe nặng nề mang những chồng hàng hóa nặng trĩu từ các kho hàng được dựng lên ở mỗi góc phố. Cuối cùng, bước đến những con đường cách xa hơn và ít người đi lại hơn những con đường mà bạn đã đi qua, bạn bước dưới những mái nhà ọp ẹp nhô ra ngoài đường, những bức tường nứt nẻ có vẻ như sắp đổ sụp xuống, những ống khói đổ nát lưỡng lự chưa muốn gục hẳn xuống, những cửa sổ được các thanh sắt han gỉ mà thời gian và bụi bặm đã ăn mòn gần hết bảo vệ, có mọi dấu hiệu có thể tưởng tượng về tình trạng hoang dại và bị bỏ rơi.

Ở một nơi như vậy, bên kia Dorhit, tại vùng ngoại ô Xaothơoac là Đảo Jakôp bị một cái hào bùn lầy bao quanh, hào sâu từ sáu đến tám phút, và rộng từ mười lăm đến hai

mươi phút khi có nước thủy triều vào và đã có lần được gọi là Ao Min, nhưng vào ngày xảy ra câu chuyện này thì mang tên là Hào Điên Rồ. Đó là một nhánh hay một lạch của sông Têmdơ, và lúc thủy triều lên bao giờ cũng có thể đầy nước bằng cách mở các cửa cống ở Let Min là nơi đã cho nó cái tên gọi trước đây. Vào lúc như vậy, một người lạ đứng trên một chiếc cầu gỗ ở Min Lâynơ sẽ thấy người trong các ngôi nhà hai bên bờ sông buông qua các cửa sau và cửa sổ những xô, những thùng, những đồ dùng gia đình thuộc mọi loại xuống để kéo nước lên. Và khi con mắt anh ta chuyển từ những công việc này sang bản thân những ngôi nhà thì anh ta sẽ hết sức ngạc nhiên trước quang cảnh trải ra trước mắt. Những hành lang ọp ẹp bằng gỗ chạy dọc theo phía sau cửa năm sáu ngôi nhà bị thủng ở dưới sàn nhìn thấy bùn lầy ở dưới; những cửa sổ bị gãy được vá víu lại; những cái sào nhô ra ngoài để phơi quần áo nhưng không bao giờ có quần áo; những căn phòng bé nhỏ, bẩn thỉu, chật chội đến nỗi không khí có vẻ quá hôi thối ngay cả đối với những thứ bẩn thỉu dơ dáy mà chúng che giấu; những gian buồng bằng gỗ nhô mình ra ngoài ở trên bùn lầy và cứ chực rơi xuống như một vài gian đã rơi; những bức tường bê bết bùn và những móng nhà đang hư hỏng; tất cả những dấu hiệu ghê tởm của sự nghèo khổ, tất cả những biểu hiện gớm guốc của thối tha, mục nát và rác rưởi, tất cả những cái đó tô điểm hai bên bờ Hào Điên Rồ.

Trên Đảo Jakôp, các kho hàng đều không có mái và trống rỗng; các bức tường đã đổ sụp; các cửa sổ không còn là những cửa sổ nữa, các cửa lớn đổ ra ngoài đường, các ống khói đen ngòm nhưng không bốc khói nữa. Cách đây ba bốn mươi năm khi chưa xảy ra những tổn thất, và sau đó là những vụ kiện tụng ở Tòa đại pháp, đó là một nơi sầm uất, nhưng bây giờ nó là một hòn đảo vắng tanh. Các ngôi nhà không còn chủ nữa; ai có can đảm thì phá cửa mà vào; họ sống ở đấy và chết ở đấy. Họ phải có những lý do quan trọng để tìm một nơi ở bí mật như vậy, hoặc là bị lâm vào tình trạng thực sự túng thiếu mới phải tìm một nơi ẩn náu trên Đảo Jakôp.

