Bàn Cờ Lớn - Chương 02

Chương 2

BÀN CỜ Á-ÂU

Đối với nước Mỹ, giải thưởng địa chính trị chính yếu là lục địa Á- Âu. Trong suốt nửa thiên niên kỷ, các vấn đề thế giới chịu sự chi phối của những cường quốc ở lục địa này, các dân tộc đánh lẫn nhau để giành lấy thế thống trị khu vực và vươn tới quyền lực toàn cầu. Giờ đây, một cường quốc ngoài lục địa Á-Âu lại chiếm ưu thế ở ngay nơi này - và việc Mỹ giữ quyền “tông chủ” phụ thuộc trực tiếp vào thời gian và ưu thế mà nó duy trì ở đây.

Hiển nhiên, bối cảnh đó chỉ có tính tạm thời. Nhưng nó kéo dài trong bao lâu và những gì diễn ra tiếp sau đó lại có tầm quan trọng không chỉ riêng đối với sự thịnh vượng của nước Mỹ mà còn đối với nền hòa bình quốc tế nói chung. Sự xuất hiện đột ngột của cường quốc toàn cầu đầu tiên và duy nhất đã tạo ra một tình thế, đó là nếu như quyền lực tối cao của Mỹ kết thúc chóng vánh không kém khi nó xuất hiện - hoặc vì Mỹ rút khỏi thế giới hoặc vì sự trỗi dậy đột ngột của một đối thủ ngang tầm - thì sẽ gây nên bất ổn khổng lồ trên bình diện thế giới. Thực tế là, việc này rồi sẽ dẫn đến tình trạng hỗn loạn toàn cầu. Samuel P. Huntington, giảng viên khoa chính trị ở Đại học Harvard, đã đúng khi khẳng quyết:

Thế giới không có sự dẫn dắt của Hoa Kỳ là một thế giới có nhiều bạo lực và rối loạn hơn, đồng thời ít dân chủ và kém tăng trưởng kinh tế hơn cái thế giới mà Hoa Kỳ không ngừng gây ảnh hưởng lớn hơn so với bất kỳ quốc gia nào trong việc định hình các vấn đề toàn cầu. Tính ưu việt mà Hoa Kỳ duy trì được trên trường quốc tế chính là điều quan trọng nhất đối với phúc lợi và an ninh của người Mỹ và tương lai của tự do, dân chủ, những nền kinh tế mở và trật tự quốc tế toàn cầu.1

Trong bối cảnh đó, cách thức Mỹ xử lý những sự vụ ở lục địa Á-Âu là rất quan trọng. Đây là lục địa lớn nhất đồng thời là trục địa chính trị. Một thế lực thống trị lục địa Á-Âu sẽ kiểm soát hai trong số ba khu vực tiên tiến nhất và có năng suất kinh tế cao nhất thế giới. Nhìn lướt qua bản đồ, ta dễ dàng thấy rằng việc kiểm soát lục địa Á-Âu gần như sẽ tự động kéo theo sau đó sự phụ thuộc của châu Phi, đưa vùng ngoại biên địa chính trị thuộc Tây Bán cầu và châu Đại Dương nhập vào lục địa trung tâm thế giới (xem bản đồ ở trang 64). Khoảng 75% cư dân thế giới sống ở lục địa Á-Âu và hầu hết tài sản cùng tài nguyên của thế giới cũng nằm ở đó, cả ở các doanh nghiệp và tài nguyên bên dưới lòng đất. Lục địa Á-Âu chiếm khoảng 60% GNP thế giới và khoảng ba phần tư tài nguyên năng lượng mà thế giới biết đến (xem bảng ở trang 65).

Lục địa Á-Âu cũng là nơi có hầu hết các quốc gia năng động và quyết đoán về mặt chính trị của thế giới. Sau Hoa Kỳ, sáu nền kinh tế lớn nhất và sáu nhà chi tiêu lớn nhất cho vũ khí quân sự đều nằm ở lục địa Á-Âu. Ở đó chỉ có hai cường quốc hạt nhân, một công khai và một bí mật. Hai quốc gia đông dân nhất khao khát bá chủ khu vực và gây ảnh hưởng đến toàn cầu đều thuộc lục địa này. Những mối thách thức tiềm tàng về chính trị và/hoặc kinh tế đối với sự dẫn đầu của Mỹ vẫn thuộc về các nước ở lục địa Á-Âu. Nếu để tích tụ lâu ngày, sức mạnh của lục địa Á-Âu sẽ làm lu mờ cả nước Mỹ. May mắn thay cho nước Mỹ, lục địa này quá rộng lớn nên khó lòng trở thành một khối thống nhất về mặt chính trị.

Do đó, Á-Âu trở thành bàn cờ cho cuộc đấu tranh giành thế dẫn đầu khắp toàn cầu tiếp tục diễn ra. Mặc dù về mặt địa chiến lược - tức việc sắp xếp chiến lược về lợi ích địa chính trị - có thể được xem như môn cờ vua, nhưng bàn cờ lục địa Á-Âu lại có dạng như hình bầu dục với sự tham gia của không chỉ hai mà là nhiều đấu thủ, mỗi người sở hữu sức mạnh khác nhau. Những đấu thủ chủ chốt nằm ở phía tây, phía đông, trung tâm và phía nam bàn cờ. Cực tây và cực đông của bàn cờ đều là những khu vực đông dân cư, phân bố trong phạm vi không gian khá chật, tổ chức thành một số quốc gia hùng mạnh. Trong khi đó, khu vực ngoại vi nhỏ bé nằm ở phía tây lục địa Á-Âu là nơi triển khai trực tiếp sức mạnh của Mỹ. Vùng nội địa về phía đông là vị trí của một đấu thủ ngày càng mạnh mẽ và độc lập hơn, kiểm soát một số dân lớn trong khi lãnh thổ của các đối thủ năng động xung quanh rải rác trên những hòn đảo gần đó, cùng một nửa bán đảo nhỏ ở vùng Viễn Đông cung cấp chỗ “cắm chốt” cho sức mạnh của Mỹ.

Trải dài giữa hai cực tây và đông là một không gian trung gian rộng lớn phân mảnh về mặt tổ chức và biến động về mặt chính trị, trước đây từng bị một đối thủ thách thức vị thế ưu việt của Hoa Kỳ thống trị, một đối thủ từng có mục tiêu đẩy Mỹ ra khỏi lục địa Á-Âu. Phía nam của vùng cao nguyên rộng lớn nằm ở trung tâm lục địa Á-Âu là một khu vực hỗn loạn về mặt chính trị nhưng giàu tài nguyên năng lượng, có tầm quan trọng lớn đối với các quốc gia ở phía tây lẫn phía đông của lục địa, bao gồm một đất nước đông dân cũng đang khao khát quyền bá chủ khu vực.

Các lục địa: diện tích.

Các lục địa: dân số

Các lục địa: GNP

Bàn cờ lục địa Á-Âu rộng lớn có hình thù kỳ lạ này - trải dài từ Lisbon (Bồ Đào Nha) đến Vladivostok (Nga) - đã thiết dựng cho chúng ta phần nền của trò chơi. Nếu không gian trung tâm ngày càng được kéo vào quỹ đạo mở rộng của phương Tây (nơi Mỹ có ưu thế), nếu khu vực phía nam không bị lệ thuộc vào một đấu thủ duy nhất, và nếu phương Đông không thống nhất sao cho có thể tống khứ nước Mỹ khỏi những căn cứ ngoài khơi của họ, thì nước Mỹ chiếm ưu thế. Nhưng nếu vùng trung gian cự tuyệt phương Tây, trở thành một thực thể duy nhất quyết đoán và giành quyền kiểm soát miền Nam hoặc hình thành liên minh với tay chơi chính ở phương Đông, thì tầm bá chủ của Mỹ ở lục địa Á-Âu sẽ bị thu hẹp đáng kể. Điều tương tự cũng sẽ xảy ra nếu hai đấu thủ lớn ở phương Đông bằng cách nào đó lại liên hợp với nhau. Cuối cùng, việc bất kỳ đối tác phương Tây nào khước từ cho nước Mỹ “cắm chốt” ở vùng ngoại vi phía tây sẽ xem như đã tự động chấm dứt trò chơi của Mỹ trên bàn cờ lục địa Á-Âu, mặc dù điều đó rốt cuộc cũng đồng nghĩa với sự phụ thuộc của cực tây vào đấu thủ vừa hồi sinh đang chiếm lấy vùng trung gian.

Dù phải thừa nhận rằng phạm vi quyền bá chủ của Mỹ trên trường quốc tế là rất lớn, nhưng nền tảng của nó còn chưa bền vững, còn chịu những câu thúc từ trong nước lẫn ngoài nước. Bá quyền của Mỹ liên quan đến việc gây ảnh hưởng quyết định, nhưng khác với các đế chế trong quá khứ ở chỗ nó không kiểm soát trực tiếp. Chính quy mô và sự đa dạng của lục địa Á-Âu cũng như sức mạnh của một số quốc gia đã hạn chế sâu xa Mỹ trong việc gây ảnh hưởng và phạm vi kiểm soát tiến trình các sự kiện. Siêu đại lục này quá lớn, quá đông dân, quá đa dạng về văn hóa, lại gồm chứa quá nhiều nhà nước năng nổ về mặt chính trị và có tham vọng “làm nên lịch sử”, do vậy họ khó lòng tuân phục ngay cả một siêu cường ưu việt vượt trội hơn họ về chính trị và kinh tế trên bình diện toàn cầu. Tình huống này đặt ra mối ưu tiên: phải làm sao cho khéo léo về địa chiến lược, triển khai sao cho cẩn thận, có chọn lọc và cân nhắc các nguồn lực của nước Mỹ trên bàn cờ Á-Âu rộng lớn.

