Bàn Cờ Lớn - Chương 04
Chương 4
HỐ ĐEN
Sự tan rã vào cuối năm 1991 của quốc gia có lãnh thổ lớn nhất thế giới đã tạo ra một “hố đen” ở vùng trung tâm của lục địa Á-Âu. Cứ như thể các nhà địa chính trị ở “Vùng trung tâm” đã bất ngờ bị kéo ra khỏi bản đồ toàn cầu.
Đối với Mỹ, tình hình địa chính trị mới và phức tạp này đặt ra một thách thức quan trọng. Có thể hiểu rằng, nhiệm vụ trước mắt phải là làm giảm xác suất hỗn loạn chính trị hoặc sự đảo ngược trở lại thành một chế độ độc tài thù địch tại quốc gia tuy đã tan rã nhưng vẫn đang sở hữu kho vũ khí hạt nhân dồi dào. Nhưng nhiệm vụ về lâu dài vẫn là: làm sao khuyến khích sự chuyển đổi dân chủ và phục hồi kinh tế của Nga, đồng thời phải tránh sự tái xuất hiện của một đế chế Á-Âu có thể làm cản trở mục tiêu địa chiến lược của Mỹ là định hình một hệ thống châu Âu-Đại Tây Dương lớn hơn bao gồm cả một nước Nga đã ổn định và an toàn.
NƯỚC NGA TRONG BỐI CẢNH ĐỊA CHÍNH TRỊ MỚI
Sự sụp đổ của Liên Xô là giai đoạn cuối cùng trong tiến trình phân rã khối Xô-Trung rộng lớn mà trong một thời gian ngắn đã ráp khớp với nhau, và ở một số khía cạnh thậm chí còn vượt qua cả phạm vi đế chế của Thành Cát Tư Hãn. Nhưng khối Á-Âu xuyên lục địa hiện đại này lại tồn tại rất ngắn ngủi; việc Tito phản bội tại Nam Tư và Mao không vâng lời tại Trung Quốc đã sớm báo hiệu đặc tính dễ tổn thương của phe xã hội chủ nghĩa: chúng ta thấy rõ, khát vọng dân tộc mạnh hơn sự ràng buộc ý thức hệ. Khối Xô-Trung tồn tại khoảng mười năm; Liên Xô được khoảng bảy mươi năm.
Tuy nhiên, điều có ý nghĩa về mặt địa chính trị hơn cả là sự tan rã của Đế quốc Nga vĩ đại đã trường tồn suốt hàng thế kỷ. Đế chế này tan rã phát xuất từ thất bại chính trị và kinh tế-xã hội nói chung của hệ thống Xô Viết, mặc dù phần lớn bất ổn đó đã bị che giấu gần như đến tận cùng bằng những che đậy và tự cô lập có hệ thống của chính Liên Xô. Do đó, cả thế giới đã choáng váng khi chứng kiến Liên bang Xô Viết tự sụp đổ trong chóng vánh. Đầu tiên là trong hai tuần ngắn ngủi vào tháng 12 năm 1991, chính những người đứng đầu các nước cộng hòa Nga, Ukraine và Belarus tuyên bố Liên Xô giải tán, sau đó chính thức được thay thế bằng một thực thể mơ hồ được gọi là Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS), tức tổng hợp tất cả các nước từng thuộc Xô Viết trừ các nước cộng hòa Baltic. Sau đó, tổng thống Liên Xô miễn cưỡng từ chức và lá cờ Liên Xô được hạ xuống lần cuối từ tháp điện Kremlin. Cuối cùng, Liên bang Nga (với 150 triệu người Nga) xuất hiện ở tư cách người kế thừa hiện thực của Liên Xô cũ, trong khi các nước cộng hòa khác chiếm tới 150 triệu người cũng khẳng định chủ quyền độc lập ở các mức độ khác nhau.
Liên Xô sụp đổ đã tạo ra sự hoang mang khủng khiếp về địa chính trị. Nhìn chung, người dân Nga vốn đã nhận được ít dấu hiệu tiên liệu hơn cả thế giới bên ngoài về việc Liên Xô đang tan rã, vậy mà chỉ trong vòng nửa tháng ngắn ngủi, họ đột ngột phát hiện ra mình không còn là chủ nhân của một đế chế xuyên lục địa, thay vào đó biên giới của Nga đã quay trở lại điểm bắt đầu tại Caucasus vào đầu những năm 1800, tại Trung Á vào giữa những năm 1800, và choáng váng, đau đớn hơn nhiều là ở phía tây vào khoảng năm 1600, ngay sau triều đại của Ivan Bạo chúa. Việc để mất Caucasus đã làm sống lại những lo ngại chiến lược về ảnh hưởng của một Thổ Nhĩ Kỳ đang hồi sinh; còn việc mất mát Trung Á lại tạo ra cảm giác thiếu khuyết nguồn năng lượng và khoáng sản khổng lồ của khu vực cũng như lo lắng về một mối nguy Hồi giáo tiềm tàng; còn nền độc lập của Ukraine lại thách thức chính bản chất lời tuyên bố của Nga rằng cả hai mang tiêu chuẩn thần thánh của chung một bản sắc Slav.
Vùng đất đã bị chiếm đóng trong nhiều thế kỷ dưới thời các Sa hoàng và trong ba phần tư thế kỷ sau đó dưới thời Liên Xô do Nga thống trị giờ đã bị một tá quốc gia lấp đầy, với hầu hết (trừ Nga) gần như không được chuẩn bị để thực sự tiếp nhận chủ quyền và thay đổi ở quy mô lớn, từ Ukraine với dân số tương đối lớn là 52 triệu dân đến Armenia với 3,5 triệu dân. Khả năng tồn tại của những nước này dường như không chắc chắn, trong khi việc Moscow sẵn sàng thích nghi vĩnh viễn với thực tế mới cũng khó lường tương tự. Cú sốc lịch sử mà người Nga phải gánh chịu đã được phóng đại với thực tế là khoảng 20 triệu người nói tiếng Nga hiện đang là cư dân của các quốc gia bên ngoài được dẫn dắt về mặt chính trị bởi giới tinh hoa dân tộc ngày càng quyết tâm khẳng định bản sắc của chính họ sau nhiều thập kỷ ít nhiều bị Nga cưỡng bức đồng hóa.
Sự sụp đổ của Đế quốc Nga đã tạo ra một khoảng trống quyền lực ngay tại trung tâm của lục địa Á-Âu. Không chỉ ở các quốc gia mới độc lập có sự yếu kém và lộn xộn, mà tại chính nước Nga, biến động đã tạo ra một cuộc khủng hoảng hệ thống lớn, đặc biệt là khi biến động chính trị đi kèm với nỗ lực đồng thời phá bỏ mô hình kinh tế-xã hội cũ của Liên Xô. Sang chấn quốc gia đã trở nên tồi tệ hơn khi Nga có dính líu quân sự ở Tajikistan do lo ngại việc người Hồi giáo tiếp quản quốc gia mới độc lập đó. Tình hình tồi tệ đặc biệt gia tăng sau việc Nga can thiệp bi thảm, tàn bạo và tốn kém cả về kinh tế và chính trị ở Chechnya. Đau đớn nhất là địa vị quốc tế của Nga đã bị suy giảm đáng kể, từng là một trong hai siêu cường thế giới, nay Nga chỉ còn được nhiều nước coi là một thế lực tương đối lớn trong khu vực thuộc thế giới thứ ba, mặc dù nó vẫn sở hữu một kho vũ khí hạt nhân đáng kể nhưng đã ngày càng lạc hậu.
Khoảng trống địa chính trị càng rộng thêm vì quy mô cuộc khủng hoảng xã hội ở Nga. Suốt ba phần tư thế kỷ đất nước lần lượt phải hứng chịu sự tàn phá của Thế chiến thứ nhất, tang tóc trong suốt cuộc nội chiến (1918-1921), những tàn bạo và quá nhiều mất mát mà Thế chiến thứ hai gây ra cùng hàng loạt diễn biến quân sự cùng với những hạn chế trong phát triển kinh tế-xã hội… Tất cả đã làm giảm sút vị thế của nước này trên trường quốc tế. Từng là một trong hai siêu cường trên toàn cầu, nay Nga là điển hình cho một quốc gia thuộc thế giới thứ ba hạng trung.
Cuộc khủng hoảng nội bộ cùng với việc đánh mất vị thế quốc tế gây ra không chỉ những bất ổn đáng lo ngại, đặc biệt là đối với giới chính trị Nga, mà còn khiến cho tình hình địa chính trị của nước Nga chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi. Ở phía tây, do hậu quả của việc Liên bang Xô Viết tan rã, các vùng biên giới của Nga bị thay đổi đau đớn, phạm vi ảnh hưởng địa chính trị của nó đã bị thu hẹp đáng kể (xem bản đồ ở trên, trang 151). Việc để mất các quốc gia Baltic vốn bị Nga kiểm soát từ những năm 1700, cùng với đó là các thành phố cảng Riga và Tallinn đã khiến việc Nga tiếp cận Biển Baltic bị hạn chế, phải chịu cảnh “bị đóng băng” vào mùa đông. Mặc dù Moscow đã cố gắng duy trì vị thế thống trị về mặt chính trị tại một chính thể mới độc lập có tính Nga hóa cao là Belarus, nhưng điều chắc chắn là sự lây lan của chủ nghĩa dân tộc cuối cùng cũng sẽ chiếm thế thượng phong. Và vượt ra ngoài biên giới của Liên Xô cũ, khối Warsaw giải thể có nghĩa là các quốc gia vệ tinh cũ của Trung Âu, trước hết là Ba Lan, cũng đang nhanh chóng hướng về NATO và Liên minh châu Âu.
Khó khăn hơn cả là việc để mất Ukraine. Sự xuất hiện của một quốc gia Ukraine độc lập không chỉ thách thức tất cả người Nga suy nghĩ lại về bản chất chính trị và dân tộc của họ, mà nó còn thể hiện sự thụt lùi về địa chính trị quan trọng đối với nhà nước Nga. Đó là bước thụt lùi đến hơn ba trăm năm lịch sử của Đế quốc Nga, đồng nghĩa với việc mất đi một nền kinh tế công nghiệp và nông nghiệp giàu tiềm năng, cùng 52 triệu người đủ gần gũi về mặt sắc tộc và tôn giáo với người Nga để biến Nga thành một quốc gia thực sự rộng lớn và tự chủ. Ukraine độc lập cũng khiến Nga mất vị trí thống trị trên Biển Đen, nơi Odessa từng đóng vai trò là cửa ngõ quan trọng để Nga giao thương với Địa Trung Hải và thế giới bên ngoài.
Mất Ukraine để lại một hậu quả to lớn về mặt địa chính trị, vì nó làm hạn chế đáng kể các lựa chọn địa chiến lược của Nga. Ngay cả khi không có các quốc gia Baltic và Ba Lan, một nước Nga giữ quyền kiểm soát Ukraine vẫn có thể tìm cách trở thành lãnh đạo của một đế chế Á-Âu quyết đoán, trong đó Moscow có thể thống trị những người không thuộc nhóm Slav ở miền Nam và Đông Nam của Liên Xô cũ. Nhưng nếu không có Ukraine và 52 triệu người Slav đồng hương của mình, bất kỳ nỗ lực nào của Moscow để xây dựng lại đế chế Á-Âu có thể khiến Nga một mình vướng vào các cuộc xung đột kéo dài với các dân tộc và tôn giáo không thuộc người Slav đang trỗi dậy, cuộc chiến với Chechnya có lẽ chỉ là ví dụ đầu tiên. Hơn nữa, với tỷ lệ sinh giảm ở Nga và tỷ lệ sinh bùng nổ ở Trung Á, bất kỳ thực thể Á-Âu mới nào hoàn toàn dựa vào sức mạnh của Nga, nếu không có Ukraine, chắc chắn sẽ trở nên ít tính châu Âu và nhiều tính châu Á hơn sau mỗi năm.
Mất Ukraine không chỉ là vấn đề địa chính trị mà còn là chất xúc tác địa chính trị. Hành động tuyên bố độc lập của Ukraine vào tháng 12 năm 1991, sự cương quyết của nước này trong các cuộc đàm phán quan trọng ở Bela Vezha (Nga) rằng Liên Xô nên được thay thế bằng một liên minh lỏng lẻo hơn gồm các quốc gia mới độc lập và đặc biệt là sự áp đặt đột ngột - gần như là đảo chính bằng mệnh lệnh - của Ukraine lên các đơn vị quân đội Liên Xô đóng quân ở nước này đã ngăn chặn CIS trở thành cái tên mới của Liên bang Xô Viết. Quyền tự quyết chính trị của Ukraine đã làm Moscow choáng váng, nó trở thành ví dụ cho các nước cộng hòa Xô Viết khác, mặc dù ban đầu rụt rè hơn nhưng sau đó đã làm theo.