Trong một căn phòng trên gác của một ngôi nhà - một ngôi nhà được tách riêng, khá lớn, hư hỏng nhiều chỗ nhưng vẫn được bảo vệ chắc chắn ở cửa ra vào và cửa sổ, phía sau ngôi nhà này nhìn xuống cái hố theo lối đã miêu tả - có ba người tụ họp, chốc chốc lại đưa mắt nhìn nhau, vẻ lo lắng và chờ đợi. Họ ngồi một lát trong cảnh im lặng nặng nề và u ám. Một người là Tôbi Krăckit, người kia là Sitlinh, và người thứ ba là một tên ăn trộm năm mươi tuổi, mũi gần như bị đập bẹp trong một cuộc ẩu đả trước đây và trên mặt có một vết sẹo khủng khiếp có thể cũng là do nguyên nhân ấy. Người này là một tên tù bị đày trở về, tên hắn là Cacxơ. Tôbi quay về phía Sitlinh và nói:

“Tao muốn mày kiếm một cái hang nào khác thay cho hai cái cũ quá nóng bức, và đừng đến đây, anh bạn quý hóa ạ”.

“Tại sao mày lại không làm thế, thằng ngốc kia?” Cacxơ hỏi.

“Có gì đâu, tôi tưởng các anh gặp tôi thì vui vẻ hơn là thế này đôi chút”, Sitlinh đáp, vẻ buồn bã.

“Anh bạn trẻ ơi”, Tôbi nói, “một thằng sống rất cô độc như tao, và bằng cách sống ấy có được một mái nhà ấm cúng ở trên đầu và chung quanh không có ai rình mò và đánh hơi, thế nào chẳng ít nhiều hoảng hốt khi có vinh dự được một người trẻ tuổi lâm vào những hoàn cảnh như hoàn cảnh của mày đến thăm, dù cho anh ta có thể là một người đáng kính và hấp dẫn đến đâu khi cùng chơi bài chăng nữa”.

“Nhất là khi con người trẻ tuổi cô độc lại có một anh bạn sống với cậu ta, người này từ nước ngoài về đây sớm hơn điều người ta chờ đợi và rất khiêm tốn nên không muốn được giới thiệu với các quan tòa rằng anh ta trở về”, Cacxơ nói thêm.

Một phút im lặng kế tiếp theo, sau đó Tôbi Krăckit hình như hiểu rằng mọi cố gắng duy trì cái vẻ táo tợn phớt đời mọi ngày đều vô ích, quay về phía Sitlinh và nói:

“Lão Fâyjin bị bắt lúc nào thế?”

“Đúng lúc ăn trưa... lúc hai giờ chiều nay, Sácli và tớ đã trốn được qua ống khói, còn Bôntơ chui vào cái thùng nước trống không, đầu chúi xuống đất. Nhưng chân cậu ta dài quá thò ra ngoài nên họ vớ được cả cậu ta nữa”.

“Còn Bet?”.

“Tội nghiệp cho Bet! Cô ta đến nhìn cái xác để xem đó là ai”, Sitlinh đáp, vẻ mặt âu sầu, “rồi hóa điên, kêu gào, đập đầu vào ván tường. Cho nên họ đã mặc cho cô ta một chiếc áo chẽn chật chội và mang đến nhà thương, và hiện nay cô ta còn ở đấy”.

“Thế còn cậu Bâytit thế nào?”, Cacxơ hỏi.

“Cậu ta đang láng cháng đâu đấy, tránh không đến đây trước khi trời tối, nhưng chắc lát nữa sẽ về đây thôi”, Sitlinh đáp. “Bây giờ hắn không còn biết đi đâu, vì những người ở quán “Ba chàng thọt” đều đã bị tóm, và quầy hàng của quán đầy những bẫy - tớ đã đến đấy và xem tận mắt”.