Cũng phải công nhận là nước Mỹ quá dân chủ trong nội bộ nhưng lại độc đoán ở ngoài nước. Nó hạn chế Mỹ sử dụng sức mạnh của mình, đặc biệt là khả năng dùng quân sự răn đe. Từ trước đến nay, chưa bao giờ có nền dân chủ dân túy nào đạt được vị trí đứng đầu ở tầm quốc tế. Nhưng việc theo đuổi quyền lực không phải là một mục tiêu chi phối khát vọng phổ quát, ngoại trừ những khi xuất hiện mối đe dọa hoặc thách thức bất ngờ đối với sự yên bình chung trong nước Mỹ. Việc phải hạn chế về mặt kinh tế (nghĩa là phải ưu tiên cho chi tiêu quốc phòng) và hy sinh nhân mạng (con số thương vong ngay cả đối với những người lính chuyên nghiệp) không thích hợp với những bản năng dân chủ. Dân chủ không thân thiện gì với sự huy động của đế quốc.

Hơn nữa, hầu hết người Mỹ nói chung không có niềm thích thú gì đặc biệt đối với việc đất nước mình là một siêu cường toàn cầu duy nhất. Việc “ngợi ca vinh quang” chính trị gắn kết với chiến thắng của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh nói chung được người dân Mỹ tiếp nhận theo hướng lạnh nhạt, thậm chí còn trở thành đối tượng nhạo báng của một số nhà phê phán có tư tưởng tự do hơn. Nếu có đi chăng nữa, thì có hai quan điểm tuy hơi khác nhau về ý nghĩa của việc nước Mỹ thu được thành công lịch sử của nó trong cuộc cạnh tranh với Liên Xô cũ, chúng có vẻ hấp dẫn hơn về mặt chính trị: một quan điểm cho rằng việc kết thúc Chiến tranh Lạnh làm giảm đáng kể sự tham gia của Mỹ trên toàn cầu, bất kể hậu quả đối với vị thế toàn cầu của Mỹ; cái còn lại cho rằng đã đến lúc có đa phương quốc tế thực sự, theo đó nước Mỹ thậm chí sẽ đạt được một số chủ quyền. Cả hai trường phái trên đều lôi kéo rất tốt lòng trung thành của cử tri.

Cùng với những vấn đề nan giải mà nhà cầm quyền Mỹ phải đối mặt còn có những thay đổi đặc điểm của chính tình hình toàn cầu: việc sử dụng sức mạnh trực tiếp hiện có xu hướng bị hạn chế nhiều hơn so với trước đây. Vũ khí hạt nhân đã làm giảm đáng kể tính tiện ích của chiến tranh ở vai trò một công cụ chính sách hay thậm chí là công cụ răn đe. Sự phụ thuộc kinh tế liên quốc gia khiến những biện pháp đe dọa kinh tế nhằm thao túng chính trị trở nên kém hấp dẫn. Do đó, vận động hành lang, chính sách ngoại giao, xây dựng liên minh, kết nạp thành viên và sử dụng những tài sản chính trị một cách chủ đích đã trở thành những nhân tố chính để thi triển thành công sức mạnh địa chiến lược trên bàn cờ Á-Âu.

ĐỊA CHÍNH TRỊ VÀ ĐỊA CHIẾN LƯỢC

Việc thực thi vị thế dẫn đầu toàn cầu của Mỹ phải tinh nhạy trước thực tế rằng địa chính trị vẫn là một cân nhắc quan trọng trong các vấn đề quốc tế. Napoleon từng nói rằng, để biết địa lý một quốc gia là phải biết chính sách đối ngoại của nó. Tuy nhiên, sự hiểu biết của chúng ta về tầm quan trọng của địa chính trị phải thích ứng với những thực thể quyền lực mới.

Trong hầu hết lịch sử bang giao quốc tế, việc kiểm soát lãnh thổ là trọng tâm của xung đột chính trị. Lòng tự mãn quốc gia đối với việc giành được lãnh thổ rộng lớn hơn hoặc ý thức khi mất mát vùng đất “thiêng liêng” đã là nguyên nhân của hầu hết cuộc chiến đẫm máu kể từ khi chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy. Quả không ngoa chút nào khi cho rằng nhu cầu lãnh thổ là động lực chính thúc đẩy hành vi gây hấn của các quốc gia-dân tộc (nation-state). Những đế chế cũng hình thành thông qua việc chiếm dụng và duy trì các tài sản địa lý quan trọng, chẳng hạn như Gibraltar, kênh đào Suez hay Singapore đều đóng vai trò vị trí án ngữ chính yếu hay điểm chốt trong hệ thống kiểm soát của đế quốc.

Biểu hiện cực đoan nhất của mối liên kết giữa chủ nghĩa dân tộc và sự chiếm hữu lãnh thổ là trường hợp Đức Quốc xã và Nhật Bản. Nỗ lực xây dựng “Đế chế ngàn năm” đã đi quá xa mục tiêu thống nhất tất cả các dân tộc nói tiếng Đức dưới một mái nhà chính trị đồng thời tập trung vào mong muốn kiểm soát các vựa lúa của Ukraine cũng như các vùng đất khác của dân Slav, để có lao động nô lệ giá rẻ cho lãnh thổ đế quốc. Người Nhật cũng bị ám ảnh tương tự, cho rằng trực tiếp chiếm hữu Mãn Châu, sau đó là vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan - nguồn cung cấp dầu quan trọng - là cần thiết để hoàn thành sứ mệnh Nhật Bản, là khẳng định sức mạnh quốc gia và vị thế toàn cầu của họ. Tương tự, trong nhiều thế kỷ, định nghĩa về sự vĩ đại của nước Nga được đánh đồng với việc giành lại lãnh thổ, thậm chí vào cuối thế kỷ 20 người Nga vẫn khăng khăng giữ quyền kiểm soát những nhóm sắc tộc không phải người Nga như người Chechen sinh sống quanh một đường ống dẫn dầu quan trọng, chứng minh bằng tuyên bố việc kiểm soát này là cần thiết cho vị trí siêu cường của nước Nga.

Các quốc gia-dân tộc tiếp tục là những đơn vị cơ bản trong hệ thống thế giới. Mặc dù sự suy thoái của chủ nghĩa dân tộc ở các nước lớn và sự mờ nhạt dần của ý thức hệ đã làm giảm thiểu phần cảm xúc trong đời sống chính trị toàn cầu - trong khi vũ khí hạt nhân tạo ra những gọng kìm quan trọng lên việc sử dụng vũ lực - thì vấn đề tranh chấp lãnh thổ vẫn thống trị nền bang giao thế giới, dù hình thức hiện nay có xu hướng dân sự hơn. Trong cuộc cạnh tranh đó, vị trí địa lý vẫn là điểm khởi đầu cho định nghĩa về các ưu tiên bên ngoài của quốc gia, và quy mô của lãnh thổ quốc gia cũng vẫn là một trong những tiêu chí chính về vị thế và sức mạnh của một cường quốc.

Tuy nhiên, đối với hầu hết các quốc gia-dân tộc, vấn đề chiếm hữu lãnh thổ gần đây đã trở nên nổi bật, đến mức tranh chấp lãnh thổ là đề tài quan trọng trong việc định hình chính sách đối ngoại của một số quốc gia. Trên thực tế, đây không hoàn toàn là vấn đề tìm cách nâng cao vị thế quốc gia thông qua mở rộng lãnh thổ, mà phần nào giống như chuyện một người thấy bức bối với việc từ chối trao quyền tự quyết cho người anh em dân tộc được cho là đã bị tước quyền nhập vào “đất mẹ”, hoặc thấy bất bình khi bị một hàng xóm thuộc nhóm sắc dân thiểu số cáo buộc ngược đãi.

Càng ngày, giới tinh hoa lãnh đạo quốc gia càng nhận ra rằng một số yếu tố khác có ý nghĩa quyết định hơn yếu tố lãnh thổ trong việc xác định vị thế hoặc mức độ ảnh hưởng của một quốc gia trên trường quốc tế. Năng lực kinh tế và chuyển đổi công nghệ cũng có thể là một tiêu chí quan trọng cho quyền lực. Nhật Bản là một minh chứng hùng hồn cho điều này. Tuy nhiên, vị trí địa lý vẫn là xu thế quyết định các ưu tiên trước mắt của một nhà nước - sức mạnh quân sự, kinh tế và chính trị càng lớn thì phạm vi ảnh hưởng, lợi ích và liên quan về mặt địa chính trị của nhà nước đó càng lớn, vượt ra khỏi các nước láng giềng trực tiếp.