Mất vị trí thống trị trên Biển Baltic cũng đồng thời làm Nga mất luôn vị thế tương tự trên Biển Đen, đó không chỉ là do sự độc lập của Ukraine mà còn do các quốc gia của vùng Caucasus mới độc lập - Georgia, Armenia và Azerbaijan - đã tăng cường cơ hội cho Thổ Nhĩ Kỳ tái lập ảnh hưởng đã mất của mình trong khu vực. Trước năm 1991, Biển Đen là điểm khởi đầu cho sự phát triển của sức mạnh hải quân Nga tiến vào Địa Trung Hải. Vào giữa những năm 1990, Nga chỉ còn lại một dải bờ biển nhỏ trên Biển Đen cùng với cuộc tranh luận chưa có hồi kết với Ukraine về quyền lập căn cứ ở Crimea cho tàn dư của Hạm đội Biển Đen Liên Xô, trong khi phải chứng kiến một sự thật khó chịu đó là một liên minh Hải quân NATO-Ukraine đang hiện diện với các cuộc diễn tập trên bờ biển và vai trò ngày càng tăng của Thổ Nhĩ Kỳ ở khu vực Biển Đen. Nga cũng nghi ngờ Thổ Nhĩ Kỳ đã cung cấp viện trợ hiệu quả cho phiến quân Chechen.
Xa hơn về phía đông nam, biến động địa chính trị đã tạo ra một sự thay đổi đáng kể tương tự về tình trạng của khu vực Biển Caspi và của Trung Á nói chung. Trước khi Liên Xô sụp đổ, Biển Caspi có công dụng là một hồ nước của Nga, với một khu vực nhỏ phía nam nằm trong vành đai Iran. Với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc độc lập và mạnh mẽ của đất nước Azerbaijan, được củng cố nhờ một dòng các nhà đầu tư dầu mỏ phương Tây đầy háo hức và các quốc gia độc lập Kazakstan và Turkmenistan tương tự, Nga chỉ còn là một trong năm nước có chủ quyền với sự giàu có của lưu vực Biển Caspi. Nó không còn có thể tự tin cho rằng mình có thể tự tùy ý sử dụng các tài nguyên này.
Sự xuất hiện của các quốc gia Trung Á độc lập có nghĩa là một số vùng biên giới phía đông nam của Nga đã bị đẩy lùi về phía bắc nhiều hơn một ngàn dặm. Các quốc gia mới hiện kiểm soát các mỏ khoáng sản và năng lượng lớn, chắc chắn sẽ thu hút sự quan tâm của nước ngoài. Cũng gần như không thể tránh được việc không chỉ giới lãnh đạo chính trị, mà trước đó khá lâu, các sắc dân của những quốc gia này cũng đã mang nhiều tính dân tộc hơn còn bề ngoài có lẽ ngày càng thiên về đạo Hồi hơn. Ở Kazakstan, một đất nước rộng lớn có nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ nhưng với gần 20 triệu người được chia gần như đồng đều giữa người Kazak và người Slav, các cuộc xung đột ngôn ngữ và sắc tộc có khả năng gia tăng. Uzbekistan với dân số khoảng 25 triệu người khá là đồng nhất về mặt sắc tộc và các nhà lãnh đạo quốc gia này, từng nhấn mạnh về những vinh quang trong lịch sử của đất nước, đã trở nên ngày càng quyết đoán trong việc khẳng định địa vị hậu thuộc địa mới của khu vực. Turkmenistan, được Kazakstan che chở về mặt địa lý khỏi mọi liên hệ trực tiếp với Nga, đã tích cực phát triển các mối liên kết mới với Iran nhằm giảm bớt sự phụ thuộc trước đó vào hệ thống thông tin liên lạc của Nga để tiếp cận thị trường toàn cầu.
Được Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Pakistan và Ả Rập Saudi hỗ trợ từ bên ngoài, các quốc gia Trung Á không có khuynh hướng đánh đổi chủ quyền chính trị mới của họ ngay cả vì lợi ích của việc hội nhập kinh tế có lợi với Nga như nhiều người Nga tiếp tục hy vọng họ sẽ làm vậy. Ít nhất thì, một số căng thẳng và thù địch trong mối quan hệ của họ với Nga là không thể tránh khỏi, và các tiền lệ đau đớn tại Chechnya và Tajikistan cho thấy sẽ khó lòng loại bỏ những viễn cảnh tồi tệ hơn. Đối với người Nga, ám ảnh về một cuộc xung đột tiềm tàng với các quốc gia Hồi giáo dọc theo toàn bộ vùng sườn phía nam của Nga (thêm vào đó là Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Pakistan, chiếm tới hơn 300 triệu người) là một mối lo ngại rất nghiêm trọng.
Cuối cùng, vào thời điểm đế chế của mình bị giải tán, Nga cũng đang phải đối mặt với một tình huống địa chính trị mới đáng ngại ở Viễn Đông, mặc dù không có thay đổi lãnh thổ hay chính trị nào xảy ra. Trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc đã luôn yếu hơn và lạc hậu hơn Nga, ít nhất là trong lĩnh vực chính trị-quân sự. Không có người Nga nào quan tâm đến tương lai của đất nước và bối rối trước những thay đổi mạnh mẽ trong thập kỷ này có thể bỏ qua thực tế rằng Trung Quốc đang trên đường trở thành một quốc gia tiến bộ hơn, năng động hơn và thành công hơn Nga. Sức mạnh kinh tế của Trung Quốc, kết hợp với sức lao động của 1,2 tỷ dân, về cơ bản đã đảo ngược phương trình lịch sử giữa hai nước, với khoảng không gian trống trải ở Siberia gần như đang vẫy gọi Trung Quốc.
Thực tế mới đáng chú ý này chắc chắn đã ảnh hưởng đến cảm nhận về an ninh của Nga ở khu vực Viễn Đông cũng như các lợi ích Nga có ở Trung Á. Thậm chí, chẳng bao lâu nữa tiến trình này có thể làm lu mờ tầm quan trọng địa chính trị của Nga sau khi để mất Ukraine. Ảnh hưởng chiến lược của nó đã được Vladimir Lukin, Đại sứ Nga đầu tiên thời hậu Xô Viết tại Hoa Kỳ và sau đó là Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Duma chỉ ra rõ ràng:
Trong quá khứ, Nga luôn thấy mình đi trước châu Á, mặc dù tụt hậu hơn so với châu Âu. Thế nhưng kể từ lúc này, châu Á đã phát triển nhanh hơn nhiều… chúng tôi thấy mình không còn ở giữa một châu Âu hiện đại và một châu Á lạc hậu nữa, mà đang chiếm một khoảng không gian kỳ quái giữa hai gã “châu Âu.”1
Tóm lại, cho đến gần đây, Nga - kẻ đã tạo nên một đế chế lãnh thổ vĩ đại và lãnh đạo một khối tư tưởng của các quốc gia vệ tinh kéo dài đến tận trung tâm của châu Âu và vào một thời điểm đã kéo dài đến tận Biển Đông - đã trở thành một quốc gia gặp nhiều rắc rối, không dễ dàng tiếp cận với thế giới bên ngoài về mặt địa lý và dễ bị tổn thương do xung đột với các nước láng giềng ở sườn phía tây, phía nam và phía đông. Chỉ có không gian phía bắc vốn không thể định cư và không thể tiếp cận, gần như bị đóng băng vĩnh viễn, là dường như an toàn về mặt địa chính trị.
ẢO TƯỞNG ĐỊA CHIẾN LƯỢC
Thật khó lòng tránh khỏi một giai đoạn cảm thấy hoang mang và rối rắm dành cho lịch sử và chiến lược của Nga thời hậu Xô Viết. Cú sốc Liên Xô sụp đổ và đặc biệt là sự tan rã gây choáng váng và bất ngờ của Đế quốc Nga vĩ đại đã làm nảy sinh ở Nga cuộc tìm kiếm ý nghĩa cốt lõi to lớn, một cuộc tranh luận lan rộng về những gì định nghĩa nên lịch sử hiện tại của Nga, những tranh luận công khai và riêng tư về các vấn đề mà người dân ở hầu hết các quốc gia lớn thậm chí còn không nghĩ đến: Nga là gì? Nga ở đâu? Là một người Nga có nghĩa gì?
Những câu hỏi này không chỉ đơn thuần là lý thuyết: bất kỳ câu trả lời nào cũng chứa nội dung địa chính trị quan trọng. Nga có phải là một quốc gia, dựa trên dân tộc Nga thuần túy, hay Nga theo định nghĩa là thứ gì đó lớn hơn (như Vương quốc Anh lớn hơn nước Anh) và do đó được định đoạt là một quốc gia đế quốc? Đâu mới là biên giới chính xác về mặt lịch sử, chiến lược và dân tộc học của Nga? Ukraine độc lập có nên xem như một sự nổi loạn tạm thời khi được đánh giá theo các thuật ngữ lịch sử, chiến lược và dân tộc không? (Nhiều người Nga có khuynh hướng cảm thấy như vậy.) Để trở thành người Nga, một người có nhất thiết phải là người Nga về mặt dân tộc (“Russkyi”), hay chỉ cần là một người Nga về mặt chính trị chứ không nhất thiết về mặt dân tộc (nghĩa là một “Rossyanin” - tương đương với “thuộc về Vương quốc Anh” hay “thuộc về nước Anh”)? Ví dụ, Yeltsin và một số người Nga từng lập luận (với những hậu quả bi thảm) rằng người Chechen tất nhiên có thể nên được coi là người Nga.
Một năm trước khi Liên bang Xô Viết sụp đổ, một người theo chủ nghĩa dân tộc Nga, một trong số ít người nhìn thấy cái kết đang đến gần, đã thốt lên tuyệt vọng:
Chẳng khác nào một thảm họa khủng khiếp, không thể tưởng tượng nổi đối với người dân Nga xảy ra và đất nước bị xé tan, và người dân, bị cướp đoạt và lừa dối bởi lịch sử 1.000 năm của họ, đột nhiên chỉ còn một mình, trong khi những người “gần đây còn là anh em” lấy đi tất cả tài sản và leo lên những “chiếc xuồng cứu sinh mang tên quốc gia” rồi rời đi bỏ lại chiếc tàu mục nát - Vâng, chúng ta chẳng có nơi nào để đi cả…
Quốc gia Nga, hiện thân của “lý tưởng Nga” về cả chính trị, kinh tế và tinh thần, sẽ được xây dựng lại. Nó sẽ tập hợp tất cả những gì tốt nhất từ vương quốc kéo dài 1.000 năm và 70 năm lịch sử Liên Xô đã trôi qua trong một khoảnh khắc2.
Nhưng bằng cách nào? Thật khó để xác định một câu trả lời sẽ được người dân Nga chấp nhận và tình hình thực tế trở nên phức tạp vì cuộc khủng hoảng lịch sử của chính nhà nước Nga. Trong suốt gần như toàn bộ lịch sử của mình, nhà nước đó là một công cụ để đồng thời mở rộng lãnh thổ và phát triển kinh tế. Đó cũng là một nhà nước cố tình không tự coi mình là một công cụ quốc gia thuần túy như truyền thống của các nước Tây Âu, mà tự coi mình là người thực thi một sứ mệnh siêu quốc gia đặc biệt, với “lý tưởng Nga”, được định nghĩa khác nhau theo thuật ngữ tôn giáo, địa chính trị, tư tưởng. Giờ đây, sứ mệnh đó đột nhiên tan biến khi nhà nước bị thu hẹp về mặt lãnh thổ, chỉ còn theo kích cỡ một dân tộc.
Hơn nữa, cuộc khủng hoảng hậu Xô Viết của nhà nước Nga (về mặt “chất” của nó, có thể nói vậy) đã chịu ảnh hưởng của thực tế rằng Nga không chỉ phải đối mặt với thách thức của việc bất ngờ bị tước bỏ khuynh hướng sứ mệnh đế quốc mà còn bị các nhà hiện đại hóa trong nước (và các chuyên gia tư vấn phương Tây của họ) ép buộc rút khỏi vai trò kinh tế truyền thống với tư cách là người cố vấn, chủ sở hữu và người định đoạt của cải xã hội để thu hẹp khoảng cách giữa sự lạc hậu về mặt xã hội của Nga và các khu vực Á-Âu tiên tiến hơn khác. Thay đổi này, về mặt chính trị, không đòi hỏi gì hơn là sự giới hạn mang tính cách mạng đối với vai trò đối nội và đối ngoại của chính nhà nước Nga. Nó gây xáo trộn sâu rộng cho các mô thức đời sống nội bộ đã có từ lâu đời ở Nga, góp phần gây ra những nhìn nhận khác nhau vào sự mất phương hướng địa chính trị trong nội tại giới lãnh đạo chính trị Nga.