“Thực là một vố tan tành”, Cacxơ nói. “Nếu như họ tiến hành điều tra và Bôntơ tố giác những thằng khác, mà cố nhiên thế nào hắn cũng làm thế, nếu xét những điều hắn đã nói thì người ta có thể chứng minh Fâyjin có tham dự trước khi sự việc xảy ra và sẽ đưa lão ra tòa vào ngày thứ sáu. Và mẹ kiếp, trong sáu ngày nữa, thế nào lão cũng leo dây”.

“Giá như cậu nghe được đám đông phản đối”, Sitlinh nói. “Bọn cảnh sát vật lộn như quỷ dữ nếu không lão ta đã bị xé xác rồi. Có một lần đám đông đã vật ngã lão ta ra nhưng cảnh sát đứng quây chung quanh lão và vừa vật lộn vừa rẽ lối đi. Giá như cậu thấy được lão nhìn quanh như thế nào, người bê bết bùn và máu me và cứ bám lấy cảnh sát như đó là những ông bạn chí thân. Ngay bây giờ tớ có thể nhìn thấy lão, không còn đủ sức để đứng lên vì đám đông chen lấn, và họ kéo lão đi ở giữa đám đông. Tớ có thể thấy chúng nó nhảy chồm lên, đứa đằng sau, đứa nhe răng và đe dọa lão. Tớ thấy tóc và râu lão máu me và nghe những tiếng kêu khủng khiếp của các mụ đàn bà cứ len vào giữa đám đông ở góc phố và thề thế nào cũng moi cho được gan lão”.

Kẻ chứng kiến quang cảnh này hoảng sợ lấy tay bịt tai, và hai mắt nhắm nghiền, hắn đứng lên đi đi lại lại hung dữ như một thằng mất trí.

Trong khi hắn làm như vậy và hai tên kia ngồi im lặng mắt dán xuống sàn thì chúng nghe có tiếng chân bước ngoài cầu thang và con chó của Xaikit lao vào phòng. Ba tên gian chạy ra cửa sổ, nhảy bổ xuống cầu thang và lao ra đường. Con chó đã nhảy qua một cửa sổ để mở, nó không cố chạy theo chúng và chúng không thấy chủ nó đâu.

“Thế này là thế nào?”. Tôbi nói, khi chúng đã quay lại. “Hắn không thể nào về đây. Tớ... tớ hy vọng là không!”.

“Nếu hắn về đây thì đã đi cùng với con chó”, Cacxơ nói, rồi cúi xuống quan sát con vật đang nằm thở hổn hển trên sàn. “Nào! Đem ít nước cho nó uống, nó chạy kiệt sức rồi đấy!”.

“Nó uống hết nhẵn, không còn lấy một giọt”, Sitlinh nói, sau khi quan sát con chó một lát. “Mình đầy bùn... đi khập khiễng... gần như mù... chắc hẳn nó phải đi rất xa”.

“Nó có thể từ đâu đến?”, Tôbi kêu lên. “Cố nhiên nó đã về những nơi ẩn nấp khác, và thấy ở đấy toàn những người lạ mặt, nó đã đến đây là nơi nó đã đến nhiều lần. Nhưng trước hết nó từ đâu về và sao lại không cùng đi với chủ?”.

“Hắn” (không tên nào gọi tên giết người bằng tên cũ của hắn)... “Hắn không thể tự kết liễu đời mình. Cậu nghĩ thế nào?”, Sitlinh hỏi.

Tôbi lắc đầu.

“Nếu hắn tự sát”, Cacxơ nói, “thì con chó đã tìm cách đưa chúng ta đến nơi hắn tự sát. Không. Tớ nghĩ hắn đã chuồn ra nước ngoài, và để con chó ở lại. Chắc hắn đã bằng cách nào đó, lẩn tránh con chó, nếu không con chó sẽ không chịu nằm yên như thế này”.

Giả thiết có vẻ hợp lý nhất này được chấp nhận là đúng; con chó bò dưới một cái ghế, cuộn tròn mình lại định ngủ và không ai để ý đến nó nữa.