Cho đến gần đây, các nhà phân tích địa chính trị hàng đầu vẫn tranh luận xem sức mạnh trên đất liền liệu có quan trọng hơn sức mạnh trên đại dương hay không, và khu vực cụ thể nào của lục địa Á-Âu là quan trọng nhất trong việc giành quyền kiểm soát toàn bộ lục địa. Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất, Halford Mackinder2, vào đầu thế kỷ 20 là người đầu tiên đưa ra cuộc thảo luận cùng các khái niệm ông kế thừa được về “khu vực trục (pivot area) của lục địa Á-Âu” (bao gồm cả Siberia và một phần lớn vùng Trung Á) và “vùng đất trung tâm (heartland)” Trung-Đông Âu, một bàn đạp quan trọng để thâu tóm quyền thống trị lục địa. Ông đã phổ biến khái niệm vùng đất trung tâm của mình bằng một tuyên bố nổi tiếng:

Ai thống trị Đông Âu sẽ chế ngự vùng trung tâm;

Ai thống trị vùng trung tâm sẽ chế ngự Hòn đảo Thế giới (bao gồm châu Âu, châu Á và châu Phi);

Ai thống trị Hòn đảo Thế giới sẽ chế ngự toàn thế giới.

Địa chính trị cũng được một số nhà địa chính trị hàng đầu của Đức viện dẫn để biện minh cho “chính sách hướng Đông” (Drang nach Osten) của nước này, đáng chú ý là Karl Haushofer3 đã điều chỉnh khái niệm của Mackinder cho phù hợp với những nhu cầu chiến lược bấy giờ. Âm vang quá đỗi thông tục của nó cũng vọng lại từ những bài diễn văn của Adolf Hitler, thể hiện mong muốn về một “không gian sinh tồn” (Lebensraum) nơi người Đức. Các nhà tư tưởng khác ở châu Âu nửa đầu thế kỷ 20 cũng lường trước sự dịch chuyển trọng tâm địa chính trị về phía đông, sang khu vực Thái Bình Dương - đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản - vốn có khả năng trở thành những nước kế thừa sự thống trị mờ nhạt của châu Âu. Để ngăn ngừa sớm một chuyển đổi như thế, nhà địa chính trị người Pháp Paul Demangeon, cũng như các nhà địa chính trị khác của Pháp, đã ủng hộ sự thống nhất hơn giữa các quốc gia châu Âu ngay cả trước Thế chiến thứ hai.

Ngày nay, vấn đề địa chính trị không còn xoay quanh câu chuyện phải có dính dáng về địa lý tại lục địa Á-Âu thì mới có được tư cách chi phối lục địa, cũng không còn là chuyện sức mạnh trên đất liền liệu có quan trọng hơn so với sức mạnh trên đại dương hay không. Địa chính trị đã chuyển từ quy mô khu vực sang toàn cầu, với ưu thế trên toàn bộ lục địa Á-Âu đóng vai trò cơ sở trung tâm để trở thành bá chủ toàn cầu. Hoa Kỳ, một cường quốc nằm ngoài lục địa Á-Âu, hiện có sự ưu việt ở quy mô toàn cầu, với sức mạnh được triển khai trực tiếp trên ba vùng ngoại vi của lục địa Á-Âu, từ đó nó tạo ảnh hưởng mạnh mẽ lên các quốc gia chiếm giữ vùng nội địa của lục địa này. Nhưng ngay tại sân chơi toàn cầu quan trọng nhất, đối thủ tiềm năng của Mỹ có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Do đó, tập trung vào những đấu thủ chính và đánh giá đúng địa thế phải là điểm khởi đầu để Mỹ xây dựng địa chiến lược, sao cho có thể quản lý lâu dài các lợi ích địa chính trị của Mỹ trên lục địa này.

Do đó, cần tiến hành hai bước cơ bản:

Trước tiên, xác định các quốc gia năng động ở lục địa Á-Âu về mặt địa chiến lược có khả năng gây ra sự thay đổi quan trọng trong phân phối quyền lực quốc tế và giải mã các mục tiêu bên ngoài trung tâm của giới tinh hoa chính trị ở từng nước, hậu quả có thể xảy ra khi họ muốn đạt được chúng; cũng phải xác định các quốc gia quan trọng ở lục địa này về địa chính trị có vị trí và/hoặc sự tồn tại của họ có ảnh hưởng xúc tác đối với các đấu thủ địa chiến lược tích cực hoặc trên các vấn đề khu vực hay không;

Thứ hai, xây dựng các chính sách cụ thể để Hoa Kỳ có thể bù đắp, kết nạp và/hoặc kiểm soát các nước trên, duy trì và thúc đẩy các lợi ích thiết thân của Hoa Kỳ, đồng thời hình thành một địa chiến lược toàn diện hơn, thiết lập trên quy mô toàn cầu kết nối với các chính sách cụ thể hơn của Hoa Kỳ.

Tóm lại, vấn đề địa chiến lược của Hoa Kỳ ở lục địa Á-Âu liên quan đến việc ứng xử khôn khéo với các quốc gia năng động về mặt địa chiến lược và các quốc gia có xúc tác về mặt địa chính trị, phù hợp với lợi ích song trùng của Mỹ trong việc duy trì ngắn hạn quyền lực toàn cầu duy nhất của Mỹ, đồng thời với đó là quá trình chuyển đổi dài hạn của nước này nhằm tiến đến thiết chế hóa sự hợp tác toàn cầu. Để đặt nó trong một thuật ngữ giúp gợi lên thời kỳ còn tàn bạo hơn của các đế chế cổ xưa, ba mệnh lệnh lớn của địa chiến lược đế quốc là: ngăn chặn sự cấu kết và duy trì phụ thuộc của các chư hầu thân cận về mặt an ninh; bảo vệ và uốn nắn những chư hầu ở xa; và ngăn chặn các nhóm thấp kém hơn liên kết với nhau.

ĐẤU THỦ ĐỊA CHIẾN LƯỢC VÀ TRUNG TÂM ĐỊA CHÍNH TRỊ

Tích cực tham gia trò chơi địa chiến lược là những nước có năng lực và ý chí dân tộc để thực thi quyền lực hay thi triển ảnh hưởng vượt ra ngoài biên giới nước mình nhằm thay đổi hiện trạng địa chính trị, đến mức có thể làm ảnh hưởng lợi ích nước Mỹ. Họ có tiềm năng và/hoặc khuynh hướng dễ thay đổi về mặt địa chính trị. Vì bất kỳ lý do nào - kiếm tìm sự vĩ đại của quốc gia, thành toàn ý thức hệ, đức tin cứu chuộc hay tăng trưởng kinh tế - một số quốc gia muốn tìm cách giành được sự thống trị khu vực hay vị thế toàn cầu. Họ chịu sự thúc đẩy của những động lực sâu xa và phức tạp, tất cả được diễn giải tường minh nhất qua câu nói của Robert Browning: “… Tầm với của một người phải vượt quá tầm của anh ta, nếu không thì thiên đàng để làm gì?” Vì thế, họ đánh giá cẩn thận sức mạnh của Mỹ, quyết định xem lợi ích của mình có chồng chéo hoặc xung đột với Mỹ hay không, để định hình những mục tiêu riêng tư giới hạn của mình ở lục địa Á-Âu, có khi thông đồng nhưng cũng có khi đối kháng với các chính sách của Mỹ. Đối với các quốc gia Á-Âu được những động lực như thế thúc đẩy, Hoa Kỳ phải đặc biệt chú ý.

Các trung tâm địa chính trị là những nhà nước có tầm quan trọng không phải xuất phát từ sức mạnh và động lực mà là từ vị trí nhạy cảm của họ và từ hậu quả của tiềm năng có thể xảy ra đối với hành vi của những đấu thủ địa chiến lược. Thông thường, các trung tâm này được xác định theo địa lý, trong một số trường hợp, đó là do họ có vai trò đặc biệt trong việc xác định các khu vực quan trọng hoặc đang trong thế từ chối tài nguyên cho một đấu thủ quan trọng. Trong một số trường hợp, một trung tâm địa chính trị có thể hoạt động như một lá chắn phòng thủ cho một quốc gia quan trọng hoặc thậm chí là một khu vực. Đôi khi, sự xuất hiện của một trung tâm địa chính trị có thể xem như có những hậu quả chính trị và văn hóa rất quan trọng đối với một đấu thủ địa chiến lược tích cực hơn ở lân cận. Do đó, việc xác định các trung tâm địa chính trị Á-Âu thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh và bảo vệ chúng cũng là một khía cạnh quan trọng đối với địa chiến lược toàn cầu của Mỹ.

Ngay từ đầu, cũng cần lưu ý rằng mặc dù mọi đấu thủ địa chiến lược có xu hướng trở thành những nước quan trọng và có sức mạnh, nhưng không phải nước nào quan trọng và có sức mạnh cũng trở thành đấu thủ địa chiến lược. Do đó, trong khi việc xác định đấu thủ địa chiến lược tương đối dễ dàng, thì việc loại ra ngoài danh sách một số nước quan trọng dưới đây có thể đòi hỏi phải làm rõ.

Trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, có ít nhất năm đấu thủ địa chính trị chủ chốt và năm trung tâm địa chính trị (với hai trong số những nước ở nhóm sau phần nào hội đủ điều kiện tham gia cuộc chơi) có thể được xác định trên bản đồ chính trị mới của lục địa Á-Âu. Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc và Ấn Độ là những đấu thủ chính và tích cực, trong khi Vương quốc Anh, Nhật Bản và Indonesia, được thừa nhận là những quốc gia rất quan trọng, lại không đủ điều kiện. Ukraine, Azerbaijan, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran đóng vai trò là những trung tâm địa chính trị quan trọng, mặc dù ở một mức độ nào đó, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran - trong phạm vi khả năng có giới hạn - cũng năng động về mặt địa chiến lược. Mỗi nước sẽ được đề cập thêm ở các chương sau.

