Hồi Ức Chiến Trường K - Chương 15
Chương 6 Lên chốt
* * *
Cũng phải nằm mãi tôi mới ngủ được, sáng hôm sau dậy muộn, anh em đi lấy cơm trên anh nuôi về phải gọi mới chịu dậy. Tôi với thằng Bình ra mương đánh răng rửa mặt rồi mới chịu vào ăn cơm, công tử quen rồi để một sớm một chiều làm quen được ngay với cuộc sống lính cũng đâu phải dễ. Anh em vẫn ngồi nhìn chậu cơm chờ 2 thằng chúng tôi, có vẻ anh em dửng dưng với chuyện cơm nước, một chậu cơm đầy trắng tinh, cá nục to xắt khúc kho khô.
Chúng tôi ngồi ăn với nhau, người trong lán, kẻ đứng ngoài chẳng ra mâm ra bát nhưng anh em vẫn chờ nhau vì dù sao đây cũng là bữa cơm đầu tiên của B với nhau. Vừa ăn vừa nói chuyện, giới thiệu tên tuổi quê quán của nhau, cũng không nhiều, thêm 2 thằng chúng tôi là 7 và 2 người nữa hiện đi vắng trong đội hình của B2, như vậy chúng tôi có 9 người tất cả, một quân số mà tôi không thể nghĩ ra tại sao lại ít như vậy, trong bụng vẫn nghĩ B của mình phải vài ba chục người chứ.
B2 vừa qua trận đánh ngày 26.9.1978 với nhiều thương vong, cả B hy sinh 3 người bị thương 2 người trong số đó có anh em vừa về đơn vị chưa được nổi 12h đồng hồ, họ là người của đoàn Thái bình mà chúng tôi đã gặp trên E mấy ngày trước. Thì ra khi họ về đơn vị dưới D chiều hôm đó và sáng sớm hôm sau đã tham dự ngay trận đầu. Anh em đó sang K trước chúng tôi 1 ngày, họ là những người thiếu may mắn hơn chúng tôi.
Trong B của tôi có thằng Bích và thằng Thanh đều là lính Thái bình còn sót lại sau trận 26.9 đó. Thằng Thanh nhận ra tôi ngay từ sáng sớm nay khi tôi còn đang ngủ, nó thật sự cảm mến tôi khi chúng tôi cùng ở chung trên cái nhà sàn đó, phong cách giao tiếp với anh em, mời anh em Thái bình qua chung vui bên ấm trà, thấy anh em Hà Nội nể trọng tôi nên nó cũng để ý, không ngờ hôm nay đây tôi và nó lại có điều kiện sống gần nhau và ngày mai sẽ chiến đấu bên nhau.
Nó hăng hái đi rửa bát đũa cho cả B và nấu một nồi nước to bằng cái vỏ thùng, nó nhanh nhảu giải thích cho tôi là dùng để lau súng cho cả 2 thằng chúng tôi, tôi chưa hiểu gì cả, lau súng thì dùng giẻ sao lại bằng nước sôi. Anh Xuyên tranh thủ dắt 2 thằng ra ngoài địa hình giới thiệu cho chúng tôi, bây giờ tôi mới có thể nhìn lại cái nơi B2 chúng tôi đang ở.
Một khu đất tương đối bằng phẳng với những bụi cây chung quanh bên trong có nhiều cây xoài và hình như nơi đây trước kia là cái nhà ở đây, một khu vườn nhà độc lập nằm giữa ruộng, 3 bề 4 bên ruộng nước với những bờ thửa đan dày nhằng nhịt. Trước mặt rất xa và trắng trơn toàn nước là sông Svay rieng, 2 bên lên cao một chút là 2 chốt của C1 và C3 của D7 chúng tôi. Vậy là C2 chúng tôi đang nằm ở giữa hơi lùi lại một chút với 2 C đó, địch có thể luồn vào đây từ 2 sườn hoặc trước mặt C2, sau lưng rất xa có thể đến 400m hoặc hơn nữa là C5 hỏa lực của D7 và C bộ của C2.
Chúng tôi được chỉ bảo hầm hố rõ ràng, cấm đi lại lung tung, chỉ được đi trên đoạn đường đã biết, đã đi qua, không được mang súng ra bắn bậy..vv. Thời gian còn lại là chơi ăn và ngủ, ban ngày không cần gác nhưng đêm đến phải gác theo sự phân công trong B, vì quân số đông lên rồi nên sẽ gác làm 2 vọng gác để bảo đảm cho chính chúng ta, anh Xuyên sẽ trực tiếp chỉ bảo từng vị trí hay cách gác đêm khi đêm nay xuống và 2 thằng chúng tôi sẽ gác ca đầu trong đêm.