Lúc này trời đã tối, các cửa chớp đã đóng, và một ngọn nến được thắp và đặt trên bàn. Những biến cố kinh khủng xảy ra trong hai ngày gần đây đã gây nên một ấn tượng sâu sắc tới cả ba tên, ấn tượng này còn tăng lên trước tình trạng nguy hiểm và bấp bênh của chính bản thân chúng. Chúng kéo ghế lại sát bên nhau, giật mình mỗi khi nghe một tiếng động. Chúng thì thầm vài câu, rồi im lặng và sợ hãi tựa hồ như xác người đàn bà bị giết để ở phòng bên cạnh.

Chúng cứ ngồi như thế một lát. Bỗng nghe có tiế vội vàng ở cánh cửa dưới nhà.

“Cậu Bâytit”, Cacxơ nói và đưa mắt nhìn quanh vẻ bực bội để che giấu sự sợ hãi của chính mình.

Tiếng gõ cửa lại vang lên. Không phải cậu ta. Cậu ta không bao giờ gõ như thế cả.

Krăckit bước đến bên cửa sổ, và người run cầm cập, bước lùi lại. Không cần phải bảo cho hai tên kia biết ai gõ cửa. Cái mặt tái nhợt của hắn cũng đủ nói lên điều đó. Con chó trong nháy mắt trở nên tỉnh táo và vừa chạy về phía cửa vừa gầm gừ.

“Ta phải cho hắn vào”, Tôbi nói và cầm lấy cây nến.

“Có cần phải giúp đỡ gì không”, tên kia hỏi, giọng khản đặc.

“Không, phải để cho hắn vào”.

“Đừng bắt chúng tớ ngồi trong bóng tối”, Cacxơ nói, rồi lấy một cây nến từ trên giá lò sưởi xuống và thắp lên, nhưng tay run lẩy bẩy đến nỗi tiếng gõ cửa vang lên hai lần trước khi hắn thắp xong.

Krăckit xuống đến cửa ra vào và quay trở lại với một người bịt khăn tay che khuất phần dưới mặt và có một chiếc khăn khác buộc ở dưới mũ bịt lấy đầu. Hắn chậm rãi cởi khăn ra. Mặt trắng bệch, mắt sâu hoắm, má hóp, râu mọc đã ba ngày chưa cạo, người gầy rộc, hơi thở ngắn, đó là bóng ma của chính Xaikit.

Hắn để tay lên một chiếc ghế kê ở giữa phòng, nhưng giật mình khi định buông mình xuống ghế và nhìn ra sau, hắn kéo ghế lại sát tường... thực sát tường... gần như dính chặt vào tường... Rồi ngồi xuống.

Không một lời trao đổi giữa bọn chúng. Hắn im lặng nhìn hết tên này đến tên kia. Nếu một con mắt lén lút ngẩng lên gặp đôi mắt của hắn thì ngay sau đó lập tức lẩn tránh. Khi cái giọng khản đặc của hắn phá vỡ sự im lặng, cả ba đều giật mình. Chúng hình như chưa bao giờ nghe một giọng nói như vậy.

“Sao con chó lại đến đây?”, hắn hỏi.

“Nó đến một mình. Cách đây ba tiếng đồng hồ”.

“Báo hôm nay nói Fâyjin bị tóm. Đúng không?”.

“Đúng đấy!”.

Mấy đứa lại im lặng.

“Mẹ kiếp, tất cả chúng mày!”, Xaikit nói, rồi lấy tay sờ lên trán. “Chúng mày có gì nói với tao không?”.

Ba tên nhìn nhau lúng túng, nhưng không tên nào dám nói.

“Mày làm chủ cái nhà này”, Xaikit nói và quay mặt về phía Krăckit, “mày định bán tao hay cho tao nằm lại đây chờ đến khi việc săn đuổi qua đi?”.

“Mày có thể ở lại đây nếu mày thấy nó yên ổn”, tên bị hỏi đáp sau một lát ngần ngại.

Xaikit chậm rãi đưa mắt nhìn bức tường sau hắn, tìm cách quay đầu hơn là thực sự quay đầu và nói, “cái... cái xác đã chôn chưa?”.