Ở giai đoạn này, đã đủ để nói rằng ở cực tây lục địa Á-Âu, những đấu thủ địa chiến lược quan trọng và năng động là Pháp và Đức. Cả hai đều chịu thúc đẩy từ tầm nhìn về một châu Âu thống nhất. Mặc dù có sự nhàm chán khác nhau về mức độ và cách thức mà một châu Âu nên liên kết với Mỹ, nhưng cả hai đều muốn tạo ra một điều gì đó mới mẻ đầy tham vọng ở châu Âu, theo đó làm thay đổi hiện trạng. Đặc biệt, Pháp có khái niệm địa chiến lược riêng của mình, khác Hoa Kỳ ở một số khía cạnh và có xu hướng tham gia những vận động mang tính chiến thuật với ý đồ xúi giục Nga chống lại Mỹ, Anh chống lại Đức để hưởng lợi, ngay cả khi họ đang dựa vào liên minh Pháp-Đức để bù đắp điểm yếu của bản thân.

Hơn nữa, cả Pháp và Đức đều đủ mạnh và quyết đoán để thi triển ảnh hưởng trong một phạm vi khu vực rộng lớn hơn. Pháp không chỉ tìm kiếm một vai trò chính trị trung tâm trong một châu Âu thống nhất mà còn xem mình là hạt nhân của một nhóm các quốc gia Bắc Phi vùng Địa Trung Hải cùng chung lợi ích. Đức ngày càng ý thức được vị thế đặc biệt của mình ở tư cách một quốc gia quan trọng nhất châu Âu, là đầu tàu kinh tế trong khu vực và là nước lãnh đạo mới nổi của Liên minh châu Âu (EU). Đức cảm thấy họ có trách nhiệm đặc biệt với vùng Trung Âu mới được giải phóng, theo kiểu gợi nhớ các quan niệm mơ hồ trước đó về vùng Trung Âu (Mitteleuropa4) do Đức lãnh đạo. Ngoài ra, cả Pháp và Đức đều xem họ có quyền đại diện cho lợi ích của châu Âu trong các thỏa thuận với Nga, và thậm chí do vị trí địa dư của mình, ít nhất cũng về mặt lý thuyết, Đức vẫn nuôi ý tưởng về thỏa thuận song phương đặc biệt với Nga.

Ngược lại, Vương quốc Anh không phải là một đấu thủ địa chiến lược. Nước này ít có lựa chọn hơn, không có tầm nhìn đầy tham vọng về tương lai của châu Âu, và sự suy tàn tương đối cũng góp phần làm giảm khả năng nó giữ vai trò truyền thống là nước đối trọng với châu Âu. Tính mâu thuẫn đối với sự thống nhất châu Âu và mức độ kết nối trong mối quan hệ đặc biệt đang dần mờ nhạt với Mỹ đã khiến Vương quốc Anh ngày càng thờ ơ, đến mức các lựa chọn chính để giải quyết tương lai châu Âu đều gây quan ngại. London hầu như đã chia tay với cuộc chơi trên bàn cờ châu Âu.

Sir Roy Denman, cựu quan chức cao cấp của Anh trong Ủy ban châu Âu, ghi lại trong hồi ký của mình là ngay từ hội nghị năm 1955 tại Messina (Ý), chuẩn bị cho việc thành lập Liên minh châu Âu, người phát ngôn chính thức của Anh đã thẳng thắn khẳng định với các kiến trúc sư tương lai của châu Âu rằng:

Hiệp ước trong tương lai mà các bạn đang thảo luận không có khả năng được thông qua; nếu nó được thông qua cũng sẽ không có cơ hội thực thi. Và nếu được thực thi thì nước Anh cũng hoàn toàn không chấp thuận… Au revoir et bonne chance [chào tạm biệt và chúc may mắn]…5

Hơn bốn mươi năm sau, lời tuyên bố trên vẫn là định nghĩa chính yếu cho thái độ cơ bản của người Anh đối với việc xây dựng một châu Âu thực sự thống nhất. Việc nước Anh miễn cưỡng tham gia Liên minh Kinh tế và Tiền tệ (EMU - Economic and Monetary Union), nhắm mục tiêu hoàn thiện vào tháng 1 năm 1999, cho thấy nước này không muốn gắn kết vận mệnh của nó với châu Âu. Bản chất của thái độ đó được tóm tắt vào đầu những năm 1990 như sau:

Anh bác bỏ mục tiêu thống nhất chính trị.

Anh ủng hộ mô hình hội nhập kinh tế dựa trên tự do thương mại.

Anh ưu tiên chính sách đối ngoại, an ninh và quốc phòng ngoài khuôn khổ Cộng đồng châu Âu (EC - European Community).

Anh hiếm khi tối đa hóa ảnh hưởng của mình lên Cộng đồng châu Âu.6

Chắc chắn là Vương quốc Anh vẫn còn quan trọng đối với Mỹ. Ở một mức độ nào đó, nó vẫn tiếp tục có ảnh hưởng toàn cầu thông qua Khối Thịnh vượng chung, nhưng không còn là một quyền lực lớn như trước đây và cũng không được thúc đẩy bởi một tầm nhìn đầy tham vọng. Nước này vẫn là nước hỗ trợ quan trọng của Mỹ, một đồng minh rất trung thành, một căn cứ quân sự cần thiết và là đối tác thân thiết trong các hoạt động tình báo quan trọng. Tình bạn với nước Anh cần được nuôi dưỡng, nhưng chính sách của nước này lại làm chúng ta phải quan tâm lâu bền. Nó là một đấu thủ địa chiến lược mệt mỏi, nghỉ ngơi trên vòng nguyệt quế lộng lẫy của mình, và hầu như tách rời khỏi cuộc phiêu lưu vĩ đại của châu Âu, trong đó Pháp và Đức mới là những diễn viên chính.

Các quốc gia châu Âu có quy mô trung bình khác, mà hầu hết là các thành viên của NATO7 và/hoặc Liên minh châu Âu, hoặc theo Mỹ, hoặc lặng lẽ xếp sau Đức hoặc Pháp. Các chính sách của họ không có tác động gì nhiều đến khu vực và họ cũng không ở vị trí có thể thay đổi địa vị cơ bản của mình, ở giai đoạn này, họ không phải là những đấu thủ địa chiến lược, cũng không phải trung tâm địa chính trị. Điều này cũng đúng với Ba Lan, thành viên Trung Âu tiềm năng quan trọng nhất của NATO và EU8. Ba Lan quá yếu để trở thành một đấu thủ địa chiến lược và họ chỉ có một lựa chọn duy nhất: hội nhập vào phương Tây. Ngoài ra, sự biến mất của Đế quốc Nga cũ và mối quan hệ ngày càng sâu đậm giữa Ba Lan với liên minh Đại Tây Dương và một châu Âu mới ngày càng mang lại cho Ba Lan nền an ninh chưa từng có trong lịch sử nước này, do vậy làm hạn chế khả năng nước này chọn theo các phương án chiến lược khác.

Nga, hầu như không cần phải nói, vẫn là một đấu thủ địa chiến lược lớn, bất chấp tình trạng suy yếu có lẽ còn bất ổn lâu dài của đất nước này. Chính sự hiện diện của Nga tác động ồ ạt đến các quốc gia mới độc lập trong không gian Á-Âu rộng lớn của Liên Xô cũ. Nga vẫn ấp ủ các mục tiêu địa chính trị đầy tham vọng mà thế giới ngày càng thấy rõ hơn. Một khi đã phục hồi sức mạnh, Nga cũng sẽ chi phối đáng kể đến các nước láng giềng phía tây và phía đông. Ngoài ra, Nga vẫn phải đưa ra lựa chọn địa chiến lược cơ bản liên quan đến mối quan hệ với Mỹ: là bạn hay thù? Có thể cảm thấy rằng Nga cũng có các lựa chọn tương tự như thế trên lục địa Á-Âu, phần lớn tùy thuộc vào đường lối chính trị nội bộ của nó, và đặc biệt là việc Nga trở thành một nước dân chủ châu Âu hay một lần nữa là đế chế ở tầm Á-Âu. Trong bất kỳ trường hợp nào, nước này rõ ràng vẫn là một đấu thủ, mặc dù đã bị mất một số quân cờ cũng như một phần không gian quan trọng trên bàn cờ Á-Âu.

Tương tự, và hầu như không cần phải bàn, Trung Quốc nghiễm nhiên là một đấu thủ chính. Trung Quốc đã là một cường quốc khu vực quan trọng và có khả năng đạt được những khát vọng rộng lớn hơn, xét trên lịch sử một cường quốc, một trung tâm toàn cầu của nó. Các lựa chọn mà Trung Quốc đưa ra đã bắt đầu ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực địa chính trị ở châu Á, trong khi động lực kinh tế của nước này chắc chắn sẽ mang lại sức mạnh vật chất to lớn đồng thời gia tăng tham vọng cho nó. Sự trỗi dậy của một “Đại Trung Hoa” (The Greater China) sẽ không khiến vấn đề Đài Loan ngủ yên, và chắc chắn sẽ tác động đến vị thế của Mỹ ở Viễn Đông. Việc Liên Xô tan rã cũng đã tạo ra một loạt các quốc gia ở phía tây Trung Quốc mà các nhà lãnh đạo nước này không thể bỏ qua được. Do đó, Nga cũng sẽ bị tác động nhiều do Trung Quốc hiện diện ngày một tích cực hơn trên trường thế giới.