Thằng Thanh đã đun nồi nước sôi sùng sục, nó mở nylon ra, thì ra khẩu súng mới của tôi được bọc bởi vài kg mỡ bảo quản, mỡ đặc trong nòng súng đến bệ khóa nòng ổ đạn. Sau khi lau xong cho ra hết mỡ nó dùng nước sôi dội từ trên xuống dưới thân súng, từng bộ phận súng được nó tháo rời, cái gì nhỏ nó ném luôn vào nồi nước sôi xùng xục đó cho mỡ nhanh ra rồi dùng giẻ lau khô. Cũng rất nhanh, nửa giờ sau 2 khẩu súng mới nguyên của chúng tôi đã sạch sẽ, tôi thật sự sung sướng khi ngắm nhìn khẩu súng mới tinh ánh thép đen và cái báng súng vàng tươi .
Thằng Thanh rất vui vẻ nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi nó tỏ ra là người đàn anh, hiểu biết hơn nhường nhịn hơn trong tất cả mọi chuyện của B, lúc này đây nó mới tâm sự thật tại sao nó cư xử với chúng tôi như vậy? Chẳng có gì nhiều, nó cũng là số anh em ở chung với tôi trên cái nhà sàn đó trên E 209, thấy tôi hò hét anh em, rồi mời nó cùng anh em Thái bình qua uống trà, thấy tôi vui tính hay đùa biết san sẻ cùng anh em buồn vui nên nó khoái, điều nó cảm mến ở tôi nó để trong lòng và hôm nay vô tình chúng tôi ở bên nhau. Vậy mà hơn 2 năm sau tý nữa một lần tôi đưa nó về nghĩa trang Tây ninh nằm đấy, đã dí súng sát đầu nó định bóp cò nghĩ thế nào tôi đưa súng lên trời bóp cò, không ngờ trong buồng nòng vẫn còn 1 viên đạn K54, phát đạn nổ tôi hú vía, thằng Thanh giật mình ngã làm đổ chậu cơm của B còn tôi thì sợ mãi đến tận hôm nay.
Tối đó thằng Thanh tranh gác và đề nghị anh Xuyên cho 2 thằng chúng tôi được ngủ thêm hôm nay nữa, nó muốn chúng tôi được nghỉ ngơi thêm đêm nữa, thế là chúng tôi lại được một đêm nữa ngủ thẳng cẳng vô lo vô nghĩ. Bên tôi đã có thêm nhiều đồng đội khác muốn san sẻ cùng chúng tôi những bỡ ngỡ ban đầu và chúng tôi sống trong tình cảm của anh em trong B2 đầy yêu thương chan hòa đó.
Ngày hôm sau chúng tôi có lệnh chuẩn bị đêm nay lên thay chốt cho C3, cả ngày chuẩn bị súng đạn tư trang tối đến là lên đường. C đã có sự điều động lại quân số cho phù hợp với số hầm mà chúng tôi phải chốt giữ, tôi được điều qua B3 ở cùng hầm với B phó Phong Thái bình và anh Đấu người Huế. Lão này cùng với tôi là đồng hương, anh đã có vợ con ở quê, trước kia cũng làm công tác đoàn đội gì đó ở địa phương, lớn tuổi rồi nhưng đi nghĩa vụ quân sự sau tôi gần 1 tháng, thế là sau ít ngày tôi được thuyên chuyển đi khắp nơi theo sự điều động của đơn vị.
Chiều tối hôm sau chúng tôi lên thay chốt cho C3 trên cánh trái của D7 thẳng hướng tiểu đoàn lên. Trận địa chốt là cái mương theo chiều ngang vuông góc với con đường nhựa chạy về ngã 3 Chóp, bên trên chốt có một cái gò hơi nối lên khỏi mặt nước đó là hầm tiền tiêu, lính tráng chúng tôi ngụp lặn trong nước có chỗ nước cao hơn hầm, một trận địa chốt có 1 không 2 trong cuộc đời lính tình nguyện bên K của chúng tôi.