Trong bối cảnh rắc rối đó, như người ta có thể dự tính, “Việc nước Nga đi về đâu và Nga là gì?” gợi đến nhiều câu trả lời. Khu vực Âu-Á rộng lớn của Nga từ lâu đã mở đường cho giới lãnh đạo suy nghĩ về mặt địa chính trị của nó. Ngoại trưởng đầu tiên của nước Nga thời hậu đế quốc và hậu Xô Viết, Andrei Kozyrev, đã tái khẳng định đường lối tư tưởng đó khi thực hiện một trong những nỗ lực đầu tiên nhằm xác định một nước Nga mới nên vận hành như thế nào trong bối cảnh quốc tế. Chỉ gần một tháng sau khi Liên Xô tan rã, ông lưu ý: “Khi từ bỏ chủ nghĩa sai lầm, chúng tôi đặt ra hướng đi cho chủ nghĩa thực dụng… Chúng tôi nhanh chóng hiểu rằng địa chính trị… đang thay thế ý thức hệ.”3
Nói chung, có ba lựa chọn địa chiến lược chồng chéo lên nhau vừa một phần vừa toàn bộ, mỗi lựa chọn liên quan mật thiết đến mối bận tâm của Nga với địa vị của nó so với của nước Mỹ và mỗi lựa chọn còn chứa một số biến thể bên trong, được cho là đã trỗi dậy để phản ứng với sự sụp đổ của Liên Xô. Một số trường phái tư tưởng như vậy có thể được phân loại như sau:
Ưu tiên “đối tác chiến lược trưởng thành” với Mỹ, mà đối với một số người ủng hộ nó thì đây thực ra là một thuật ngữ cho một liên minh lãnh đạo chung toàn cầu;
Tập trung vào “liên kết với láng giềng” như là mối quan tâm chính của Nga, với một số người ủng hộ một hình thức hội nhập kinh tế do Moscow thống trị nhưng với những người khác cũng mong đợi sự phục hồi khả dĩ đến từ một số biện pháp kiểm soát theo kiểu đế quốc, từ đó tạo ra một sức mạnh có khả năng cân bằng giữa Mỹ và châu Âu hơn; và
Một liên minh đối nghịch, bao gồm liên minh của các dân tộc Á-Âu có xu hướng chống Hoa Kỳ, được thành lập nhằm giảm bớt ưu thế của nước này ở khu vực Á-Âu.
Mặc dù ý đầu tiên nêu trên ban đầu chiếm ưu thế trong nội bộ giới chức mới cầm quyền của Tổng thống Yeltsin, nhưng ý tưởng thứ hai nổi lên thay thế ngay sau đó, một phần khởi từ những phê phán đối với các ưu tiên địa chính trị của Yeltsin; ý thứ ba được nhắc đến không lâu sau này, vào khoảng giữa những năm 1990, để phản ứng với sự thật đang lan truyền rằng địa chiến lược thời hậu Xô Viết của Nga vừa không rõ ràng vừa thất bại. Khi điều đó xảy ra, cả ba ý tưởng đều được chứng minh là không khôn ngoan và đều xuất phát từ quan điểm khá ảo tưởng về sức mạnh hiện tại, tiềm năng quốc tế và lợi ích nước ngoài của Nga.
Trước sự sụp đổ của Liên Xô, thái độ ban đầu của Yeltsin đại diện cho sự hình thành khái niệm “phương Tây hóa”, quan điểm này tuy cũ nhưng chưa bao giờ hoàn toàn thành công trong tư tưởng chính trị Nga: rằng Nga thuộc về phương Tây, nên là một phần của phương Tây, và nên bắt chước phương Tây hết mức có thể ở sự phát triển trong nước của chính mình. Nó được chính Yeltsin và ngoại trưởng của ông tán thành, Yeltsin khá thẳng thắn khi cáo buộc di sản của Đế quốc Nga. Phát biểu tại Kiev vào ngày 19 tháng 11 năm 1990, rằng người Ukraine hoặc người Chechen có thể quay lưng lại với mình, Yeltsin đã hùng hồn tuyên bố:
Nga không khao khát trở thành trung tâm của một loại hình đế quốc mới… Nga hiểu rõ hơn ai hết sự nguy hiểm của vai trò đó, bởi vì chính Nga đã thực hiện vai trò đó trong một thời gian dài. Nga đã đạt được gì từ đó? Rốt cục là người Nga có trở nên tự do hơn? Giàu có hơn? Hạnh phúc hơn không?… lịch sử đã dạy chúng ta rằng một dân tộc cai trị các dân tộc khác không thể gặp may mắn.
Thái độ thân thiện có chủ ý được phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, chấp thuận đối với giới lãnh đạo mới của Nga là nguồn khích lệ cho “sự phương Tây hóa” sau thời Xô Viết trên cơ sở chính sách đối ngoại của Nga. Nó củng cố khuynh hướng thân Mỹ và dụ dỗ cá nhân từng thành viên trong giới lãnh đạo mới của Nga. Những người này được tâng bốc lên ngang tầm với tên tuổi những nhà hoạch định chính sách hàng đầu của thế giới siêu cường, họ cũng thấy thật dễ dàng khi tự lừa dối bản thân rằng họ cũng là những nhà lãnh đạo của một siêu cường quốc. Trong khi người Mỹ nêu khẩu hiệu “mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện”4 cho những liên kết giữa Washington và Moscow, thì đối với người Nga, dường như một liên minh dân chủ Nga-Mỹ mới nhằm thay thế cho hình thức đối đầu trước đây đã được thần thánh hóa.
Liên minh đó sẽ có phạm vi toàn cầu. Do đó, Nga không chỉ kế thừa hợp pháp “di sản” của Liên Xô cũ mà còn là đối tác thực tế trong một mái nhà chung toàn cầu, dựa trên sự bình đẳng thực sự. Như các nhà lãnh đạo mới của Nga không bao giờ mệt mỏi khi khẳng định, một liên minh như vậy có nghĩa là không chỉ phần còn lại của thế giới nên công nhận Nga ngang hàng Mỹ, mà còn không có vấn đề toàn cầu nào có thể được xử lý hoặc giải quyết mà không có sự tham gia và/hoặc cho phép của Nga. Mặc dù không được công khai nêu ra, nhưng ẩn ý trong ảo tưởng này cũng là ý niệm cho rằng Trung Âu bằng cách nào đó sẽ hoặc thậm chí có thể chọn để vẫn tiếp tục là một khu vực có sự gần gũi chính trị đặc biệt với Nga. Việc giải thể khối Warsaw và Hội đồng Tương trợ Kinh tế (Comecon) sẽ không làm cho các thành viên cũ của nó gia nhập NATO hay thậm chí EU.
Trong khi đó, viện trợ của phương Tây sẽ cho phép chính phủ Nga tiến hành cải cách trong nước, rút ảnh hưởng nhà nước ra khỏi đời sống kinh tế và cho phép củng cố các thiết chế dân chủ. Sự phục hồi kinh tế của Nga, vị thế đặc biệt của nó ở tư cách đồng đối tác với Mỹ và sức hấp dẫn tuyệt đối của nó sau đó sẽ khuyến khích các quốc gia mới có được độc lập thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS), vì biết ơn nước Nga mới đã không đe dọa họ và vì họ ngày càng nhận thức được lợi ích của một số hình thức liên minh với Nga nên chấp nhận tham gia hội nhập kinh tế và chính trị ngày càng gần gũi hơn với Nga, qua đó mà tăng cường phạm vi và sức mạnh của Nga.
Vấn đề của cách tiếp cận này là nó vô nghĩa ở cả thực tiễn trong nước và quốc tế. Khi khái niệm về “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” được tâng bốc, nó cũng đồng thời là sự lừa dối. Mỹ không có ý định chia sẻ quyền lực toàn cầu với Nga và cũng không thể, ngay cả khi họ muốn. Nước Nga mới này chỉ đơn giản là quá yếu, bị tàn phá quá mức sau ba phần tư thế kỷ, trở nên quá lạc hậu về mặt xã hội nên khó có thể trở thành một đối tác toàn cầu thực sự. Theo quan điểm của Washington, Đức, Nhật Bản và Trung Quốc mới có tầm quan trọng và ảnh hưởng ở mức độ đáng kể. Hơn nữa, một số vấn đề địa chiến lược trung tâm của lợi ích quốc gia đối với Mỹ ở châu Âu, Trung Đông và Viễn Đông khác xa với nguyện vọng chung của Mỹ và Nga. Một khi những khác biệt bắt đầu lộ diện, sự không cân xứng về sức mạnh chính trị, quyền lực tài chính, đổi mới công nghệ và sức hấp dẫn văn hóa đã khiến “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” nghe có vẻ rỗng tuếch và ngày càng gây ấn tượng cho nhiều người Nga rằng nó được cố tình tạo ra để lừa dối nước Nga.
Sự thất vọng đó đã có thể tránh được nếu trước đó, trong “tuần trăng mật” Mỹ-Nga, Mỹ chấp nhận khái niệm mở rộng NATO, đồng thời đưa ra “một thỏa thuận mà Nga không thể từ chối” cho mối quan hệ hợp tác đặc biệt giữa Nga và NATO. Nếu Mỹ rõ ràng và dứt khoát chấp nhận ý tưởng mở rộng liên minh, với quy định rằng Nga nên bằng cách nào đó được đưa vào quá trình, thì có lẽ cảm giác thất vọng sau đó của Moscow với “mối quan hệ đối tác toàn diện” cũng như sự suy yếu dần về vị thế chính trị của phe phương Tây hóa ở Kremlin có thể đã được ngăn chặn.
Thời điểm thực hiện việc đó là vào nửa cuối năm 1993, ngay sau khi Yeltsin công khai tán thành rằng lợi ích của Ba Lan khi gia nhập Liên minh xuyên Đại Tây Dương là phù hợp với “lợi ích của Nga” vào tháng 8 cùng năm. Thay vào đó, chính quyền của ông Clinton, sau đó vẫn theo đuổi chính sách “nước Nga trước nhất”, còn thêm hai năm nhiệm kỳ nữa, trong khi Điện Kremlin đã thay đổi giọng điệu và ngày càng trở nên thù địch với những tín hiệu mới nhưng thiếu quyết đoán về ý định mở rộng NATO của Mỹ. Năm 1996, vào thời điểm Washington ra quyết định rằng mở rộng NATO chính là mục tiêu trọng tâm trong chính sách của nước này nhằm hình thành một cộng đồng châu Âu-Đại Tây Dương lớn hơn và an toàn hơn, thì người Nga lại tự giam mình vào đường lối chống đối cứng rắn. Do đó, năm 1993 có thể được coi là năm của một cơ hội lịch sử bị bỏ lỡ.
Phải thừa nhận rằng, không phải tất cả các mối lo ngại của Nga liên quan đến việc mở rộng NATO đều thiếu tính hợp pháp hoặc bị thúc đẩy bởi các động cơ xấu. Một số đối thủ, đặc biệt là trong quân đội Nga, vốn là một phần của tâm lý Chiến tranh Lạnh, xem sự mở rộng của NATO không phải là một phần không thể thiếu trong sự phát triển của riêng châu Âu mà là sự phát triển của một liên minh do Mỹ đứng đầu và vẫn hướng sự thù địch vào nước Nga. Đối với chính sách đối ngoại của Nga, một số nhà lãnh đạo, hầu hết từng là quan chức dưới thời Liên Xô cũ, đã duy trì quan điểm địa chiến lược lâu đời cho rằng Mỹ không có chỗ đứng ở Á-Âu và việc mở rộng NATO chủ yếu bắt nguồn từ mong muốn tăng cường phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Họ chống đối là vì hy vọng rằng một Trung Âu không bị ràng buộc một ngày nào đó sẽ trở về nằm trong phạm vi ảnh hưởng địa chính trị của Moscow, một khi Nga đã lấy lại được sức mạnh của mình.
Nhưng nhiều nhà dân chủ Nga cũng lo ngại rằng việc mở rộng NATO có nghĩa là Nga sẽ bị bỏ lại ngoài châu Âu, bị tẩy chay về mặt chính trị và bị coi là không xứng đáng để làm thành viên trong khuôn khổ thiết chế của văn minh châu Âu. Sự bất an về văn hóa đã kết hợp với nỗi lo chính trị, khiến cho sự mở rộng của NATO dường như là đỉnh cao của chính sách phương Tây lâu đời được thiết kế để cô lập Nga, khiến nước này chỉ còn một mình và dễ bị tổn thương trước những kẻ thù khác. Hơn nữa, các nhà dân chủ Nga chỉ đơn giản là không thể thâu nhận được mức độ phẫn nộ của người dân Trung Âu sau nửa thế kỷ chịu sự thống trị của Moscow, hoặc mong muốn trở thành một phần của hệ thống châu Âu-Đại Tây Dương lớn hơn của chính họ.