Vùng ngoại vi phía đông lục địa Á-Âu đặt ra một nghịch lý. Nhật Bản rõ ràng là một cường quốc trong các vấn đề thế giới, và liên minh Mỹ-Nhật thường - và nói một cách chính xác - được xác định là mối quan hệ song phương quan trọng nhất của Mỹ. Là một trong những cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới, Nhật Bản rõ ràng sở hữu tiềm năng để thi triển quyền lực chính trị hàng đầu. Tuy nhiên, nước này lại không làm thế, tránh mọi tham vọng thống trị khu vực và thay vào đó thích hoạt động dưới sự bảo vệ của Mỹ. Giống như trường hợp Vương quốc Anh đối với châu Âu, Nhật Bản không muốn tham gia vào chính trị của châu Á, mặc dù ít nhất một phần lý do chính lý giải điều này là sự thù địch liên tục của nhiều nước thành viên châu Á đối với bất kỳ sự theo đuổi một vai trò chính trị dẫn đầu nào trong khu vực của Nhật Bản.

Việc Nhật Bản tự hạn chế về mặt chính trị cho phép Hoa Kỳ đóng vai trò an ninh trung tâm ở Viễn Đông. Do đó, Nhật Bản không phải là một đấu thủ địa chiến lược dù nước này hiển nhiên có khả năng nhanh chóng trở thành đối thủ, đặc biệt nếu Trung Quốc hoặc Mỹ đột nhiên thay đổi các chính sách hiện tại của mình - điều này buộc Hoa Kỳ có nghĩa vụ đặc biệt nuôi dưỡng mối quan hệ Mỹ-Nhật một cách cẩn thận. Không phải vì chính sách đối ngoại của Nhật Bản mà Mỹ phải xem chừng, mà chính việc Nhật Bản tự kiềm chế bản thân khiến Mỹ phải nuôi dưỡng nó một cách khôn khéo. Bất kỳ sự suy giảm đáng kể nào trong các mối quan hệ chính trị Mỹ-Nhật đều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định của khu vực.

Không đưa Indonesia vào danh sách đấu thủ địa chiến lược năng động là trường hợp dễ hiểu hơn. Ở Đông Nam Á, Indonesia là quốc gia quan trọng nhất, nhưng ngay cả trong khu vực thì khả năng gây ảnh hưởng của nó cũng bị hạn chế vì tình trạng nền kinh tế còn chưa thực sự phát triển, những bất ổn chính trị nội bộ xảy ra liên tục, quần đảo phân tán và vấn đề xung đột sắc tộc vốn đã nhạy cảm lại còn bị làm trầm trọng thêm, xét đến việc thiểu số người gốc Hoa nắm giữ vai trò trung tâm trong các vấn đề tài chính nội bộ. Ở mặt nào đó, Indonesia có thể trở thành một trở ngại quan trọng đối với những khát vọng bành trướng về phía nam của Trung Quốc. Khả năng này đã được Australia, nước từng lo ngại chủ nghĩa bành trướng của Indonesia, thừa nhận và gần đây đã bắt đầu ủng hộ việc hợp tác chặt chẽ hơn giữa Australia và Indonesia. Nhưng một giai đoạn củng cố chính trị và tiếp tục những thành quả kinh tế là một điều cần thiết đối với Indonesia trước khi nước này có thể được xem là diễn viên chính trong khu vực.

Ấn Độ, ngược lại, đang trong quá trình tạo dựng bản thân như một cường quốc và cũng xem bản thân là một đấu thủ toàn cầu lớn. Nước này tự xem mình là đối thủ của Trung Quốc. Dù có thể cho rằng Ấn Độ đánh giá quá cao khả năng dài hạn của bản thân, nhưng hiển nhiên nó là quốc gia Nam Á hùng mạnh nhất, một dạng bá chủ khu vực. Đây cũng là một cường quốc hạt nhân bán công khai, không chỉ để đe dọa Pakistan mà còn đặc biệt tạo đối trọng với việc Trung Quốc cũng sở hữu một kho vũ khí hạt nhân. Ấn Độ có tầm nhìn địa chiến lược về vai trò khu vực của mình, không những đối với các nước láng giềng mà cả ở vùng Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, tham vọng của nó ở giai đoạn này9 chỉ xâm phạm vùng ngoại vi lợi ích của Mỹ ở lục địa Á-Âu, do đó, với tư cách là một đấu thủ địa chiến lược, Ấn Độ - ít nhất không ở cùng mức độ như Nga hay Trung Quốc - chưa phải là mối bận tâm lớn về địa chính trị.

Ukraine, một không gian mới và quan trọng trên bàn cờ Á-Âu, là một trung tâm địa chính trị do chính sự tồn tại của nó với tư cách một quốc gia độc lập đã giúp biến đổi nước Nga. Không có Ukraine, Nga không còn là một đế chế Á-Âu. Nga mà không có Ukraine vẫn có thể phấn đấu giành vị thế đế quốc, nhưng chủ yếu sẽ chỉ trở thành một quốc gia kiểu đế quốc châu Á, nhiều khả năng bị lôi kéo vào các cuộc xung đột gây suy yếu do các sắc dân vùng Trung Á kích động nên, vì lý do họ thấy phẫn nộ khi mất đi nền độc lập gần đây đồng thời còn được các quốc gia Hồi giáo đồng chủng ở phía nam ủng hộ. Trung Quốc cũng có thể sẽ phản đối bất kỳ động thái phục hồi địa vị thống trị nào của Nga ở Trung Á, vì họ ngày càng quan tâm nhiều hơn các quốc gia mới độc lập này. Tuy nhiên, nếu Moscow giành lại quyền kiểm soát Ukraine, với 52 triệu dân và các nguồn tài lực lớn cũng như tiếp cận được Biển Đen, Nga sẽ tự động lấy lại quyền trở thành một quốc gia đế quốc hùng mạnh, ảnh hưởng bao trùm châu Âu và châu Á. Ukraine mất đi độc lập sẽ lập tức gây ra hậu quả cho Trung Âu, biến Ba Lan thành trung tâm địa chính trị ở biên giới phía đông của một châu Âu thống nhất.

Mặc dù có quy mô hạn chế và dân số nhỏ, nhưng Azerbaijan, với nguồn tài nguyên năng lượng khổng lồ, cũng rất quan trọng về mặt địa chính trị. Đó là cái nút cổ chai chứa đựng tài nguyên phong phú ở lưu vực Biển Caspi và Trung Á. Nền độc lập của các quốc gia Trung Á sẽ gần như vô nghĩa nếu Azerbaijan phụ thuộc hoàn toàn vào vòng kiềm tỏa của Moscow. Các nguồn tài nguyên dầu mỏ rất lớn và quan trọng của Azerbaijan cũng có thể chịu sự kiểm soát của Nga một khi nền độc lập của nó bị vô hiệu hóa. Một Azerbaijan độc lập kết nối với các thị trường phương Tây bằng các đường ống dẫn dầu không đi qua vùng lãnh thổ do Nga kiểm soát, cũng trở thành một phương tiện tiếp cận giữa các nền kinh tế tiên tiến và tiêu tốn năng lượng đến các nước cộng hòa Trung Á giàu tài nguyên năng lượng. Gần giống như trường hợp Ukraine, tương lai của Azerbaijan và vùng Trung Á cũng rất quan trọng trong việc xác định những gì Nga có thể hoặc không thể trở thành.

Tận dụng sự suy giảm quyền lực của Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran đều tham gia vào việc tạo dựng ảnh hưởng ở một mức độ nhất định ở khu vực Trung Á vùng Biển Caspi. Vì lý do đó, họ cũng có thể được xem là những đấu thủ địa chiến lược. Tuy nhiên, cả hai quốc gia đều phải đối mặt với các vấn đề nội bộ nghiêm trọng, và khả năng tác động đến các chuyển đổi lớn ở khu vực trong việc phân phối quyền lực cũng bị hạn chế. Họ cũng là đối thủ của nhau và do đó có xu hướng phủ nhận ảnh hưởng của nhau. Ví dụ, ở Azerbaijan, nơi Thổ Nhĩ Kỳ có được một vai trò ảnh hưởng, thì thái độ của Iran (phát sinh từ mối lo ngại về khả năng khuấy động dân tộc Azeri10 trong chính đất nước Iran) lại có lợi hơn cho người Nga.

Tuy nhiên, cả Thổ Nhĩ Kỳ và Iran đều là những trung tâm địa chính trị quan trọng. Thổ Nhĩ Kỳ giúp ổn định khu vực Biển Đen, kiểm soát hoạt động từ biển này đến Địa Trung Hải, làm đối trọng với Nga ở vùng Caucasus, vẫn tạo ra lá chắn ngăn chặn chủ thuyết truyền thống Hồi giáo, đồng thời đóng vai trò vị trí án ngữ ở phía nam cho NATO. Một đất nước Thổ Nhĩ Kỳ bất ổn sẽ có khả năng gây ra bạo lực ở phía nam bán đảo Balkan, đồng thời tạo điều kiện cho Nga tái kiểm soát các quốc gia mới độc lập của vùng Caucasus. Còn Iran, bất chấp thái độ nhập nhằng đối với Azerbaijan, có những hỗ trợ ổn định tương tự cho sự đa dạng chính trị mới ở Trung Á. Nước này thống trị bờ đông Vịnh Ba Tư, trong khi sự độc lập của nó, bất kể mối thù địch hiện tại của Iran đối với Hoa Kỳ, đóng vai trò như một rào cản trước bất kỳ mối đe dọa lâu dài nào của Nga đối với lợi ích của Mỹ ở khu vực Vịnh Ba Tư.