Khoảng 6h tối chúng tôi bắt đầu hành quân về C bộ, một cuộc hành quân ngược nhưng vẫn phải rút về hướng C bộ để phân công theo đội hình chốt, anh em từng nhóm về đây rất đông và ngay tức khắc tôi được phân công bám anh Phong đi lên chốt. Hướng trên chốt đã có người của C2 ở tuyến trên, chỉ cần chúng tôi lên theo con đường nhựa thẳng vào thị xã Svay riêng đó sẽ có người đón hơn nữa đi cùng anh Phong là người biết rất rõ tuyến chốt này không còn điều gì đáng ngại nữa.
Chúng tôi ra đến đường nhựa giữa đêm tối mưa bay bay, súng đạn trên vai bao xe trước ngực, từng cơn gió thổi mát trên đường chúng tôi đi, một cảm giác bồi hồi khó tả, từ giây phút này trở đi tôi đã là người lính chiến người lính canh giữ biên cương. Những cây thốt nốt lùi lại hết phía sau, trên chốt chỉ còn lại đồng ruộng chìm trong nước phất phơ vài cây lúa ngoi lên khỏi mặt nước, từng nhóm lính C2 lặng lẽ vào chốt, họ đi làm nhiều hướng lên chốt theo từng B và sự hiểu biết vị trí của từng B trưởng. Ở đâu không dám nói chứ chốt này anh em lính cũ thuộc như lòng bàn tay, họ đã vài ba lần lên xuống tại đây, các đơn vị lính bộ binh của D7 thay nhau chốt giữ 2 chốt này.
Chúng tôi tới bờ mương ngang thì rẽ trái cứ dọc bờ mương đi vào, một số anh em C3 đã thay chốt xong và họ đang trên đường quay ra họ rất phấn khởi sau 1 tháng 15 ngày trên chốt bây giờ được thay họ sẽ sinh hoạt thoải mái hơn sau nhiều ngày căng thẳng. Gặp nhau không chào không hỏi họ lặng lẽ đi, chúng tôi tránh nhau trên cái bờ mương nhỏ, nếu ai có nói gì với nhau thì cũng chỉ thì thầm nói. Địch cách vị trí chúng tôi nhiều nhất là 300m, đối diện bên kia là chốt địch, điểm gần nhất giữa hầm tiền tiêu của mình với chốt địch là khoảng 200m, một khoảng cách mà tử thần luôn ở giữa cho cả 2 bên bất kể lúc nào cũng có thể ghé thăm không báo trước. Trong đêm tối hình như đich thấy có điểm khác lạ bên này chốt nên thỉnh thoảng chúng bắn qua những tràng đạn dài từ những khẩu trung liên hay đại liên.
Ba anh em tôi vào thay vị trí hầm bên này bờ mương, thẳng cánh trái của C bộ C2 lên, từ hầm chúng tôi nhìn chéo về C bộ khoảng 250m. C bộ C2 nằm dưới bên kia bờ mương trong một ngôi nhà ngói đỏ trên sàn gỗ cao giữa một lùm cây rậm rạp với những cây dừa cao bên ngoài những cây thốt nốt, từ vị trí này có thể quan sát cả trận địa chốt C2 rất rõ. Hầm của chúng tôi nằm trong một ngôi nhà lá trên cái dãy nhà lá thẳng tắp bên này mương nước, bên kia bờ mương cũng vậy, đây là dãy nhà kiểu công xã loại bét của chế độ Pôn Pốt, nó tạm bợ đến mức nghèo nàn trên mức sống bình thường của một con người.
Bên trong cái nhà đó đã được lính Việt Nam chúng ta đắp thành cái hầm ngủ tránh đạn và một cái hầm chữ A tránh pháo kiên cố, đất được đắp dày chung quanh hầm, sàn gỗ kê cao hơn mặt nước 10cm ẩm thấp hôi hám. Hầm tránh đạn cao có thể ngồi được không chạm đầu, trần hầm cũng là chỗ ngồi nghỉ ăn cơm hay mọi sinh hoạt khác. Hầm tránh pháo chữ A thì nước ngập quá nửa ngay bên trái nhà gần cửa ra vào. Khi có biến động chúng tôi sẽ vận động trên cái cầu gỗ ra hố chiến đấu.
Hố chiến đấu là 3 cái chum bằng xi măng của dân cũ được đặt chìm xuống nước rồi đắp đất chung quanh không cho cái chum đó nổi lên, trên đắp bờ cao dày tránh đạn. Nếu tình huống xảy ra chúng tôi sẽ chiến đấu nổi trên mặt nước và điều chắc chắn kẻ địch thì ở dưới nước rồi. Tôi lội thử kiểm tra độ sâu của nước, đứng đến thắt lưng.