Sau khi cân nhắc, một điều chắc chắn rằng cả sự thất vọng lẫn yếu đi của phe phương Tây hóa tại Nga đều không thể tránh khỏi. Vì một lý do là, nội bộ giới lãnh đạo mới của Nga hoàn toàn bị chia rẽ, cả tổng thống lẫn ngoại trưởng Nga đều không có khả năng lãnh đạo địa chiến lược sao cho nhất quán, không thể xác định rõ ràng những gì mà một nước Nga mới cần ở châu Âu, cũng không thể đánh giá các hạn chế của thực trạng nước Nga suy yếu dưới nhãn quan thực tế. Các tổ chức dân chủ bị Moscow trói buộc về mặt chính trị đã không thể khẳng định mạnh mẽ rằng một nước Nga dân chủ không chống lại sự mở rộng cộng đồng dân chủ xuyên Đại Tây Dương và rằng họ muốn được gắn kết với cộng đồng đó. Ảo tưởng về việc chia sẻ vị thế toàn cầu với Mỹ khiến giới lãnh đạo chính trị Moscow khó từ bỏ được ý tưởng về một vị trí địa chính trị đặc quyền đối với Nga, không chỉ trong khu vực của chính Liên Xô cũ mà ngay cả đối với các quốc gia vệ tinh Trung Âu trước đây.
Những diễn tiến này đã nằm trong tay những người theo chủ nghĩa dân tộc (mà vào năm 1994 đã bắt đầu khôi phục được tiếng nói của mình) và những người theo chủ nghĩa quân phiệt (mà về sau trở thành những tiếng nói hậu thuẫn quan trọng cho Yeltsin ở trong nước). Những phản ứng ngày càng khó chịu và đôi khi đe dọa họ dành cho nguyện vọng của người Trung Âu chỉ càng tăng thêm quyết tâm ở các quốc gia vệ tinh trước đây, vốn chỉ quan tâm đến việc vừa thoát khỏi vòng cai trị của Nga để chuyển sang nơi trú ẩn an toàn của NATO.
Khoảng cách giữa Washington và Moscow ngày càng gia tăng thêm trước việc Kremlin miễn cưỡng chối bỏ tất cả hành động quân sự ở nước ngoài của Stalin. Dư luận phương Tây, không chỉ ở Scandinavia mà còn ở Hoa Kỳ, đặc biệt thấy bối rối vì thái độ mơ hồ Nga dành cho các nước cộng hòa Baltic. Mặc dù thừa nhận sự độc lập của họ và không siết chặt tư cách thành viên của họ trong CIS, ngay cả các nhà lãnh đạo dân chủ của Nga cũng có thời kỳ phải dùng đến cách đe dọa để có được sự đối xử ưu tiên hơn cho các cộng đồng người Nga từng được đưa đến định cư có chủ đích ở các nước này dưới thời Stalin cầm quyền. Bầu không khí càng mờ mịt hơn trước biểu hiện miễn cưỡng thấy rõ của Kremlin trong việc lên án rằng thỏa thuận bí mật giữa Đức Quốc xã và Liên Xô năm 1939 đã mở đường cho việc sáp nhập các nước cộng hòa này vào Liên Xô. Thậm chí, năm năm sau khi Liên Xô sụp đổ, phát ngôn viên của Điện Kremlin đã nhấn mạnh (trong tuyên bố chính thức ngày 10 tháng 9 năm 1996) rằng vào năm 1940, các nước vùng Baltic đã tự nguyện “gia nhập” Liên Xô.
Giới lãnh đạo Nga thời hậu Xô Viết rõ ràng kỳ vọng rằng phương Tây sẽ hỗ trợ, hoặc ít nhất là không cản trở, việc khôi phục vai trò trung tâm của Nga trong không gian hậu Xô Viết. Do đó, họ phẫn nộ khi nhận thấy phương Tây sẵn sàng giúp đỡ các quốc gia hậu Xô Viết mới độc lập củng cố sự tồn tại chính trị riêng biệt của mình. Ngay cả khi cảnh báo rằng “một cuộc đối đầu với Hoa Kỳ… là một lựa chọn nên tránh,” các nhà phân tích cao cấp của Nga về chính sách đối ngoại của Mỹ lập luận (không hẳn không chính xác) rằng Hoa Kỳ đang “tìm kiếm cách tổ chức lại mối quan hệ giữa các quốc gia Á-Âu… theo đó, không nên chỉ có một cường quốc hàng đầu trên lục địa mà phải có nhiều cường quốc trung bình, tương đối ổn định và mạnh vừa phải… nhưng nhất thiết phải thua kém Hoa Kỳ về năng lực cá nhân hoặc thậm chí là tập thể.”5
Về vấn đề này, Ukraine rất quan trọng. Việc Mỹ, đặc biệt là vào năm 1994, ngày càng có xu hướng dành ưu tiên lớn cho quan hệ Mỹ-Ukraine và giúp đỡ Ukraine duy trì nền tự do dân tộc mới của mình đã bị Moscow, ngay cả “phe thân phương Tây”, xem như một chính sách nhắm đến lợi ích sống còn của Nga trong việc đưa Ukraine trở lại với khu vực chung. Nhiều thành viên trong giới lãnh đạo chính trị của Nga vẫn tin rằng Ukraine, bằng cách nào đó, cuối cùng sẽ lại “tái hợp nhất.”6 Kết quả là, câu hỏi địa chính trị và lịch sử của Nga về tình trạng riêng biệt của Ukraine đã va chạm với quan điểm của Mỹ cho rằng một nước Nga đế quốc không thể là một nước Nga dân chủ.
Thêm vào đó, có những lý do thuần túy nội bộ chỉ ra rằng một “mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” giữa hai “nền dân chủ” chỉ là ảo tưởng. Nga đã lạc hậu và bị tàn hoại nặng nề nên khó lòng trở thành đối tác dân chủ khả thi của Hoa Kỳ. Thực tế quan trọng đó không thể bị những lời nói hoa mỹ đang thổi phồng mối quan hệ đối tác che khuất. Chưa hết, nước Nga thời hậu Xô Viết chỉ mới phá đi một phần đầu dây mối nhợ với quá khứ. Hầu như tất cả các nhà lãnh đạo “dân chủ” của họ, ngay cả khi đã thực sự vỡ mộng với quá khứ của Liên Xô, đều không chỉ là sản phẩm mà còn từng là thành viên cao cấp của giới cầm quyền cũ trong hệ thống Xô Viết. Họ không phải là những người bất đồng chính kiến trước đây, như ở Ba Lan hay Cộng hòa Séc. Các tổ chức chủ chốt của Liên Xô cũ mặc dù đã suy yếu, mất đi tinh thần và tính tham nhũng nhưng vẫn còn đó. Tượng trưng cho thực tế đó và cho sự tồn tại còn sót lại của quá khứ nằm ngay chính trung tâm lịch sử Moscow: lăng Lenin.
Điểm yếu chính trị của giới lãnh đạo dân chủ mới kết hợp với chính quy mô của cuộc khủng hoảng kinh tế Nga. Nhu cầu cải cách sâu rộng - cụ thể là nhà nước Nga rút ảnh hưởng khỏi nền kinh tế - đã kích khởi những kỳ vọng quá mức cho phương Tây, đặc biệt là dòng viện trợ của Mỹ. Mặc dù viện trợ đó, chủ yếu là từ Đức và Mỹ, dần dần chiếm tỷ lệ lớn, nhưng ngay cả trong hoàn cảnh thuận lợi nhất, nó vẫn không thể thúc đẩy kinh tế phục hồi nhanh chóng. Bất mãn xã hội theo sau đó đã cung cấp thêm nền tảng cho một dàn hợp xướng những nhà phê bình thất vọng, cho rằng quan hệ đối tác với Hoa Kỳ là giả tạo, có lợi cho Mỹ nhưng gây tổn hại cho Nga.
Tóm lại, các điều kiện tiên quyết chủ quan và khách quan cho một mối quan hệ đối tác toàn cầu hiệu quả từng tồn tại trong những năm ngay sau khi Liên Xô sụp đổ. Những người dân chủ “thân phương Tây”, đơn giản là muốn quá nhiều và chỉ có thể đáp lại quá ít. Họ mong muốn có một mối quan hệ đối tác bình đẳng, hay nói đúng hơn là một liên minh đa diện với Mỹ, một quyền hạn tương đối tự do trong CIS và một vùng trung lập địa chính trị ở Trung Âu. Tuy nhiên, sự lạc quan họ dành cho lịch sử Liên Xô, sự thiếu thực tế của họ đối với quyền lực toàn cầu, chiều sâu của cuộc khủng hoảng kinh tế và việc thiếu vắng hỗ trợ xã hội rộng mở khiến họ không thể mang lại một nước Nga thực sự dân chủ và ổn định mà khái niệm hợp tác bình đẳng ngụ ý. Trước tiên, Nga phải trải qua một quá trình cải cách chính trị kéo dài, một quá trình ổn định dân chủ cũng lâu không kém, một quá trình hiện đại hóa kinh tế-xã hội còn kéo dài hơn thế, và sau nữa là phải quản lý một sự chuyển đổi sâu sắc hơn từ tư tưởng đế quốc sang tư duy quốc gia liên quan đến thực tiễn địa chính trị mới không chỉ trong Trung Âu mà còn đặc biệt trong Đế quốc Nga cũ trước khi một mối quan hệ hợp tác thực sự với Mỹ có thể trở thành một lựa chọn địa chính trị khả thi.
Dưới tình hình này, không có gì đáng ngạc nhiên khi ưu tiên “liên kết với láng giềng” trở thành cái cớ chỉ trích chính nhắm vào lựa chọn thân phương Tây cũng như việc thay thế chính sách đối ngoại quá sớm. Nó dựa trên lập luận rằng khái niệm “đối tác” đã xem thường điều quan trọng nhất đối với Nga: cụ thể là, mối quan hệ của nó với các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ. “Liên kết với láng giềng” đã trở thành công thức rút gọn cho việc vận động một chính sách tập trung chủ yếu vào nhu cầu tái cấu trúc một khuôn khổ khả thi nào đó, với Moscow là trung tâm đưa ra quyết định, trong không gian địa chính trị từng do Liên Xô làm thống soái. Về giả thuyết này, đã có một sự đồng thuận rộng rãi cho rằng chính sách tập trung vào phương Tây, đặc biệt là ở Mỹ, đã mang lại ít lợi ích và gây tốn kém quá nhiều. Nó chỉ đơn giản là giúp phương Tây dễ dàng khai thác các cơ hội có được từ sự sụp đổ của Liên Xô.
Tuy nhiên, trường phái “liên kết với láng giềng” là một chiếc ô lớn mà nhiều quan điểm địa chính trị khác nhau có thể co cụm bên dưới. Dưới bóng ô dù không chỉ có các nhà chức trách và nhà hoạch định kinh tế (và cả một số “người thân phương Tây”) vốn tin rằng CIS có thể phát triển thành một phiên bản EU do Moscow lãnh đạo, mà còn có cả những người vốn đã thấy trước rằng hội nhập kinh tế chỉ đơn thuần là một trong các công cụ phục hồi đế quốc vận hành được dưới chiếc ô của CIS hoặc thông qua các thỏa thuận đặc biệt (được xây dựng vào năm 1996) giữa Nga và Belarus hoặc giữa Nga, Belarus, Kazakstan và Kyrgyzstan; cũng có cả những nhà lãng mạn thân Slav ủng hộ một Liên minh cộng đồng Slav của Nga, Ukraine và Belarus, và cuối cùng là những người đề xướng quan niệm xem chủ nghĩa Á-Âu như là một định nghĩa trọng yếu của sứ mệnh lịch sử kéo dài của Nga vốn có phần huyền bí.
Ở nghĩa hẹp nhất, ưu tiên “liên kết với láng giềng” liên quan đến đề xuất hoàn toàn hợp lý rằng trước tiên Nga phải tập trung vào các mối quan hệ với các quốc gia mới độc lập, đặc biệt là khi tất cả các nước này đều gắn liền với Nga thông qua thực tế hiện hữu của chính sách thúc đẩy phụ thuộc kinh tế lẫn nhau trong khối Liên Xô cũ. Điều đó tạo ra cả ý nghĩa về kinh tế và địa chính trị. “Không gian kinh tế chung”, hay được các nhà lãnh đạo mới của Nga đề cập, là một thực tế không thể bỏ qua đối với giới lãnh đạo ở các quốc gia mới độc lập. Hợp tác, thậm chí hội nhập, là một nhu cầu kinh tế. Do đó, thúc đẩy các thiết chế CIS chung không chỉ là việc bình thường mà còn đáng mong đợi, cho phép đảo ngược sự gián đoạn và tan vỡ kinh tế mà sự tan rã chính trị của Liên Xô gây ra.
Đối với một số người Nga, thúc đẩy hội nhập kinh tế là một phản ứng có hiệu quả về mặt chức năng và trách nhiệm chính trị đối với những gì đã xảy ra. Sự tương đồng với EU thường được trích dẫn là phù hợp với tình hình hậu Xô Viết. Việc phục hồi đế quốc bị những người ủng hộ ôn hòa hơn với hội nhập kinh tế từ chối thẳng thừng. Ví dụ, một báo cáo có ảnh hưởng mang tên “Một chiến lược đối với Nga” do Hội đồng Chính sách Đối ngoại và Quốc phòng (gồm một nhóm nhân vật đáng chú ý và các quan chức chính phủ) ban hành vào đầu tháng 8 năm 1992 rất ủng hộ “hội nhập khai sáng thời hậu đế quốc” như một chương trình thích hợp cho “không gian kinh tế chung” thời hậu Xô Viết.