Cuối cùng, Hàn Quốc là một trung tâm địa chính trị ở Viễn Đông. Có được những liên kết chặt chẽ với nước này, Hoa Kỳ vừa có thể bảo vệ Nhật Bản và qua đó giữ cho nước này không trở thành một cường quốc quân sự độc lập, vừa không phải áp đặt sự hiện diện của mình trên đất Nhật. Bất kỳ thay đổi đáng kể nào về tình trạng của Hàn Quốc, thông qua thống nhất và/hoặc thông qua một bước chuyển chịu ảnh hưởng của Trung Quốc đang bành trướng nhất thiết sẽ làm thay đổi vai trò của Mỹ ở vùng Viễn Đông, và do đó cũng làm thay đổi Nhật Bản. Ngoài ra, sức mạnh kinh tế ngày càng mạnh lên cũng khiến Hàn Quốc tự thân trở thành một “không gian” quan trọng hơn, và việc kiểm soát nước này trở nên có giá trị.

Danh sách đấu thủ địa chiến lược và trung tâm địa chính trị trên đây không lâu dài và cố định. Có thời điểm phải thêm vào hay bớt ra một số nước. Trường hợp như Đài Loan, Thái Lan, Pakistan, hay có lẽ Kazakstan hoặc Uzbekistan, có thể nằm trong nhóm sau, một lúc nào đó. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, không một thay đổi nào trong số hai phương án trên là hấp dẫn. Thay đổi địa vị của bất kỳ nước nào trên thế giới đều là dấu chỉ cho thấy các sự kiện lớn và liên quan đến một số chuyển dịch trong phân phối quyền lực, nhưng liệu những hệ quả dây chuyền sau đó sẽ để lại ảnh hưởng sâu rộng ra sao, chúng ta chưa quyết chắc được. Ngoại lệ duy nhất có thể là Đài Loan. Nếu Đài Loan được xem là nằm ngoài Trung Quốc, thì vấn đề sẽ chỉ nảy sinh một khi Trung Quốc sử dụng lực lượng quân sự khổng lồ để chinh phục lãnh thổ này nhằm thách thức Hoa Kỳ, do đó đe dọa uy tín chính trị Mỹ ở Viễn Đông. Xác suất xảy ra một sự kiện như vậy có lẽ thấp, nhưng vẫn phải được cân nhắc khi hoạch định chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.

LỰA CHỌN GIỚI HẠN VÀ THÁCH THỨC TIỀM NĂNG

Việc xác định đấu thủ địa chiến lược cũng như trung tâm địa chính trị giúp giải quyết các vấn đề nan giải trong chính sách lớn của Mỹ, dự đoán các thách thức lớn về tiềm năng đối với siêu lục địa Á-Âu. Chúng có thể được tóm tắt, trước khi thảo luận toàn diện hơn trong các chương sau, trong năm vấn đề rộng lớn dưới đây:

Mỹ nên chọn ủng hộ kiểu châu Âu nào?

Kiểu nước Nga nào được Mỹ quan tâm, và Mỹ có thể làm được gì và ở mức độ nào?

Những triển vọng cho sự xuất hiện một bán đảo Balkan mới ở Trung Âu, và Mỹ nên làm gì để giảm thiểu rủi ro?

Trung Quốc nên được khuyến khích đóng vai trò gì ở Viễn Đông, và những điều đã đề cập ở trên có ý nghĩa gì đối với Hoa Kỳ và với cả Nhật Bản?

Những liên minh Á-Âu mới nào nguy hiểm nhất đối với lợi ích của Hoa Kỳ, và cần phải làm gì để ngăn chặn chúng?

Hoa Kỳ luôn tuyên bố hỗ trợ sự nghiệp của một châu Âu thống nhất. Kể từ thời tổng thống Kennedy đã có việc kêu gọi cho mối quan hệ “đối tác bình đẳng”. Washington kiên trì tuyên bố mong muốn thấy châu Âu trỗi dậy như một thực thể duy nhất, đủ mạnh để chia sẻ trách nhiệm và gánh nặng lãnh đạo toàn cầu với Mỹ.

Nhưng đó chỉ là những lời tu từ hoa mỹ cho chủ đề này. Trên thực tế, Hoa Kỳ đã thiếu minh bạch và nhất quán. Liệu Washington có thực sự mong muốn một châu Âu ở vai trò đối tác thực sự bình đẳng trong các vấn đề thế giới, hay nó chỉ thích một liên minh bất bình đẳng? Ví dụ, Hoa Kỳ có sẵn sàng chia sẻ quyền lãnh đạo ở Trung Đông, một khu vực không chỉ gần gũi về mặt địa lý với châu Âu hơn là Mỹ mà còn là một khu vực mà các quốc gia châu Âu có lợi ích lâu dài, hay không? Vấn đề của Israel ngay lập tức nảy sinh. Những khác biệt giữa Hoa Kỳ và châu Âu trong vấn đề Iran và Iraq không được Hoa Kỳ ứng xử như là vấn đề giữa những đối tác bình đẳng mà như những nước không chịu tuân phục mình.

Sự mơ hồ về mức độ hỗ trợ của Mỹ cho một châu Âu thống nhất cũng mở rộng sang vấn đề châu Âu thống nhất được xác định như thế nào, đặc biệt là về việc quốc gia nào, nếu có, sẽ dẫn dắt cái châu Âu thống nhất đó. Dù Washington không khuyến khích thái độ gây chia rẽ của London liên quan đến hội nhập châu Âu, nhưng họ cũng thể hiện sự ưu tiên rõ ràng cho Đức, thay vì Pháp, lãnh đạo châu Âu. Việc này có thể giải thích được là do tính công kích truyền thống của chính sách Pháp, nhưng ưu tiên này cũng có hiệu ứng là thỉnh thoảng làm xuất hiện một hiệp ước mang tính chiến thuật giữa Pháp và Anh để phá ngang Đức, cũng như sự ve vãn theo từng giai đoạn của Pháp với Moscow để bù trừ cho liên minh Mỹ-Đức.

Sự xuất hiện của một châu Âu thực sự hợp nhất - đặc biệt nếu điều đó xảy ra với sự hỗ trợ mang tính xây dựng của Hoa Kỳ - sẽ đòi hỏi những thay đổi đáng kể trong cấu trúc và tiến trình của liên minh NATO, mối liên kết chính giữa Mỹ và châu Âu. NATO không chỉ cung cấp cơ chế chính cho việc thực thi ảnh hưởng của Mỹ đối với các vấn đề châu Âu mà còn là cơ sở cho Mỹ hiện diện quân ở Tây Âu, một thực tế chính trị quan trọng. Tuy nhiên, một châu Âu thống nhất đòi hỏi cấu trúc đó phải điều chỉnh theo thực tế mới của liên minh dựa trên hai đối tác ít nhiều cũng ngang nhau, chứ không phải một liên minh mà theo thuật ngữ truyền thống phải là một bá chủ và các chư hầu. Vấn đề đó cho đến nay phần lớn đã được xử lý, mặc dù những bước đi khiêm tốn đã được thực hiện vào năm 1996 để tăng cường vai trò của Liên minh Tây Âu (Western European Union, viết tắt là WEU) trong NATO, một liên minh quân sự của các quốc gia Tây Âu. Do đó, một sự lựa chọn thực sự có lợi cho một châu Âu thống nhất đồng nghĩa với bắt buộc phải sắp xếp lại NATO một cách sâu rộng, chắc chắn sẽ làm giảm vị thế dẫn dắt của Mỹ trong liên minh.

Tóm lại, một địa chiến lược dài hạn của Mỹ dành cho châu Âu sẽ phải giải quyết được rõ ràng các vấn đề về sự thống nhất châu Âu và là đối tác thực sự với châu Âu. Một nước Mỹ thực sự mong muốn một châu Âu thống nhất và do đó cũng là một châu Âu độc lập hơn sẽ phải dùng ảnh hưởng của mình để hỗ trợ các thế lực châu Âu đó thực sự cam kết hội nhập chính trị và kinh tế châu Âu. Chiến lược như vầy cũng đồng nghĩa với loại bỏ những dấu tích cuối cùng của mối quan hệ đặc biệt một thời được xem là thiêng liêng giữa Hoa Kỳ và Vương quốc Anh.

Một chính sách cho châu Âu thống nhất cũng sẽ phải giải quyết vấn đề rất nhạy cảm về phạm vi địa lý châu Âu - dù phải giải quyết cùng với các nước châu Âu. Liên minh châu Âu nên mở rộng bao xa về phía đông? Và các giới hạn phía đông của EU có nên đi cùng với tiền tuyến phía đông của NATO? Vế trước là vấn đề do châu Âu quyết định, nhưng quyết định của châu Âu ở đây sẽ có ý nghĩa trực tiếp đối với quyết định của NATO. Tuy nhiên, vế sau lại liên quan đến Hoa Kỳ, và tiếng nói của Hoa Kỳ trong khối NATO vẫn mang tính quyết định. Mong muốn đưa các quốc gia Trung Âu vào cả EU và NATO ngày càng thu được nhiều đồng thuận hơn, khiến cho việc tập trung vào tình hình tương lai của các nước cộng hòa Baltic và có lẽ cả Ukraine cũng mang ý nghĩa thực tiễn hơn.