Trước mặt hầm của tôi là khoảng nước ngập mênh mông với những cây lúa mọc lên từ những gốc rạ chìm dưới nước, bên phải hầm là cái gò mỏng nghe nói xưa là cái chuồng bò cũ khi mùa nước lên với dăm cây thốt nốt với những cành lá khô treo lủng lẳng, những ngày gió thổi lá cào vào nhau nghe sột soạt. Tôi và anh Phong dùng súng AK có kèm theo vài quả M72 để bên hố chiến đấu còn anh Đấu thì vác khẩu B40. Trong 3 hố chiến đấu có mỗi hố 2 quả mìn Claymo dây điện màu nâu kéo về tận miệng chum chỉ cần bóp mạnh là nó sẽ nổ.
Anh em C3 bàn giao trận địa nhanh chóng rút về, anh em tôi phân công nhau gác, anh Phong gác trước rồi đến tôi sau tôi là anh Đấu rồi vòng lại lần thứ 2 thì trời sáng. Tôi thì chưa biết gì nhưng anh Phong và anh Đấu thì đã có nhiều kinh nghiệm rồi, ai cũng muốn gác cố thêm một chút cho đồng đội ngủ thêm chút nữa nên có hôm hết ca gác của tôi thì trời đã gần sáng. Anh em tôi ở với nhau như vậy, ngày thay nhau ngủ hoặc nói chuyện chơi, tối thay nhau gác, cuộc sống buồn tẻ hơn bao giờ hết. Thỉnh thoảng anh Phong bỏ đi sang hầm khác chơi cùng anh em.
Những lúc ngồi với nhau anh em chúng tôi bảo ban nhau nếu địch đánh vào cấm ai được bỏ chạy, nếu ai chạy sẽ bị chính đồng đội của mình hạ gục ngay và nếu không chịu được nữa bắt buộc phải bỏ chạy thì cả 3 anh em cùng chạy nhưng tôi mong rằng chúng tôi không phải bỏ chạy như vậy. Nhiều lần tôi đã tự nhủ với lòng mình nếu đánh nhau có chết thì thôi nhưng không thể bỏ chạy hay đầu hàng kẻ địch, giờ phút đầu tiên về đơn vị tôi đã được khuyến cáo cuộc chiến tranh này không có tù binh. Một cuộc chiến không khoan nhượng khi đánh, hoặc ta chết hoặc kẻ địch phải chết, đầu hàng kẻ địch thì coi như cái chết sẽ đến gấp 2 lần vì sự tàn bạo của kẻ thù, chúng không từ bỏ một hành động dã man nào đối với tù binh và chính quyền của chúng chẳng có cái luật nào đối với người bên kia giới tuyến.
Nói ngắn gọn là chúng tôi phải chiến đấu đến cùng và ở đó mới có con đường sống mà trở về. Hoặc nằm xuống như bao người hoặc trở về cũng như bao người khác đó là luật chiến tranh của biên giới Tây nam.
Hàng ngày, hàng đêm địch luôn bắn súng sang chốt của ta nhưng bên này thì không cho chúng tôi bắn lại, chỉ được bắn khi địch vào nên địch luôn ở thế áp đảo trên trận địa. Ta đưa mặt chịu trận còn địch thì chủ động trên trận địa, thỉnh thoảng trên tiền tiêu có phản kích lại nhưng rất yếu ớt rồi im hẳn. Địch luôn bắn cối 82ly vào hầm tiền tiêu, mỗi lần cối nổ lòng tôi xót hết cả ruột lo lắng cho những thằng bạn của tôi nằm trên đó, thằng Thắng và Hùng bên B1 đều trên đó cả còn tôi bên này coi như yên.
Khoảng 1 tuần đã có anh em trên hầm tiền tiêu bị thương được chuyển về nhưng lệnh không được bắn trả vẫn được ban bố. Ai có hiểu tình huống này thì hiểu nhưng riêng tôi lúc này thì không hiểu với tôi, mình nên ăn miếng trả miếng với kẻ địch, mình im lặng mãi như vậy không phải sợ tốn đạn bởi những thùng đạn dưới chân chúng tôi rỉ hoen rỉ hoét cũng cần bắn đi nếu không sẽ vứt bỏ. Nhưng lệnh vẫn là lệnh và chúng tôi phải chấp hành.