Tuy nhiên, việc nhấn mạnh vào “liên kết với láng giềng” không chỉ đơn thuần là một học thuyết chính trị lành tính về hợp tác kinh tế khu vực. Nội dung địa chính trị của nó có âm hưởng đế quốc. Ngay cả bản báo cáo năm 1992 tương đối ôn hòa đã nói về một nước Nga hồi phục cuối cùng sẽ thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với phương Tây, trong đó Nga sẽ giữ vai trò điều tiết tình hình ở Đông Âu, Trung Á và Viễn Đông. Những người biện hộ khác cho ưu tiên này đã không hề nao núng, nói rõ ràng về “vai trò độc quyền” của Nga trong không gian hậu Xô Viết và cáo buộc phương Tây tham gia chính sách chống Nga bằng cách viện trợ cho Ukraine và các quốc gia mới độc lập khác.
Một ví dụ điển hình nhưng không có ý nghĩa cực đoan là lập luận của Y. Ambartsumov - chủ tịch năm 1993 của Ủy ban Đối ngoại Quốc hội và là người từng ủng hộ việc ưu tiên “quan hệ đối tác” - đã công khai khẳng định rằng không gian của Liên Xô cũ là phạm vi ảnh hưởng địa chính trị độc quyền của nước Nga. Vào tháng 1 năm 1994, ông được nhắc đến trong phát biểu của một người nhiệt tình ủng hộ việc ưu tiên thân phương Tây, Ngoại trưởng Andrei Kozyrev; Kozyrev tuyên bố rằng nước Nga “phải bảo vệ sự hiện diện quân sự của mình ở các khu vực chịu ảnh hưởng của nó trong nhiều thế kỷ.” Trên thực tế, ngày 8 tháng 4 năm 1994, tờ Izvestía7- đưa tin Nga đã giữ lại thành công không dưới hai mươi tám căn cứ quân sự trên lãnh thổ các quốc gia mới độc lập, và một đường vẽ trên bản đồ liên kết các cuộc triển khai của quân đội Nga ở Kaliningrad, Moldova, Crimea, Armenia, Tajikistan và quần đảo Kuril gần như khớp với các đường biên giới bên ngoài của Liên Xô cũ (xem bản đồ ở trang 177).
Tháng 9 năm 1995, Tổng thống Yeltsin đã ban hành một tài liệu chính thức thể hiện mục tiêu chính sách của Nga đối với CIS:
Mục tiêu chính của chính sách Nga đối với CIS là tạo ra một hiệp hội hội nhập cả về kinh tế và chính trị của các quốc gia có khả năng khẳng định vị trí thích hợp của mình trong cộng đồng thế giới… nhằm củng cố Nga trở thành thế lực hàng đầu trong việc hình thành một hệ thống quan hệ kinh tế và chính trị liên quốc gia mới trên lãnh thổ của không gian hậu Liên Xô.
Chúng ta nên lưu ý sự nhấn mạnh vào khía cạnh chính trị của nỗ lực này, có liên quan đến một thực thể duy nhất khẳng định vị trí “của nó” trong hệ thống thế giới và vai trò thống trị của Nga trong thực thể mới đó. Để nhấn mạnh này thêm phần chắc chắn, Moscow khẳng định mối quan hệ chính trị và quân sự giữa Nga và CIS mới được thành lập cũng được củng cố: một bộ tư lệnh quân sự chung nên được tạo ra; các lực lượng vũ trang của các quốc gia CIS được liên kết bằng một hiệp ước chính thức; các biên giới “bên ngoài” CIS phải chịu sự kiểm soát từ một trung tâm (là Moscow); các lực lượng Nga đóng vai trò quyết định trong bất kỳ hành động gìn giữ hòa bình nào trong CIS; cuối cùng, một chính sách đối ngoại chung được định hình trong CIS với các tổ chức chính của nó đều được đặt tại Moscow (chứ không phải ở Minsk như đã thỏa thuận ban đầu vào năm 1991), và tổng thống Nga chủ trì các cuộc họp thượng đỉnh CIS.
Đó không phải là tất cả. Tài liệu tháng 9 năm 1995 cũng tuyên bố rằng:
Truyền hình và đài phát thanh Nga ở gần nước ngoài cần được đảm bảo, việc phổ biến báo chí Nga trong khu vực cần được hỗ trợ, và Nga nên đào tạo các cán bộ quốc gia cho các nước CIS.
Cần đặc biệt chú ý đến việc khôi phục vị trí của Nga như là trung tâm giáo dục chính trên lãnh thổ của không gian hậu Xô Viết, luôn ghi nhớ việc giáo dục thế hệ trẻ ở các quốc gia CIS theo tinh thần quan hệ thân thiện với Nga là cần thiết ra sao.
Tâm thế này được phản ánh qua sự kiện Hạ viện Duma Nga đã đi xa đến mức tuyên bố việc giải thể Liên Xô là vô giá trị hồi đầu năm 1996. Ngoài ra, trong mùa xuân cùng năm, Nga đã ký hai thỏa thuận quy định hội nhập kinh tế và chính trị chặt chẽ hơn giữa Nga và các thành viên dễ tính hơn của CIS. Một thỏa thuận, được ký kết với nghi thức rất trọng thể, ghi nhận các khả năng mang lại một liên minh giữa Nga và Belarus trong “Cộng đồng các nước cộng hòa có chủ quyền” mới (cách viết tắt “SSR” của Nga làm liên tưởng đến “SSSR” của Liên Xô), các thỏa thuận khác được Nga, Kazakstan, Belarus và Kyrgyzstan ký kết đã quy định việc thành lập dài hạn của “Cộng đồng các quốc gia hội nhập.” Cả hai sáng kiến đều cho thấy sự thiếu kiên nhẫn đối với tiến trình hội nhập chậm chạp của CIS và quyết tâm của Nga nhằm kiên trì thúc đẩy nó.
Ý tưởng “liên kết với láng giềng” nhấn mạnh việc củng cố cơ chế trung tâm của CIS, do đó đã hòa vào nhau vài phần sự dựa dẫm vào thuyết định mệnh kinh tế khách quan với một liều mạnh tính kiên định đế quốc chủ quan. Nhưng cả hai đều không mang lại một câu trả lời mang tính địa chính trị và triết lý cho câu hỏi vẫn còn đang vất vưởng: Nước Nga là gì, sứ mệnh thực sự và mục tiêu đúng đắn của nó là gì?
Đây chính là khoảng trống khiến cho chủ nghĩa Á-Âu trở nên thu hút, nỗ lực lấp đầy bằng việc tập trung vào “liên kết với láng giềng”. Điểm khởi đầu cho định hướng này, được định nghĩa bằng thuật ngữ văn hóa hay thậm chí huyền bí, đã là tiền đề cho rằng về mặt văn hóa và địa chính trị, Nga không hẳn là châu Âu và không hẳn là châu Á và do đó nó có bản sắc Á-Âu đặc trưng của riêng mình. Bản sắc đó là di sản từ việc nắm giữ một không gian độc đáo của Nga đối với một vùng đất rộng lớn nằm giữa Trung Âu và các bãi biển của Thái Bình Dương, di sản của một nhà nước đế quốc mà Moscow đã lập nên trong suốt bốn thế kỷ mở rộng về phía đông. Sự mở rộng đó đã đồng hóa vào nước Nga một lượng lớn dân số không phải người Nga và không phải người châu Âu, do đó cũng tạo ra một cá tính chính trị và văn hóa Á-Âu hiếm có.
Chủ nghĩa Á-Âu với tư cách một học thuyết không phải xuất phát từ thời hậu Xô Viết. Nó nổi lên lần đầu vào thế kỷ 19 nhưng trở nên phổ biến hơn vào thế kỷ 20. Những người Nga lưu vong chính trị đặc biệt tích cực truyền bá học thuyết này như một sự thay thế cho chủ nghĩa Xô Viết, thừa nhận rằng sự thức tỉnh chủ nghĩa dân tộc của những dân tộc không phải Nga trên khắp Liên Xô đòi hỏi một học thuyết siêu quốc gia bao trùm.
Chủ nghĩa Á-Âu đã được khoác cho cái áo học thuật bóng bẩy trong các tác phẩm được trích dẫn nhiều của Lev Gumilev - nhà sử gia, địa lý, và dân tộc học, tác giả của các cuốn sách Medieval Russia and the Great Steppe (Nước Nga Trung cổ và Đại Thảo nguyên), The Rhythms of Eurasia (Nhịp điệu Á-Âu) và The Geography of Ethnos in Historical Time (Địa dư học của huyết tộc đoàn thể trong thời gian lịch sử), người đã gây ảnh hưởng lớn lên các đề xuất cho rằng Á-Âu là bối cảnh địa lý văn hóa cho “bản sắc” riêng biệt của dân tộc Nga, hệ quả của sự cộng sinh lịch sử giữa họ và các dân tộc không phải Nga của các vùng thảo nguyên rộng lớn, từ đó tạo ra một bản sắc văn hóa và tinh thần Á-Âu độc đáo. Gumilev cảnh báo rằng sự thích nghi với phương Tây sẽ không có ý nghĩa gì đối với người dân Nga ngoài việc để mất đi “Huyết tộc đoàn thể và linh hồn” của riêng họ.
Những quan điểm này đã được một loạt các chính trị gia dân tộc chủ nghĩa Nga lặp lại, tuy có phần thô sơ hơn. Chẳng hạn, cựu phó tổng thống của Yeltsin, ông Aleksandr Rutskoi, đã khẳng định rằng, “từ việc nhìn vào tình hình địa chính trị của nước ta, có thể thấy rõ ràng Nga đại diện cho cây cầu nối duy nhất giữa châu Á và châu Âu. Bất cứ ai trở thành chủ nhân của không gian này sẽ trở thành chủ nhân của thế giới.8” Đối thủ năm 1996 của Yeltsin, Gennadii Zyuganov, mặc dù là một người mác-xít theo tư tưởng Lenin, đã bao bọc giá trị thần bí của chủ nghĩa Á-Âu quanh vai trò giáo điều và tâm linh đặc biệt của người Nga trong không gian Á-Âu rộng lớn, với lập luận rằng nước Nga do đó được ban cho một khuynh hướng văn hóa độc đáo và một cơ sở địa lý đặc biệt thuận lợi cho việc thực hiện vai trò lãnh đạo toàn cầu.
Một phiên bản thực tế và điều độ hơn của chủ nghĩa Á-Âu cũng được nhà lãnh đạo Nurultan Nazarbayev của Kazakstan đề cao. Phải đối mặt ngay tại quê nhà với sự phân chia dân số gần như đồng đều giữa người Kazak bản địa với người định cư Nga và đang tìm kiếm một công thức có thể làm giảm bớt áp lực của Moscow lên hội nhập chính trị, Nazarbayev tuyên truyền khái niệm “Liên minh Á-Âu” nhằm thay thế một CIS vô dụng và không hiệu quả. Mặc dù phiên bản của ông thiếu đi nội dung huyền bí của tư duy Á-Âu truyền thống và chắc chắn không có vai trò tuyên truyền đặc biệt nào về việc người Nga lãnh đạo vùng Á-Âu, nhưng nó xuất phát từ quan niệm Á-Âu - được định nghĩa về mặt địa lý tương tự như Liên Xô - đã cấu tạo nên một tổng thể có hệ thống và theo đó cũng phải có một chiều kích chính trị.
Ở một mức độ nào đó, nỗ lực công nhận ý tưởng “liên kết với láng giềng”, xem đó là ưu tiên cao nhất trong tư duy địa chính trị của Nga là hợp lý theo nghĩa: một số giải pháp trật tự và điều tiết giữa nước Nga hậu đế quốc và các quốc gia mới độc lập là tuyệt đối cần thiết, xét về mặt an ninh và kinh tế. Tuy nhiên, điều khiến phần lớn những thảo luận trở nên siêu thực là khái niệm còn sót lại cho rằng trong một số hình thức, dù xuất hiện một cách tự nguyện (vì kinh tế) hay do hậu quả của việc Nga phục hồi quyền lực đã mất của mình - không nói về một khu vực Á-Âu đặc biệt của Nga hay sứ mệnh Á-Âu/Slav - thì “sự hội nhập” chính trị của đế chế cũ là đáng kỳ vọng và khả thi.