Do đó, có một sự chồng lấn quan trọng giữa nan đề châu Âu đã thảo luận ở trên và vấn đề thứ hai liên quan đến Nga. Thật dễ trả lời câu hỏi liên quan đến tương lai nước Nga thông qua tuyên xưng ưu tiên cho một nước Nga dân chủ, liên kết chặt chẽ với châu Âu. Có thể dự đoán là một nước Nga dân chủ sẽ ủng hộ các giá trị được chính Mỹ và châu Âu chia sẻ và do đó cũng có nhiều khả năng trở thành đối tác cơ sở trong việc hình thành một lục địa Á- Âu ổn định và hợp tác hơn. Nhưng những tham vọng của Nga có thể vượt quá việc đạt được sự công nhận và tôn trọng như một nền dân chủ. Trong nền tảng chính sách đối ngoại của Nga (phần lớn còn dựa vào các quan chức Liên Xô cũ) vẫn phát triển một mong muốn sâu sắc về vai trò đặc biệt của mình ở lục địa Á-Âu, điều sẽ liên quan đến việc các quốc gia độc lập thời hậu Xô Viết phụ thuộc ra sao vào Moscow.

Trong bối cảnh đó, ngay cả chính sách thân thiện của phương Tây cũng bị một số thành viên có thế lực trong cộng đồng hoạch định chính sách Nga xem là hoạch định nhằm khước từ tuyên bố chính đáng của Nga về tình trạng toàn cầu. Như hai nhà địa chính trị Nga11 đã nói:

Hoa Kỳ và các nước trong khối NATO, dù không chạm đến lòng tự tôn của Nga đến mức có thể, nhưng ít nhất về mặt lý thuyết chắc chắn vẫn đang kiên định phá hủy các nền tảng địa chính trị cho phép Nga hy vọng đạt được vị trí cường quốc thứ nhì trong chính trị thế giới vốn trước đây thuộc về Liên Xô.

Hơn nữa, Mỹ được xem là đang theo đuổi một chính sách trong đó:

… tổ chức mới của không gian châu Âu đang được phương Tây hoạch định, về bản chất được xây dựng trên ý tưởng hỗ trợ các nước mới nổi tương đối nhỏ và yếu ở phần này của thế giới ít nhiều thông qua việc tái lập mối quan hệ hữu nghị giữa họ với NATO và EC, v.v.

Dù có một số đối lập, các trích dẫn nêu trên xác định rõ vấn đề nan giải mà Hoa Kỳ phải đối mặt. Nước Nga nên được giúp đỡ về mặt kinh tế đến mức độ nào - hiển nhiên sẽ tăng cường sức mạnh chính trị và quân sự của Nga - và các nước mới độc lập nên được hỗ trợ đến mức nào để vừa bảo vệ vừa củng cố nền độc lập của họ? Nga có thể vừa có quyền lực đồng thời cũng vừa có dân chủ không? Nếu Nga lại trở nên hùng mạnh, họ sẽ không tìm cách lấy lại lãnh thổ đế quốc đã mất? Và sau đó liệu có thể vừa là một đế chế vừa là một nước dân chủ hay không?

Chính sách của Hoa Kỳ đối với các trung tâm địa chính trị năng động như Ukraine và Azerbaijan không thể xác định rõ vấn đề đó và vì thế Mỹ phải đối mặt với một vấn đề nan giải về cân bằng chiến thuật và mục đích chiến lược. Việc phục hồi trong nội bộ nước Nga là điều cần thiết cho quá trình dân chủ hóa nước này và cuối cùng là châu Âu hóa. Nhưng bất kỳ sự phục hồi nào về tiềm năng đế quốc của nó cũng sẽ gây nguy hại cho cả hai mục tiêu vừa nêu. Ngoài ra, chính vì vấn đề này mà những khác biệt giữa Mỹ và một số quốc gia châu Âu có thể phát sinh, đặc biệt là khi mở rộng khối EU và NATO. Nga có nên được xem là ứng cử viên cho tư cách thành viên cuối cùng của một trong hai cơ cấu này hay không? Vậy còn Ukraine thì sao? Cái giá cho việc loại trừ Nga có thể cao, làm cho lời tiên tri trong tư duy của Nga được ứng nghiệm, nhưng kết quả của việc làm khối EU hoặc NATO nghèo đi cũng có thể gây bất ổn.

Một điều không định trước lại xuất hiện trong không gian rộng lớn và mang tính địa chính trị ở vùng Trung Á-Âu, hiện thực hóa bởi tính dễ bị tổn thương tiềm tàng của các trung tâm Thổ Nhĩ Kỳ-Iran. Trong khu vực được phân định trên bản đồ trang 96, từ Crimea ở Biển Đen hướng trực tiếp về phía đông dọc theo biên giới mới ở phía nam của Nga, đến Tân Cương (Trung Quốc), rồi đổ ra Ấn Độ Dương và tiếp đó hướng về phía tây đến Biển Đỏ, rồi hướng lên phía bắc đến bờ đông Địa Trung Hải và trở lại bán đảo Crimea, có khoảng 400 triệu người sinh sống trong khoảng 25 nước, hầu hết đều là người bản địa và không đồng nhất về mặt tôn giáo và trên thực tế, không một nước nào trong số này ổn định về mặt chính trị. Một số trong những quốc gia này có thể đang trong quá trình thủ đắc vũ khí hạt nhân.

Khu vực rộng lớn này - bị xâu xé vì những hận thù gay gắt dễ gây biến động và bị bao vây là những nước láng giềng hùng mạnh cạnh tranh - có khả năng trở thành một chiến trường lớn, cho cả các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia và nhiều khả năng là bạo lực tôn giáo và sắc tộc kéo dài. Việc Ấn Độ có hành động kiềm chế hay liệu họ có tận dụng cơ hội nào đó để áp đặt ý chí của mình lên Pakistan hay không sẽ ảnh hưởng lớn đến phạm vi khu vực có khả năng xảy ra hành động đối kháng. Những căng thẳng nội bộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và Iran có khả năng không chỉ trở nên tồi tệ hơn mà còn giảm đáng kể vai trò ổn định mà hai quốc gia này đang đóng ở trong khu vực sôi bỏng này. Những hành động như vậy sẽ lần lượt gây nhiều khó khăn hơn cho việc đồng hóa các quốc gia Trung Á mới vào cộng đồng quốc tế, đồng thời ảnh hưởng xấu đến nền an ninh do Mỹ thống trị ở khu vực Vịnh Ba Tư. Trong mọi trường hợp, cả Mỹ và cộng đồng quốc tế có thể phải đối mặt với một thách thức, mà so với nó thì cuộc khủng hoảng gần đây ở Nam Tư cũ chẳng đáng kể chút nào, ở vùng này.

Một thách thức khả dĩ đối với địa vị số một của Mỹ đến từ chủ nghĩa Hồi giáo chính thống có thể là một phần của vấn đề trong khu vực bất ổn này. Bằng cách khai thác sự thù địch tôn giáo đối với lối sống của người Mỹ và lợi dụng cuộc xung đột giữa người Ả Rập và Israel, chủ nghĩa Hồi giáo chính thống có thể làm suy yếu một số chính quyền Trung Đông thân phương Tây và cuối cùng gây nguy hiểm cho lợi ích khu vực của Mỹ, đặc biệt là ở Vịnh Ba Tư. Tuy nhiên, nếu không có sự gắn kết chính trị và khi không có một quốc gia Hồi giáo thực sự hùng mạnh nào, một thách thức từ chủ nghĩa Hồi giáo chính thống sẽ thiếu cốt lõi địa chính trị và do đó sẽ có nhiều khả năng thể hiện bản thân thông qua việc truyền bá bạo lực.

Có một vấn đề địa chiến lược có tầm quan trọng được đặt ra, đó là Trung Quốc trỗi dậy với tư cách cường quốc. Kết quả hấp dẫn nhất sẽ là đồng lựa chọn một Trung Quốc dân chủ hóa và có thị trường tự do hóa, đi vào khuôn khổ hợp tác trong khu vực châu Á lớn hơn. Nhưng giả sử Trung Quốc không dân chủ hóa mà tiếp tục phát triển thiên về sức mạnh kinh tế và quân sự? Một Đại Trung Hoa có thể xuất hiện, bất kể mong muốn và tính toán của các nước láng giềng là gì, và bất kỳ nỗ lực nào nhằm ngăn chặn viễn cảnh đó đều có thể kéo theo một cuộc xung đột gia tăng với Trung Quốc. Một cuộc xung đột như vậy có thể làm căng thẳng thêm mối quan hệ giữa người Mỹ và Nhật Bản vì không chắc chắn rằng Nhật Bản muốn tham gia kiềm chế Trung Quốc dưới sự dẫn dắt của Mỹ, do đó có những hậu quả khả dĩ mang tính cách mạng đối với định nghĩa về vai trò khu vực của Nhật Bản, chấm dứt sự hiện diện của người Mỹ ở Viễn Đông.