Chúng lắc đầu.

“Tại sao lại chưa?”. Hắn hỏi lại, rồi đưa mắt nhìn về phía sau. Chúng giữ những vật khủng khiếp như thế trên mặt đất làm gì? “Ai gõ cửa thế?”

Khi rời khỏi phòng, Krăckit ra hiệu cho biết không có gì phải sợ hãi, và ngay sau đó quay trở lại với Sácli Bâytit đi theo sau. Xaikit ngồi đối diện với cửa nên khi cậu bé bước vào phòng, cậu đã nhận ra ngay hắn.

“Anh Tôbi”, cậu bé nói và bước lùi lại khi Xaikit đưa mắt nhìn cậu, “tại sao anh không báo tôi trước điều này lúc còn ở dưới cầu thang”.

Có cái gì ghê gớm trong nỗi khiếp đảm của ba tên kia làm cho cái tên khốn nạn muốn lấy lòng ngay cả cậu bé mới đến này. Do đó, hắn gật đầu, làm ra vẻ như muốn bắt tay cậu. Cậu bé nói và bước lùi xa hơn nữa.

“Cho tôi vào phòng khách”.

“Sácli!”, Xaikit nói, rồi bước lên phía trước, “cậu... cậu không nhận ra tôi sao?”.

“Mày đừng đến gần tao”, cậu bé trả lời, vẫn bước lùi và mắt nhìn hốt hoảng vào mặt tên giết người. “Đồ quỷ sứ!”.

Xaikit dừng lại giữa chừng và hai tên nhìn nhau nhưng đôi mắt của Xaikit dần dần nhìn xuống đất.

“Ba anh làm chứng cho tôi”, cậu bé hoa tay kêu lên và nói mỗi lúc một hăng. “Ba anh làm chứng cho tôi... tôi không sợ hắn đâu... nếu họ đến đây bắt hắn thì tôi sẽ tố giác hắn. Đúng thế! Tao sẽ tố giác mày ngay lập tức. Hắn sẽ có thể giết tôi nếu hắn muốn, hay nếu hắn dám, nhưng nếu tôi ở đây thì tôi sẽ tố giác hắn. Tôi sẽ tố giác hắn dù tội hắn đáng phải cho vào vạc dầu. Tên giết người! Cứu tôi với! Nếu trong ba anh có người nào can đảm thì phải giúp tôi. Tên giết người! Cứu tôi với! Giết chết hắn đi!”.

Cậu bé vừa kêu vừa hung dữ khoa tay múa chân, cậu tay không bất ngờ lao mạnh vào tên Xaikit lực lưỡng đến nỗi hắn ngã lăn ra sàn. Ba tên kia rất sửng sốt. Chúng không can thiệp và Bâytit cùng với Xaikit đều lăn trên sàn, Bâytit không để ý đến những quả đấm dội lên người cậu như mưa, tay vẫn nắm chặt lấy quần áo của tên giết người, miệng không ngớt kêu cứu. Xaikit đã đè cậu xuống, lấy đầu gối chặn lên cổ họng. Bỗng Krăckit mặt hốt hoảng kéo Xaikit ra và chỉ về phía cửa sổ. Ở dưới thấy ánh lửa lập lòe, tiếng nói oang oang và tiếng nói chuyện sôi nổi, tiếng chân bước thình thịch vội vã - số người xem ra rất đông - đang vượt qua chiếc cầu gỗ gần nhất. Trong đám đông hình như có một người đi ngựa, vì có tiếng vó ngựa lóc cóc ở trên nền đường gồ ghề. Những ánh lửa càng tăng thêm, tiếng chân bước càng dồn dập hơn và lại càng ầm ĩ. Sau đó là tiếng gõ cửa và tiếng lao xao khản đặc toát ra từ một đám người tức giận, la ó, đông đúc và nhốn nháo đến nỗi có thể làm cho người táo bạo nhất cũng phải run sợ.