Về vấn đề này, những so sánh với EU thường được viện dẫn đã bỏ qua một điểm khác biệt quan trọng: EU, dù cho phép Đức gây ảnh hưởng đặc biệt, không bị chi phối bởi một thế lực duy nhất làm lu mờ tất cả các thành viên khác, dẫu là vấn đề liên quan đến GNP, dân số hay lãnh thổ. Tổ chức này cũng không phải kế thừa một đế chế quốc gia, với các thành viên sau tan rã đâm ra nghi ngờ sâu sắc rằng “hội nhập” là một cái tên khác cho hình thức phụ thuộc mới. Mặc dù vậy, có thể dễ dàng hình dung ra phản ứng của các quốc gia châu Âu nếu Đức tuyên bố chính thức rằng mục tiêu của họ là củng cố và mở rộng vai trò hàng đầu của mình tại EU, giống như các tuyên bố của Nga vào tháng 9 năm 1995 được trích dẫn ở trên.
Đối sánh với EU còn mắc một thiếu sót khác. Các nền kinh tế Tây Âu cởi mở và tương đối phát triển đã sẵn sàng cho hội nhập dân chủ, phần lớn người Tây Âu nhận thấy lợi ích kinh tế và chính trị hữu hình trong việc hội nhập đó. Các nước Tây Âu nghèo hơn cũng có thể được hưởng lợi từ các khoản trợ cấp đáng kể. Ngược lại, các quốc gia mới độc lập coi Nga như một nguy cơ gây bất ổn chính trị vì vẫn còn đó tham vọng độc đoán, và là một chướng ngại trên quá trình họ tham gia nền kinh tế toàn cầu và tiếp cận những đầu tư nước ngoài cần thiết.
Đặc biệt, quan niệm của Moscow về “hội nhập” bị phản đối mạnh mẽ ở Ukraine. Các nhà lãnh đạo ở nước này đã nhanh chóng nhận ra rằng “sự hội nhập” như vậy, đặc biệt khi Nga tỏ thái độ dè chừng tính hợp pháp của nền độc lập Ukraine, cuối cùng sẽ dẫn đến việc mất chủ quyền quốc gia. Hơn nữa, cách đối xử theo kiểu áp bức của Nga đối với chính quyền mới của Ukraine, thông qua việc không sẵn sàng công nhận biên giới của Ukraine, đặt câu hỏi về quyền lợi của Ukraine đối với Crimea, sự khăng khăng của họ với quyền kiểm soát độc chiếm ngoài lãnh thổ đối với cảng Sevastopol đã khơi dậy sự chống Nga quyết liệt trong tinh thần dân tộc của người dân Ukraine. Việc người Ukraine tự định nghĩa đặc tính quốc gia của mình trong giai đoạn hình thành quan trọng trong lịch sử nhà nước mới, do đó đã được lái khỏi định hướng chống Ba Lan hoặc chống Romania truyền thống, thay vào đó tập trung vào việc phản đối bất kỳ đề xuất nào của Nga về một CIS thống nhất hơn, cho một cộng đồng người Slav đặc biệt (với Nga và Belarus), hoặc cho một Liên minh Á-Âu và giải đoán chúng thành các chiến thuật đế quốc của Nga.
Quyết tâm giữ gìn độc lập của Ukraine được khuyến khích nhờ những hỗ trợ từ bên ngoài. Mặc dù ban đầu, phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã nhận diện chậm trễ tầm quan trọng địa chính trị của một quốc gia Ukraine độc lập, nhưng đến giữa những năm 1990, cả Mỹ và Đức đã trở thành những người ủng hộ mạnh mẽ cho một bản sắc Kiev riêng biệt. Vào tháng 7 năm 1996, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ còn tuyên bố, “tôi không hề đánh giá quá cao tầm quan trọng của Ukraine như một quốc gia độc lập đối với an ninh và ổn định của toàn châu Âu,” thì đến tháng 9, thủ tướng Đức, bất chấp sự ủng hộ mạnh mẽ của mình dành cho Tổng thống Yeltsin, thậm chí đã tiến xa hơn khi tuyên bố rằng “vị trí vững chắc của Ukraine ở châu Âu không còn bị bất kỳ ai thách thức… Không ai còn có thể gây hấn với nền độc lập và tính chính danh lãnh thổ của Ukraine được nữa.” Các nhà hoạch định chính sách Mỹ cũng nhận rõ và mô tả mối quan hệ Mỹ-Ukraine là “mối quan hệ chiến lược”, cố tình dùng cụm từ gần giống với cụm mô tả mối quan hệ Nga-Mỹ.
Không có Ukraine, thì như đã nhắc đến ở trên, sự phục hồi chủ nghĩa đế quốc dựa theo CIS hoặc theo chủ nghĩa Á-Âu không còn là một lựa chọn khả thi. Một đế chế không có Ukraine sẽ có nghĩa là một nước Nga trở nên nghiêng về châu Á và xa rời châu Âu hơn. Ngoài ra, chủ nghĩa Á-Âu cũng không đặc biệt lôi cuốn người Trung Á mới có được độc lập, ít người trong số họ háo hức với một liên minh mới với Moscow. Uzbekistan trở nên đặc biệt quyết đoán trong việc hỗ trợ Ukraine phản đối bất kỳ bước tiến nào nhằm nâng CIS lên thành một thực thể siêu quốc gia và chống lại các sáng kiến được Nga thiết kế để tăng cường CIS.
Các quốc gia CIS khác, cũng cảnh giác với các ý đồ của Moscow, có xu hướng tập trung xung quanh Ukraine và Uzbekistan trong việc chống lại hoặc trốn tránh áp lực hội nhập chính trị và quân sự chặt chẽ hơn đến từ Moscow. Thêm vào đó, ý thức về tinh thần dân tộc ngày càng sâu sắc ở hầu hết các quốc gia mới, một ý thức ngày càng tập trung vào việc từ chối sự phục tùng trong quá khứ với Moscow như chủ nghĩa thực dân và xóa bỏ đi phần lớn các di sản của nó. Do đó, ngay cả Kazakstan dễ bị tổn thương về mặt dân tộc cũng cùng các quốc gia Trung Á khác từ bỏ bảng chữ cái Cyrillic và thay bằng bảng chữ cái Latin như cải cách trước đó ở Thổ Nhĩ Kỳ. Trên thực tế, vào giữa những năm 1990, một khối lặng lẽ gồm Uzbekistan, Turkmenistan, Azerbaijan, đôi khi có cả Kazakstan, Georgia và Moldova do Ukraine lãnh đạo đã nổi lên một cách không chính thức để cản trở việc Nga nỗ lực sử dụng CIS làm công cụ hối thúc hội nhập chính trị.
Việc Ukraine khăng khăng chỉ hội nhập kinh tế hạn chế và tổng quát đã có tác dụng xa hơn trong việc tước bỏ quan niệm về một “Liên minh cộng đồng Slav” theo bất kỳ ý nghĩa thực tế nào. Vốn được một số người “cuồng si” chất Slav tuyên truyền và có thêm sự ủng hộ của Aleksandr Solzhenitsyn9, ý tưởng này đã tự động trở nên vô nghĩa về mặt địa chính trị một khi nó bị Ukraine khước từ. Ở bên Nga giờ chỉ còn lại Belarus, cùng một phân vùng khả dĩ các khu vực phía bắc có đông người Nga thuộc Kazakstan là có khả năng trở thành một phần của liên minh dân tộc này. Quả là một lựa chọn không thể làm yên lòng những nhà cầm quyền mới của Kazakstan, và nó chỉ làm gia tăng sức ép chống Nga khơi từ chủ nghĩa dân tộc ở nước họ. Còn tại Belarus, một liên minh cộng đồng Slav không có Ukraine không có ý nghĩa gì mấy cho việc sáp nhập vào nước Nga, theo đó cũng gây ra nhiều cảm giác bất ổn là sẽ gây phẫn nộ cho các tinh thần chủ nghĩa dân tộc.
Những trở ngại bên ngoài đối với chính sách “liên kết với láng giềng” của chính phủ Nga đã được củng cố mạnh mẽ qua một sự bó buộc nội bộ quan trọng: tâm trạng của người dân Nga. Bất chấp luận điệu khoa trương và kích động chính trị trong giới lãnh đạo liên quan đến sứ mệnh đặc biệt của Nga trong không gian của đế chế cũ, người dân Nga - phần nào vừa thoát khỏi trạng thái kiệt lực và cũng không còn tuân theo thuần túy một hệ ý thức chung nữa - chẳng mấy mặn mà đối với bất kỳ chương trình phục hồi đế chế tham vọng nào. Họ ủng hộ biên giới mở, thương mại mở, tự do đi lại và địa vị đặc biệt cho nơi đâu có dùng tiếng Nga, nhưng về hội nhập chính trị, đặc biệt là nếu liên quan đến chi phí kinh tế hoặc đòi hỏi phải đổ máu, thì lời kêu gọi lại thu về chẳng bao nhiêu phản hồi hào hứng. Sự tan rã của “liên bang” gây nuối tiếc, sự phục hồi của nó được ưa thích; nhưng phản ứng của công chúng đối với cuộc chiến ở Chechnya chỉ ra rằng bất kỳ chính sách nào vượt ra ngoài việc áp dụng đòn bẩy kinh tế và/hoặc áp lực chính trị sẽ thiếu sự ủng hộ rộng rãi.
Nói tóm lại, sự bất cập địa chính trị cơ bản của chính sách “liên kết với láng giềng” là Nga không đủ mạnh về mặt chính trị để áp đặt ý chí và không đủ hấp dẫn về mặt kinh tế để có thể thu hút các quốc gia mới. Áp lực của Nga chỉ khiến họ tìm kiếm nhiều mối quan hệ bên ngoài hơn, trước hết là với phương Tây, nhưng trong một số trường hợp là với Trung Quốc và các quốc gia Hồi giáo quan trọng ở phía nam. Khi Nga đe dọa sẽ thành lập khối quân sự của riêng mình để đáp trả NATO mở rộng, câu hỏi đặt ra là: “Có những ai tham gia [cùng Nga]?” Và câu trả lời nhận được còn đau đớn hơn: cùng lắm thì chỉ có thể là Belarus và Tajikistan.
Các quốc gia mới ngày càng có xu hướng không tin tưởng các hình thức hội nhập kinh tế hoàn toàn chính đáng và cần thiết với Nga, vì sợ hậu quả chính trị tiềm tàng kèm theo. Đồng thời, các khái niệm về sứ mệnh Á-Âu và về một chất Slav huyền bí của Nga chỉ khiến Nga bị cách ly khỏi châu Âu và, theo cái nhìn chung của phương Tây, qua đó sẽ kéo dài thêm cuộc khủng hoảng hậu Xô Viết, trì hoãn việc hiện đại hóa và phương Tây hóa cần thiết của xã hội Nga nếu so sánh với những gì Kemal Atatürk10 đã làm được ở Thổ Nhĩ Kỳ sau khi Đế chế Ottoman tan rã. Do đó, lựa chọn “liên kết với láng giềng” không hề mang đến cho Nga một giải pháp địa chính trị mà chỉ là một ảo tưởng địa chính trị.
Nếu không thể là một liên minh chung với Mỹ và cũng không thể là “liên kết với láng giềng”, thì còn lựa chọn địa chiến lược nào khác được mở ra cho Nga? Sự thất bại của định hướng thân phương Tây nhằm thiết lập thế cân bằng với Mỹ trên bình diện toàn cầu cho một “nước Nga dân chủ”, thứ vốn chỉ là một khẩu hiệu thay vì sự thực, đã gây ra nỗi thất vọng giữa các nhà dân chủ, trong khi việc thừa nhận miễn cưỡng rằng “sự tái hợp nhất” của đế chế cũ ít nhất cũng là một khả năng xa xôi đã cám dỗ một số nhà địa chính trị Nga đùa nghịch với ý tưởng về một số loại đối trọng nhằm vào vị trí bá quyền của Mỹ ở Á-Âu.
Đầu năm 1996, Tổng thống Yeltsin đã có thay đổi đối với chiếc ghế ngoại trưởng, kế nhiệm ông Kozyrev thân phương Tây là cựu chuyên gia quốc tế thời Xô Viết giàu kinh nghiệm Evgenniy Primakov, người có mối quan tâm lâu dài dành cho Iran và Trung Quốc. Một số nhà bình luận Nga đã suy đoán rằng định hướng của Primakov có thể tạo ra một nỗ lực nhằm thành lập một liên minh “chống bá quyền” mới, được hình thành xung quanh ba cường quốc với cổ phần địa chính trị lớn nhất trong việc giảm thiểu địa vị thống trị của Mỹ ở lục địa Á-Âu. Những chuyến đi và ý kiến ban đầu của Primakov đã củng cố cảm tưởng đó. Thêm nữa, mối quan hệ Trung-Iran hiện hữu trong buôn bán vũ khí cũng như xu hướng hợp tác với Nga trong lúc Iran nỗ lực gia tăng khả năng tiếp cận năng lượng hạt nhân dường như đã cung cấp đủ thiên thời-địa lợi-nhân hòa cho một cuộc đối thoại chính trị gần gũi hơn và cuối cùng là một liên minh. Ít nhất về mặt lý thuyết, kết quả của việc này có thể giúp mang lại với nhau cường quốc Slav hàng đầu thế giới, cường quốc Hồi giáo mạnh nhất thế giới cùng cường quốc châu Á đông dân nhất và quyền lực nhất thế giới, để từ đó tạo ra một liên minh hùng mạnh.