Tuy nhiên, hòa hợp với Trung Quốc cũng sẽ có cái giá xác đáng của nó. Chấp nhận Trung Quốc là một cường quốc khu vực không phải là vấn đề mô phỏng đơn giản một khẩu hiệu đơn thuần. Sẽ phải có vai trò quan trọng cho bất kỳ ưu thế khu vực nào như vậy. Nói một cách trực tiếp, phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc lớn đến mức nào và ở đâu, Mỹ nên được chấp nhận như thế nào trong một chính sách hợp tác thành công của Trung Quốc trong các vấn đề thế giới? Hiện nay, những khu vực nào bên ngoài Trung Quốc, về mặt chính trị có thể nên được công nhận là nằm trong vòng kiềm tỏa của một Thiên Triều đang tái xuất hiện?

Trong bối cảnh đó, việc duy trì sự hiện diện của Mỹ ở Hàn Quốc trở nên đặc biệt quan trọng. Nếu không, mọi sự sẽ khác với dự tính dàn xếp quốc phòng Mỹ-Nhật ở hình thức hiện tại, vì Nhật Bản sẽ phải tự chủ hơn về mặt quân sự. Nhưng bất kỳ động thái thống nhất Triều Tiên12 nào cũng có khả năng làm xáo trộn nền tảng cho Hoa Kỳ tiếp tục hiện diện quân sự tại Hàn Quốc. Một bán đảo Triều Tiên thống nhất có thể chọn không duy trì sự bảo vệ của quân đội Mỹ. Thực tế thì, đó có thể là cái giá chính xác cho Trung Quốc vì đã ném trọng lượng quyết định của nó đằng sau sự thống nhất của bán đảo. Nói tóm lại, việc Hoa Kỳ quản lý quan hệ của chính mình với Trung Quốc chắc chắn sẽ có những hậu quả trực tiếp đối với sự ổn định của mối quan hệ an ninh trong tam giác Mỹ-Nhật-Hàn.

Cuối cùng, một số tình huống có thể xảy ra liên quan đến sự sắp xếp chính trị trong tương lai cũng cần được điểm qua ở chương này, còn phần luận giải đầy đủ hơn sẽ nằm trong các chương sau. Trong quá khứ, các vấn đề quốc tế chủ yếu chịu sự chi phối của các cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia riêng lẻ nhằm thống trị khu vực. Do đó, Hoa Kỳ có thể phải xác định làm cách nào để đối phó với các liên minh khu vực đang tìm cách đẩy Mỹ ra khỏi Á-Âu, từ đó đe dọa vị thế cường quốc toàn cầu của Mỹ. Tuy nhiên, việc xuất hiện bất kỳ liên minh nào như vậy liệu có làm phát sinh chức năng dẫn dắt của Mỹ hay không, trên thực tế nó phụ thuộc rất lớn vào mức độ hiệu quả của việc Hoa Kỳ xử lý các nan đề cụ thể vừa nêu trên.

Có khả năng, kịch bản nguy hiểm nhất sẽ là một liên minh lớn giữa Trung Quốc, Nga và có lẽ cả Iran, một liên minh “chống bá quyền” được gắn kết không phải bởi ý thức hệ mà bởi sự bất bình. Nó sẽ gợi nhớ đến quy mô và phạm vi của thách thức từng được khối Xô-Trung đặt ra, mặc dù lần này Trung Quốc có thể sẽ là nhà lãnh đạo và người theo sau là Nga. Để tránh sự bất ngờ này, đòi hỏi phải thể hiện kỹ năng địa chiến lược của Hoa Kỳ ở phía tây, phía đông và phía nam của lục địa Á-Âu, tuy nhiên có thể là từ xa.

Một thách thức về mặt địa lý hạn chế hơn nhưng thậm chí có nhiều khả năng liên quan hơn đến trục Trung-Nhật, sau sự sụp đổ của vị thế Mỹ ở Viễn Đông và một sự thay đổi mang tính cách mạng về triển vọng thế giới của Nhật. Nó sẽ kết hợp sức mạnh của hai dân tộc có năng suất phi thường, và nó có thể khai thác một số hình thức của chủ nghĩa châu Á Hồi giáo như một học thuyết chống Mỹ thống nhất. Tuy nhiên, dường như không có khả năng rằng Trung Quốc và Nhật Bản sẽ hình thành một liên minh, dựa trên kinh nghiệm lịch sử gần đây của họ; và một chính sách viễn tưởng của Mỹ ở Viễn Đông chắc chắn sẽ có thể ngăn chặn tình trạng này xảy ra.

Ở khá xa đó, nhưng không bị loại trừ hoàn toàn, là khả năng hình thành một tổ chức lớn ở châu Âu, liên quan đến một thỏa thuận Đức-Nga hoặc một liên minh Pháp-Nga. Có những tiền lệ lịch sử rành rành cho cả hai khả năng trên, và/hoặc có thể xuất hiện nếu sự thống nhất của châu Âu bị đình trệ và nếu mối quan hệ châu Âu-Mỹ trở nên xấu đi đến mức nghiêm trọng. Thật vậy, trong trường hợp sau, người ta có thể tưởng tượng ra một khu vực châu Âu-Nga để loại trừ Mỹ khỏi lục địa. Trong tình hình hiện nay, tất cả các biến thể này có lẽ không thể thực hiện được. Chúng khả thi được đến đâu không chỉ liên quan đến một thao tác xử lý sai lầm lớn từ phía chính sách châu Âu mà còn ở việc tái định hướng mạnh mẽ nhắm về phía các quốc gia chủ chốt của châu Âu.

Dù tương lai là gì đi nữa, hoàn toàn hữu lý khi kết luận rằng vị thế số một của lục địa Á-Âu sẽ chịu nhiều áp lực do tình thế hỗn loạn và ít nhất cũng là do bạo lực lẻ tẻ. Địa vị đứng đầu của Mỹ rất dễ bị ảnh hưởng trước những thách thức mới đến từ các ứng viên quốc tế hoặc các chòm sao mới lạ. Hệ thống toàn cầu mà hiện Mỹ đang chiếm ưu thế, trong đó mối đe dọa chiến tranh không còn nữa, có lẽ chỉ ổn định ở những nơi được Mỹ dẫn dắt với một địa chiến lược dài hạn, dựa trên khả năng tương thích và tương hợp các hệ thống chính trị xã hội, liên kết với nhau bằng các khuôn khổ đa phương do Mỹ đứng đầu.

* * *

1. Samuel P. Huntington, “Why International Primacy Matters” (Tại sao sự ưu việt ở tầm quốc tế lại là vấn đề quan trọng), International Security (Mùa xuân năm 1993), tr. 83.↩︎

2. Halford John Mackinder (1861-1947): nhà địa lý, chính trị gia người Anh. “The Geographical Pivot of History” (Trục địa lý của lịch sử) là tài liệu nổi tiếng được ông trình lên Hội Địa lý Hoàng gia (Anh) năm 1904, trong đó phát triển thuyết vùng đất trung tâm (heartland theory) của ông. Thuyết này liên quan đến địa chính trị cổ điển và hiện đại ở cả châu Âu và Mỹ. (BT)↩︎

3. Karl Haushofer (1869-1946): nhà địa lý, chính trị gia người Đức. (BT)↩︎

4. Tiếng Đức, chỉ các nước Trung Âu thuộc Đế chế Áo đa sắc tộc dưới thời trị vì của dòng họ Habsburg (thủ đô là Vienna). Về sau, Đế chế Phổ xem Mitteleuropa là trung tâm nhà nước nối dài của người Phổ. (ND)↩︎

5. Roy Denman, Missed Chances (Những cơ hội bị bỏ lỡ), Cassell, London, năm 1996.↩︎

6. Đóng góp của Robert Skidelsky đối với “Great Britain and the New Europe” (Vương quốc Anh và châu Âu mới), bạn đọc có thể tham khảo trong cuốn From the Atlantic to the Urals: National Perspectives on the New Europe (Từ Đại Tây Dương đến dãy Ural: những giác độ quốc gia về châu Âu mới) của nhiều tác giả, do David P. Calleo và Philip H. Gordon chủ biên, Seven Locks Press, Arlington, Texas, Mỹ, năm 1992, tr. 145.↩︎

7. North Atlantic Treaty Organization: Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. (ND)↩︎

8. Ở thời điểm cuốn sách này xuất bản lần đầu năm 1997, Ba Lan còn chưa tham gia EU và NATO mà mới chỉ đang vận động để được gia nhập. Năm 1997, Ba Lan trở thành thành viên của NATO, và năm 2004, EU. (BT)↩︎

9. Chỉ thời điểm cuốn sách này xuất bản lần đầu, tức năm 1997. (BT)↩︎

10. Azeri: là nhóm sắc tộc thiểu số ở Iran, theo truyền thống họ trung thành với dòng Hồi giáo Shi’a. (ND)↩︎

11. Bogaturov và V. Kremenyuk (cả hai đều là học giả cao cấp tại Trung tâm nghiên cứu về chính sách của Hoa Kỳ và Canada), trong “Current Relations and Prospects for Interaction Between Russia and the United States” (Quan hệ hiện tại và triển vọng về tương tác giữa Nga và Hoa Kỳ), Tạp chí Nezavisimaya Gazeta, ngày 28-6-1996.↩︎

12. Ở phạm vi cuốn sách này, chúng tôi dùng “Triều Tiên” (Korea) để chỉ bán đảo Triều Tiên, “Hàn Quốc” (South Korea) chỉ Đại Hàn Dân quốc (Nam Hàn), “Bắc Triều Tiên” (North Korea) chỉ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Hàn). (BT)↩︎

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3