“Cứu tôi với!”. Cậu bé thét lên, giọng phá vỡ không trung. “Hắn đây rồi! Phá tung cửa đi!”.

“Nhân danh Đức Vua”, những tiếng thét và tiếng kêu khản đặc lại vang lên, nhưng mạnh mẽ hơn.

“Phá tung cửa đi!”. Cậu bé thét lên. “Tôi đã bảo chúng không bao giờ mở cửa đâu. Chạy thẳng đến phòng có ánh sáng. Phá cửa đi!”.

Tiếng thét của Bâytit vừa dứt thì những đòn nặng nề và dữ dội giáng vào cửa ra vào và những cửa sổ ở tầng dưới, và đám đông reo vang làm người mới thoạt nghe đã có một khái niệm thích hợp về số người vô cùng đông đảo.

“Mở cho tao một cái cửa phòng nào đó để tao khóa cái thằng tru tréo này lại”. Xaikit hung dữ hét lên, hắn chạy đi chạy lại và lúc này hắn lôi cậu bé dễ dàng như cậu ta là một cái bị trống rỗng. “Mở cho tao cái cửa này. Nhanh lên!”. Hắn ném Bâytit vào đấy, cài then và vặn khóa. “Cửa ở dưới đóng có chắc không?”.

“Khóa hai lần và có cài xích”, Krăckit đáp và cũng như hai tên kia, hắn tỏ ra hoàn toàn bất lực và bối rối.

“Ván cửa có chắc không?”.

“Lót sắt lá cả đấy!”.

“Cả cửa sổ nữa chứ?”.

“Ừ, cả cửa sổ nữa”.

“Mẹ kiếp chúng mày!”. Tên ăn trộm tuy vọng kêu lên, rồi kéo khung cửa lên và đe dọa đám đông. “Chúng mày làm gì thì làm! Chúng mày chưa tóm được ông đâu!”.

Trong số tất cả những tiếng kêu khủng khiếp mà lỗ tai con người nghe được, không có gì ghê gớm hơn tiếng kêu gào của một đám đông đang nổi giận. Một vài người quát bảo những người đứng gần nhất châm lửa vào ngôi nhà, những người khác gào lên bảo những sĩ quan bắn chết hắn đi. Trong tất cả những người này, không ai tỏ ra hung tợn bằng người cưỡi ngựa, anh ta nhảy khỏi yên, xông qua đám đông như rẽ qua làn nước, gào lên ở dưới cửa sổ giọng lớn hơn tất cả những người khác: “Thưởng hai mươi ghinê cho ai đem đến một cái thang!”.

Những tiếng nói gần nhất lặp lại tiếng kêu ấy và hàng trăm người kêu vọng lên. Người yêu cầu mang thang đến, người khác đòi mang búa, người thứ ba tay cầm đuốc chạy đi chạy lại như để tìm những vật người ta hỏi, rồi lại quay trở lại và gào lên. Đám người hết hơi chửi bới và mắng nhiếc vô ích, vài người xô lách lên hung dữ như những kẻ điên, do đó, cản trở không cho những người khác tiến lên. Một vài người trong số những người táo bạo nhất tìm cách leo lên theo máng nước, và những khe hở ở tường. Ai nấy lăng xăng đi đi lại lại trong bóng tối ở phía dưới, trông giống như một đồng lúa bị ngọn gió dữ dội xáo động, chốc chốc tiếng kêu hòa vào nhau tạo thành một tiếng gào thét hung dữ.

“Nước thủy triều!”. Tên giết người vừa kêu vừa loạng choạng bước lùi vào phòng và buông khung cửa sổ xuống. “Nước thủy triều lên khi tao bước vào. Cho tao một sợi dây thừng, một sợi thừng dài. Chúng nó đều ở trước mặt nhà. Tao có thể buông mình xuống hào và tháo bằng con đường ấy. Cho tao một sợi dây thừng không tao giết thêm ba thằng nữa rồi tự sát”.