Điểm khởi đầu cần thiết cho bất kỳ lựa chọn đối kháng nào như vậy cần gắn kết với việc đổi mới kết nối song phương Trung-Nga, tận dụng sự bất đồng giữa giới lãnh đạo chính trị của cả hai quốc gia về việc Mỹ trỗi dậy và nắm giữ địa vị siêu cường toàn cầu duy nhất. Đầu năm 1996, Yeltsin tới Bắc Kinh, ký một tuyên bố tố cáo rõ ràng khuynh hướng “bá quyền” toàn cầu, qua đó ngụ ý rằng hai quốc gia sẽ liên minh để chống lại Hoa Kỳ. Tháng 12, thủ tướng Trung Quốc, Lý Bằng, đã viếng thăm đáp lại Nga và cả hai bên không chỉ nhắc lại sự phản đối của họ đối với một hệ thống quốc tế “do một cường quốc thống trị” mà còn tán thành việc củng cố liên minh hiện có giữa đôi bên. Giới bình luận Nga hoan nghênh bước phát triển này, coi đây là một sự thay đổi tích cực trong mối tương quan quyền lực toàn cầu và là phản ứng thích hợp trước việc Mỹ hậu thuẫn mở rộng NATO. Thậm chí, một số người còn lớn tiếng hả hê rằng liên minh Trung-Nga sẽ giáng cho nước Mỹ sự trừng phạt thích đáng.
Tuy nhiên, một liên minh liên kết Nga với cả Trung Quốc và Iran chỉ có thể phát triển nếu Hoa Kỳ đủ thiển cận và quyết định đối kháng đồng thời với cả Trung Quốc và Iran. Chắc chắn, hướng đi khả dĩ đó không thể bị loại trừ, và hành vi của Mỹ vào giai đoạn 1995-1996 dường như phù hợp với quan niệm cho rằng Hoa Kỳ đang tìm kiếm một mối quan hệ đối kháng với cả Teheran và Bắc Kinh. Tuy nhiên, cả Iran và Trung Quốc đều không chuẩn bị sẵn sàng cho chiến lược gắn kết với một nước Nga vừa bất ổn vừa yếu. Cả hai nhận ra rằng bất kỳ một liên minh nào như vậy, một khi nó vượt ra ngoài một số phối hợp chiến thuật bất ngờ, sẽ gây rủi ro cho chính họ khi tiếp cận thế giới tiến bộ hơn, với nguồn đầu tư dồi dào và với công nghệ tiên tiến thiết yếu. Nga có quá ít thứ đưa ra trao đổi để trở thành đối tác thực sự xứng đáng trong một liên minh chống bá quyền.
Trên thực tế, thiếu đi một ý thức hệ chung và được thống nhất chỉ bằng mong muốn “chống bá quyền”, bất kỳ liên minh nào như vậy về cơ bản chỉ là một liên minh của một bộ phận thuộc thế giới thứ ba chống lại các thành phần tiên tiến nhất của thế giới thứ nhất. Không thành viên nào trong nhóm này có thể thu được gì nhiều, đặc biệt là Trung Quốc có nguy cơ mất đi dòng vốn đầu tư khổng lồ. Nga cũng vậy, “mộng tưởng một liên minh Nga-Trung… sẽ làm gia tăng nguy cơ Nga một lần nữa bị giới hạn khỏi công nghệ và vốn của phương Tây,” như một nhà địa chính trị lớn của Nga lưu ý11. Dàn xếp này cuối cùng sẽ buộc tất cả những bên tham gia, dù là hai hoặc ba thành viên, cùng rơi vào vòng cô lập và lạc hậu dài hạn.
Hơn nữa, Trung Quốc sẽ là một đối tác cấp cao trong bất kỳ nỗ lực nghiêm túc nào của Nga nhằm hình thành nên một liên minh “chống bá quyền”. Vốn đã trở nên đông dân hơn, công nghiệp hóa hơn, đổi mới hơn, năng động hơn và chứa đựng một số dự tính lãnh thổ tiềm năng tại Nga, Trung Quốc chắc chắn sẽ buộc Nga chỉ còn giữ được tư cách của một đối tác cấp cơ sở, nhưng đồng thời nó cũng thiếu phương tiện (và biết đâu là thiện chí) để giúp Nga vượt qua sự lạc hậu. Do đó, Nga sẽ trở thành vùng đệm giữa châu Âu đang mở rộng và một Trung Quốc đang bành trướng.
Cuối cùng, một số chuyên gia đối ngoại Nga tiếp tục nuôi hy vọng rằng sự bế tắc trong hội nhập châu Âu, bao gồm cả những bất đồng nội bộ của phương Tây về hình dạng tương lai của NATO, có thể tạo ra một số cơ hội có tính toán cho cuộc “tán tỉnh” Nga-Đức hoặc Nga-Pháp, cả hai trường hợp đều có hại cho liên kết xuyên Đại Tây Dương giữa châu Âu và Mỹ. Viễn cảnh này hầu như không mới, vì trong suốt Chiến tranh Lạnh, Moscow từng nhiều lần thử chơi con bài Đức hoặc Pháp. Tuy nhiên, không phải vô lý khi một số nhà địa chính trị của Moscow đã tính toán rằng bế tắc trong các vấn đề châu Âu có thể tạo ra những lỗ hổng chiến thuật có thể tận dụng được để khai thác nhược điểm của Mỹ.
Nhưng đó là tất cả những gì thu được: toàn bộ là những lựa chọn chiến thuật. Cả Pháp và Đức đều không thể từ bỏ liên kết với Mỹ. Một cuộc “tán tỉnh” không thường xuyên, đặc biệt với người Pháp và tập trung vào một số vấn đề hẹp không thể được loại trừ, nhưng một sự đảo ngược địa chính trị của các liên minh sẽ chỉ xảy ra do một biến động lớn trong các vấn đề nội bộ của châu Âu, một sự đổ vỡ của một châu Âu thống nhất và của các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương. Ngay cả khi đó, nhiều khả năng các quốc gia châu Âu sẽ không có ý định theo đuổi một liên kết địa chính trị thực sự toàn diện với một nước Nga mất phương hướng.
Do đó, không có lựa chọn đối nghịch nào, trong phân tích cuối cùng, đưa ra một giải pháp thay thế khả thi. Giải pháp cho các tình huống khó xử địa chính trị mới của Nga sẽ không được tìm thấy trong sự đối nghịch, cũng sẽ không xuất hiện thông qua ảo tưởng về mối quan hệ đối tác chiến lược bình đẳng với Mỹ hoặc trong nỗ lực tạo ra một cấu trúc “nguyên vẹn” về mặt chính trị và kinh tế mới trong không gian trước đây của Liên Xô cũ. Tất cả chỉ để né tránh lựa chọn duy nhất mà thực tế đã mở ra cho Nga.
MỘT GIẢI PHÁP THAY THẾ KHÓ XỬ
Sự lựa chọn địa chiến lược thực tế duy nhất cho Nga - lựa chọn có thể mang lại cho Nga một vai trò quốc tế thực tế và cũng tối đa hóa cơ hội chuyển đổi và hiện đại hóa xã hội của chính mình - là châu Âu. Và không chỉ châu Âu, mà cả châu Âu xuyên Đại Tây Dương của EU và NATO đang mở rộng. Một châu Âu như vậy đang hình thành (như chúng ta đã thấy trong Chương 3) và nhiều khả năng vẫn liên kết chặt chẽ với Mỹ. Đó là châu Âu mà Nga buộc phải quan hệ nếu muốn tránh mối nguy bị cô lập địa chính trị.
Đối với Mỹ, Nga quá yếu để trở thành đối tác nhưng vẫn quá mạnh để bị xem như một “bệnh nhân”. Điều này nhiều khả năng trở thành một vấn đề, trừ khi Mỹ thúc đẩy các điều kiện bối cảnh nhằm thuyết phục người Nga rằng sự lựa chọn tốt nhất cho đất nước của họ là một kết nối ngày càng có tổ chức với một châu Âu xuyên Đại Tây Dương. Mặc dù một liên minh chiến lược Nga-Trung và Nga-Iran dài hạn là không thể, nhưng rõ ràng điều quan trọng đối với Mỹ là né tránh các chính sách có thể khiến Nga mất tập trung trong việc thực hiện lựa chọn địa chính trị cần thiết. Trong phạm vi có thể, mối quan hệ của Mỹ với Trung Quốc và Iran, do đó, nên được thiết lập sao cho có thể tạo ra những tác động ghi nhận được lên các tính toán địa chính trị của Nga. Những ảo tưởng kéo dài liên quan đến các lựa chọn địa chiến lược lớn chỉ có thể làm trì hoãn lựa chọn lịch sử mà Nga phải đưa ra hòng chấm dứt tình trạng bất ổn sâu sắc.
Chỉ có một nước Nga sẵn sàng chấp nhận thực tế mới của châu Âu, cả về kinh tế và địa chính trị, mới có thể thu lợi cho chính mình từ sự hợp tác mở rộng trong thương mại, truyền thông, đầu tư và giáo dục của một châu Âu xuyên lục địa. Do đó, việc Nga tham gia vào Hội đồng châu Âu là một bước đi rất đúng hướng. Đó là sự báo trước các liên kết thiết chế sâu xa hơn giữa một nước Nga mới và châu Âu đang phát triển. Nó cũng ngụ ý rằng nếu Nga theo đuổi con đường này, họ sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc bắt chước quá trình mà Thổ Nhĩ Kỳ thời hậu Ottoman đã chọn, khi người Thổ quyết định rũ bỏ tham vọng đế quốc và dấn thân nhiều vào con đường hiện đại hóa, châu Âu hóa và dân chủ hóa.
Không có lựa chọn nào khác có thể mang lại cho Nga những lợi ích mà một châu Âu hiện đại, giàu có và dân chủ được liên kết với Mỹ có thể làm. Châu Âu và Mỹ không phải là mối đe dọa đối với một nước Nga dân chủ và dân tộc chủ nghĩa không bành trướng. Cả hai đều không có ý đồ nào với lãnh thổ của Nga, điều mà Trung Quốc một ngày nào đó có thể có. Họ cũng không có chung một đường biên giới không an toàn có khả năng kích động bạo lực, một tình huống hoàn toàn khả dĩ với đường biên giới không rõ ràng về mặt lãnh thổ và dân tộc của Nga với các quốc gia Hồi giáo ở phía nam. Trái lại, đối với châu Âu cũng như đối với Mỹ, một nước Nga dân chủ và tràn đầy tinh thần dân tộc là một thực thể đáng kỳ vọng về mặt địa chính trị, một nguồn ổn định tại vùng đất hỗn hợp Á-Âu đầy biến động.
Do đó, Nga phải đối mặt với vấn đề nan giải rằng lựa chọn hướng về châu Âu và Mỹ để mang về những lợi ích hữu hình, đòi hỏi việc, trước hết, cần phải xóa bỏ hoàn toàn quá khứ đế quốc và thứ hai, không có sự tráo trở trong liên kết chính trị và an ninh của châu Âu mở rộng với Mỹ. Yêu cầu đầu tiên là phải thích nghi với sự đa nguyên địa chính trị đã chiếm ưu thế trong không gian của Liên Xô cũ. Việc thích nghi như vậy không loại trừ một sự hợp tác kinh tế thay thế mô hình Khu vực Thương mại Tự do châu Âu cũ, nhưng nó cũng không phủ hết được các giới hạn chủ quyền chính trị của các quốc gia mới - vì lý do đơn giản là họ không chấp nhận nó. Ở khía cạnh này, quan trọng nhất là tính cấp thiết của việc Nga chấp thuận rõ ràng và không mơ hồ sự tồn tại riêng biệt của Ukraine, về cả biên giới và bản sắc dân tộc.
Yêu cầu thứ hai có thể “khó nuốt” hơn. Một mối quan hệ hợp tác thực sự với cộng đồng xuyên Đại Tây Dương không thể dựa trên quan niệm cho rằng các quốc gia dân chủ ở châu Âu muốn trở thành một phần của nó có thể bị loại trừ vì một tiếng nói của Nga. Việc mở rộng cộng đồng đó không cần phải vội vàng, và chắc chắn không nên được quảng bá theo chủ đích chống Nga. Nhưng nó cũng không thể, và cũng không nên bị đình lại chỉ vì cái trật tự chính trị phản ánh khái niệm xưa cũ về quan hệ an ninh châu Âu. Một châu Âu mở rộng và dân chủ phải là một quá trình lịch sử với kết thúc mở, không chịu các giới hạn địa lý độc đoán về mặt chính trị.
Đối với nhiều người Nga, đến một lúc nào đó, nan đề về một giải pháp thay thế có thể trở nên phức tạp đến mức khó xử lý. Nó sẽ đòi hỏi một hành động mang ý chí chính trị mạnh mẽ và cũng có thể là một nhà lãnh đạo xuất sắc, có khả năng đưa ra lựa chọn và nói rõ tầm nhìn về một nước Nga dân chủ, dân tộc, thực sự hiện đại và thuộc châu Âu. Điều đó có thể không xảy ra trong một thời gian. Vượt qua các cuộc khủng hoảng hậu Xô Viết và hậu đế quốc sẽ không chỉ đòi hỏi nhiều thời gian hơn so với trường hợp chuyển đổi hậu Xô Viết ở Trung Âu mà còn phải có sự xuất hiện của một nhà lãnh đạo chính trị có tầm nhìn và ổn định. Nước Nga hiện không có một Atatürk nào cả. Tuy nhiên, người Nga cuối cùng sẽ phải nhận ra rằng việc tái xác định quốc gia của Nga không phải là một hành động đầu hàng mà là một sự giải phóng12. Họ sẽ phải chấp nhận rằng những gì Yeltsin đã nói ở Kiev năm 1990 về một tương lai phi đế quốc cho nước Nga là hoàn toàn đúng đắn. Và một nước Nga thực sự phi đế quốc vẫn sẽ là một cường quốc, trải dài khắp Âu-Á, và vẫn là đơn vị có lãnh thổ lớn nhất thế giới.
Trong mọi trường hợp, việc tái xác định “Nga là gì?” và “Đâu là Nga?” có thể sẽ chỉ xảy ra theo từng giai đoạn và đòi hỏi một cử chỉ chắc chắn và khôn ngoan hướng về phương Tây. Mỹ và châu Âu sẽ phải giúp đỡ. Họ không chỉ cung cấp cho Nga một hiệp ước hay điều lệ đặc biệt với NATO, mà họ cũng nên bắt đầu quá trình mở rộng với Nga về việc hình thành một hệ thống an ninh và hợp tác xuyên lục địa cuối cùng vượt ra khỏi cấu trúc lỏng lẻo của Tổ chức Hợp tác và An ninh ở châu Âu (OSCE - Organization for Security and Cooperation in Europe). Và nếu Nga củng cố các thiết chế dân chủ nội bộ của mình và đạt được tiến bộ rõ rệt trong việc phát triển kinh tế dựa trên thị trường tự do, thì không nên loại trừ mối quan hệ ngày càng gần gũi hơn với NATO và EU.
Đồng thời, điều quan trọng không kém đối với phương Tây, đặc biệt là Mỹ, là theo đuổi các chính sách duy trì tình trạng khó xử của phương án thay thế dành cho Nga. Sự ổn định chính trị và kinh tế của các quốc gia hậu Xô Viết mới là một yếu tố chính trong việc đòi hỏi Nga phải tự xác định lại tích lịch sử của chính mình. Do đó, sự hỗ trợ cho các quốc gia hậu Xô Viết mới - cho chủ nghĩa đa nguyên địa chính trị trong không gian của đế chế Xô Viết trước đây - phải là một phần không thể thiếu trong chính sách được thiết kế nhằm thúc đẩy Nga dứt khoát đưa ra lựa chọn châu Âu của mình. Trong số các quốc gia này, có ba quốc gia đặc biệt quan trọng về địa chính trị: Azerbaijan, Uzbekistan và Ukraine.
Một Azerbaijan độc lập có thể đóng vai trò một hành lang cho phương Tây tiếp cận lưu vực Biển Caspi và Trung Á giàu nguồn năng lượng. Ngược lại, một Azerbaijan bị khuất phục có nghĩa là Trung Á có thể bị phong tỏa khỏi thế giới bên ngoài và do đó dễ bị tổn thương về mặt chính trị trước những áp lực của Nga về việc tái hợp nhất. Uzbekistan, quốc gia quan trọng nhất và đông dân nhất trong số các quốc gia Trung Á, đại diện cho một trở ngại lớn đối với bất kỳ sự tái kiểm soát mới nào của Nga đối với khu vực. Sự độc lập của nó rất quan trọng đối với sự tồn tại của các quốc gia Trung Á khác, và nó ít bị tổn thương nhất trước áp lực của Nga.
Dẫu vậy, quan trọng nhất vẫn là Ukraine. Khi EU và NATO mở rộng, Ukraine cuối cùng sẽ ở vào vị thế phải lựa chọn liệu họ có muốn trở thành một phần của một trong hai tổ chức hay không. Có khả năng, để củng cố vị thế riêng biệt của mình, Ukraine sẽ muốn tham gia cả hai, một khi họ sáp vào và một khi việc chuyển dịch nội bộ khiến họ hội đủ điều kiện để trở thành thành viên. Mặc dù sẽ mất nhiều thời gian nhưng cũng không còn quá sớm để phương Tây - trong khi tăng cường hơn nữa mối quan hệ kinh tế và an ninh với Kiev - xác định giai đoạn 2005-2015 là khung thời gian hợp lý cho bước khởi đầu để Ukraine hòa nhập vào quá trình tiến bộ, nhờ đó giảm nguy cơ người dân nước này e sợ rằng sự mở rộng của châu Âu sẽ chỉ dừng lại ở biên giới Ba Lan-Ukraine.
Nga tuy vẫn phản đối nhưng có khả năng sẽ thông qua việc mở rộng NATO vào năm 1999 và bao gồm một số nước Trung Âu, bởi vì khoảng cách văn hóa và xã hội giữa Nga và Trung Âu đã nới rộng rất nhiều kể từ khi Liên Xô tan rã. Ngược lại, Nga sẽ thấy khó khăn vô cùng khi bằng lòng cho Ukraine gia nhập NATO, vì làm như vậy sẽ phải thừa nhận rằng vận mệnh của Ukraine không còn liên quan cố kết với Nga nữa. Tuy nhiên, nếu Ukraine tồn tại như một quốc gia độc lập, họ sẽ phải trở thành một phần của Trung Âu chứ không phải Á-Âu, và nếu là một phần của Trung Âu thì họ sẽ phải tham gia đầy đủ các liên kết của Trung Âu với NATO và EU. Sau đó, việc Nga chấp nhận các liên kết này sẽ xác thực quyết định của chính nước Nga xem liệu họ có thực sự trở thành một phần của châu Âu hay không. Sự từ chối của Nga tương đương với sự từ chối của châu Âu, đều là ủng hộ một bản sắc và sự tồn tại “Á-Âu” đơn độc.
Điểm mấu chốt cần lưu ý là Nga không thể ở trong châu Âu không có Ukraine, nhưng Ukraine lại có thể là một phần của châu Âu không có Nga. Giả sử Nga quyết định gia nhập châu Âu, thì theo sau đó, vì lợi ích của chính nước Nga mà Ukraine cũng được đưa vào cấu trúc châu Âu đang mở rộng. Thật vậy, mối quan hệ của Ukraine với châu Âu có thể là bước ngoặt đối với chính nước Nga. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là thời điểm xác định mối quan hệ giữa Nga với châu Âu cần thêm một thời gian nữa - “xác định” ở đây hiểu theo nghĩa lựa chọn của Ukraine có lợi cho châu Âu sẽ khiến Nga xác quyết về giai đoạn lịch sử tiếp theo của chính mình: hoặc trở thành một phần của châu Âu hoặc trở thành một “cá thể” Á-Âu bị ruồng bỏ, không hoàn toàn là châu Âu hay châu Á, bị sa lầy trong các cuộc xung đột với “láng giềng”.
Hy vọng rằng mối quan hệ hợp tác giữa một châu Âu và Nga đang mở rộng có thể chuyển từ các liên kết song phương chính thức sang các mối quan hệ kinh tế, chính trị và an ninh có hệ thống và ràng buộc hơn. Theo cách đó, trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ tiếp theo, Nga ngày càng có thể trở thành một phần không thể thiếu của một châu Âu bao trùm không chỉ Ukraine mà còn vươn tới dãy Ural và thậm chí xa hơn. Một hiệp hội hoặc thậm chí một số hình thức thành viên của Nga trong các cấu trúc châu Âu và xuyên Đại Tây Dương sẽ lần lượt mở ra cánh cửa để tính thêm vào đó ba quốc gia vùng Caucasus là Georgia, Armenia và Azerbaijan vốn đang rất khao khát được kết nối với châu Âu.
Thật khó lòng dự đoán quá trình đó có thể đi nhanh đến nhường nào, nhưng có điều này là chắc chắn: nó sẽ nhanh hơn nếu bối cảnh địa chính trị được định hình vừa đẩy Nga đi theo hướng đó vừa xua đuổi các cám dỗ khác. Nếu Nga tiến càng nhanh về châu Âu, “hố đen” Á-Âu sẽ càng sớm được lấp đầy bằng một xã hội ngày càng hiện đại và dân chủ. Thật vậy, đối với Nga, vấn đề nan giải của lựa chọn thay thế không còn là vấn đề đưa ra lựa chọn địa chính trị mà là đối mặt với các nhu cầu sinh tồn.
* * *
1. Trích từ bài “Our Security Predicament” (Chẩn bệnh an ninh của chúng ta), Foreign Policy 88 (Mùa thu năm 1992):60.↩︎
2. Aleksandr Prokhanov, “Tragedy of Centralism” (Bi kịch của chủ nghĩa toàn trị), Literatumaya Rossiya, tháng 2-1990, tr. 4-5.↩︎
3. Bài phỏng vấn trên tờ Rossiyskaya Gazeta, ngày 12-1-1992.↩︎
4. Nguyên văn: mature strategic partnership; từ “mature” trong bối cảnh này có thể hiểu là chín muồi, đủ độ chín. (BT)↩︎
5. A. Bogaturov và V. Kremenyuk (cả hai đều là chuyên gia cao cấp của Viện Mỹ và Canada), bài “The Americans Themselves Will Never Stop” (Người Mỹ sẽ không bao giờ tự họ dừng lại), Nezavisismaya Gazeta, ngày 28-6-1996.↩︎
6. Lấy ví dụ, đến cả cố vấn hàng đầu của ông Yeltsin, Dmitryi Ryurikov, được tờ Interfax (ngày 20-11-1996) trích dẫn rằng ông xem Ukraine “như một thực thể tạm thời”, trong khi tờ Obshchaya Gazeta (ngày 10-12-1995) dẫn tin “trong những sự kiện tương lai thấy trước được ở miền Đông Ukraine có lẽ đã cho nước Nga một vấn đề rất khó chịu. Những biểu thị bất mãn trên diện rộng… rồi sẽ dẫn đến những thôi thúc khiến Nga, hay thậm chí là cho nước này những đòi hỏi, đoạt lấy quyền kiểm soát khu vực. Có kha khá người ở Moscow sẵn lòng ủng hộ những kế hoạch này.” Những mối quan ngại từ phương Tây dành cho trù tính của Nga chắc chắn không yên được trước những yêu sách của Nga đối với Crimea và Sevastopol, cũng như những hành động gây hấn của truyền hình Nga vào cuối năm 1996 khi họ đã tính gộp luôn Sevastopol vào lãnh thổ nước này trên các chương trình dự báo thời tiết về đêm ở các thành phố Nga.↩︎
7. Izvestia: tồn tại như một tờ báo quốc gia của Liên bang Nga, có số lượng phát hành cao ở Nga. (BT)↩︎
8. Bài phỏng vấn trên L’Espresso (Rome), ngày 15-7-1994.↩︎
9. Aleksandr Solzhenitsyn (1918-2008): nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch người Nga, được trao giải Nobel Văn chương năm 1970. Các tác phẩm nổi tiếng của ông có tiểu thuyết Một ngày trong cuộc đời Ivan Denisovich, Tháng Tám năm 1914, tập thơ Những đêm Phổ… (BT)↩︎
10. Mustafa Kemal Atatürk (1881-1938): chính trị gia và người sáng lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ (kéo theo sau sự tan rã của Đế chế Ottoman), trở thành tổng thống đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1923 cho đến khi qua đời. Ở Việt Nam đã có bản dịch cuốn sách Atatürk: Người khai sinh nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại (Nxb. Thế Giới, năm 2015) của tác giả Andrew Mango viết về cuộc đời ông. (BT)↩︎
11. Aleksei Bogaturov, “Current Relations and Prospects for Interaction Between Russia and the United States” (Những quan hệ hiện thời và triển vọng tương tác giữa Nga và Hoa Kỳ), Nezavisimaya Gazeta, ngày 28-6-1996.↩︎
12. Đầu năm 1996, Tướng Aleksandr Lebed đăng một bài báo đáng chú ý phân tích xuyên suốt vấn đề này (“The Fading of Empire or the Rebirth of Russia” (Sự lu mờ của Đế chế hay sự hồi sinh của nước Nga), Segodnya, ngày 26-4-1996).↩︎