Những tên kia sợ hết hồn liền chỉ nơi cất giữ những vật như vậy. Tên giết người vội vã chọn sợi dây thừng dài nhất và chắc nhất rồi leo lên nóc nhà. Những cánh cửa sổ ở phía sau nhà đều đã nhét gạch trát lại từ lâu trừ một cánh cửa sập nhỏ ở trong căn phòng đang giam cậu bé, nhưng cánh cửa ấy lại nhỏ quá nên chính cậu ta cũng không lách người ra được. Song từ cái chỗ hở này cậu vẫn không ngừng gọi những người ở ngoài phải giữ phía sau, thành ra khi tên giết người xuất hiện ở trên nóc nhà qua cửa trổ ở trên mái thì những tiếng kêu gào dữ dội báo cái tin ấy với những người ở phía trước và những người này lập tức bao quanh ngôi nhà, dồn nhau thành một dòng người cuồn cuộn.

Xaikit lấy tấm ván mang theo chặn chặt cửa lại nên khó có thể từ phía trong nhà đẩy cửa mở ra được, rồi bò trên mái ngói và nhìn qua bức tường thấp chắn mái.

Nước đã rút và cái hố còn lại là một vũng bùn.

Đám đông im lặng trong mấy giây phút, theo dõi những hành động của hắn và phán đoán, nhưng ngay lúc họ nhận ra điều đó và biết là mọi cố gắng của hắn đều vô ích, họ liền reo hò nguyền rủa vẻ đắc thắng làm cho tất cả những tiếng hò hét trước đây chỉ là những tiếng thầm thì. Rồi tiếng hò hét lại dội vang liên hồi. Những người ở cách một quãng khá xa không hiểu đầu đuôi ra sao, cũng hùa hò theo, tiếng hò hét vọng đi từ nơi này sang nơi khác, dường như cả thành phố đã dốc hết người ra để nguyền rủa hắn.

Những người ở phía trước xô đẩy nhau tiến lên, cứ tiến lên trong cái dòng người cuồn cuộn đầy những gương mặt giận dữ với đây đó một ngọn đuốc chói lòa làm người ta thấy họ tức giận và hung hăng như thế nào. Những ngôi nhà ở phía đối diện cái hố đã bị đám đông xông vào, những cánh cửa trước đã bị đẩy lên hoặc giật phắt đi, ở mọi cửa sổ lố nhố những bộ mặt, hết đám này đến đám khác bám lấy mỗi nóc nhà. Những chiếc cầu nhỏ (trước mặt có ba chiếc) lún xuống dưới sức nặng của đám đông. Nhưng dòng người vẫn cứ ùn ùn ùa tới, cố tìm một xó xỉnh hay một cái hốc, ở đó họ có thể mặc sức hò hét và nhìn thấy tên khốn nạn, dù chỉ trong một phút.

“Sắp tóm cổ được hắn rồi!”. Một người đàn ông ở trên cầu gần nhất thét lên. “Hoan hô!”.

Đám đông hoa mũ lên để đầu trần và tiếng reo hò lại vang lên.

“Tôi thưởng năm mươi bảng”, một cụ già cũng ở trên chiếc cầu này thét lên, “cho ai bắt sống được hắn. Tôi sẽ đứng ở đây đợi anh ta đến lấy tiền!”.

Lại có tiếng ồn ào nổi lên. Vào lúc này, ở trong đám đông có tin lan truyền là cánh cửa lớn cuối cùng đã bị phá và người đầu tiên gọi đem thang đến đã nhảy tuột vào phòng. Dòng người đột nhiên chuyển về hướng khác khi tin này truyền từ miệng này sang miệng khác; và những người ở cửa sổ khi nhìn thấy những người trên cầu dồn lùi lại, đều rời bỏ vị trí của mình và đổ ra đường, xen vào cái đám đông đang tràn ra lộn xộn đến nơi họ đã rời bỏ, người nào cũng vật lộn và chen lấn với người bên cạnh, và mọi người đều thở hổn hển, nóng ruột muốn tiến đến gần cánh cửa để nhìn tên tội phạm khi cảnh sát sẽ lôi hắn ra khỏi nhà. Tiếng kêu và tiếng thét của những người bị dồn ép gần nghẹt thở, hay bị giẫm đạp dưới chân trong cảnh nhốn nháo thực là khủng khiếp. Những con đường chật hẹp đều bị tắc nghẽn. Và lúc này, trong khi một vài người lao tới để chiếm chỗ đứng ở trước nhà và những người khác vật lộn bất lực để vung ra khỏi đám đông, người ta không chú ý đến tên giết người, mặc dầu sự háo hức của mọi người muốn bắt hắn vẫn tăng lên, nếu như có thể tăng lên.

Tên giết người thu mình lại, hoảng sợ hết hồn trước vẻ hung hăng của đám đông và tình trạng không thể nào trốn thoát được, nhưng nhanh chóng nhìn thấy sự thay đổi đột ngột này, liền chồm dậy, cố bám lấy khả năng thoát thân cuối cùng là buông mình xuống hào, dù bị chìm dưới bùn, rồi tìm cách nhân lúc tối tăm và nhốn nháo trốn ra ngoài.

Có thêm sức mạnh, nghị lực và kích động trước tiếng động ở trong nhà mà qua đó hắn biết rằng người ta đã xông được vào phía trong, hắn tì chân lên ống khói, lấy dây buộc chặt một đầu chung quanh nó, còn đầu kia dùng hai tay và răng thắt một cái thòng lọng chắc chắn, tất cả chỉ mất khoảng một giây. Hắn có thể đu theo dây, buông mình rơi xuống cách mặt đất một đoạn ngắn hơn chiều cao của thân hình hắn và tay cầm sẵn dao để cắt dây và nhảy xuống.

Ngay lúc hắn thò đầu vào cái dây thòng lọng trước khi luồn nó xuống dưới nách, và đúng vào lúc cụ già vừa nói đến (cụ bám chắc bao lơn trên cầu để khỏi bị đám đông xô đẩy và cố đứng nguyên ở chỗ của mình), lớn tiếng báo cho những người chung quanh rằng hắn sắp sửa buông mình xuống hào - ngay vào cái giây phút ấy, tên giết người ngoái cổ lại nhìn về phía sau ở trên mái, giơ hai tay lên đầu và thốt lên một tiếng rùng rợn.

“Lại cặp mắt ấy!” Hắn thét lên, giọng không còn ra tiếng người nữa.

Bước loạng choạng như bị sét đánh, hắn mất thăng bằng và ngã đè lên bức tường chắn mái. Dây thòng lọng vẫn nằm ở cổ hắn. Theo sức nặng của bản thân mình, hắn rơi thẳng tắp như một dây cung và nhanh như một mũi tên từ cây cung bắn ra. Hắn rơi xuống từ nơi cao năm mươi ba phút. Thân hình hắn đột nhiên giãy giụa, chân tay treo lơ lửng, bàn tay cứng đờ vẫn nắm chắc con dao sáng loáng.

Ống khói cũ kỹ bị giật, rung lên nhưng vẫn đứng vững một cách anh dũng. Tên giết người đu đưa cứng đờ áp sát vào tường, và cậu bé đẩy cái xác người lơ lửng ra một bên, vì nó che lấp không cho cậu nhìn thấy gì, rồi gọi mọi người vì lòng kính yêu Chúa đến gỡ mang hắn đi.

Con chó nãy giờ vẫn nằm ẩn nấp, chạy đi chạy lại trên bức tường chắn mái, kêu gào buồn bã, rồi thu mình lại để nhảy, nó nhảy lên vai con người chết. Nhưng nó nhằm sai đích và rơi xuống hào, trong khi rơi xuống, người nó quay tít đầu nó đập vào một tảng đá, óc phọt ra ngoài.